Đừng lo về quyền bá
chủ của Trung Hoa ở Châu Á nữa
Stephen M. Walt | Foreign Policy
Trần Giao Thuỷ dịch thuật
POSTED
ON JUNE 1, 2023
https://dcvonline.net/2023/06/01/dung-lo-ve-quyen-ba-chu-cua-trung-hoa-o-chau-a-nua/
Nỗi
sợ hãi của Hoa Kỳ không những chỉ phi lý mà còn có thể là một lời tiên tri tự ứng
nghiệm.
Hình : https://foreignpolicy.com/wp-content/uploads/2023/05/GettyImages-85553011-1.jpg?quality=90
Một
du khách nhìn vào bản đồ thắp sáng những đường dẫn dầu của Trung Hoa tại cuộc
Triển lãm Tiết kiệm Năng lượng, Giảm Phát thải và Khoa học Năng lượng Mới &
Kỹ thuật Quốc tế Trung Hoa ở Bắc Kinh. Ảnh: FENG LI/GETTY IMAGES
Hoa Kỳ và
những đối tác châu Á muốn duy trì sự cân bằng quyền lực ở Ấn Độ Dương-Thái Bình
Dương, bề ngoài là để ngăn chặn Trung Hoa trở thành bá chủ khu vực đó. Họ lo ngại
Bắc Kinh sẽ dần dần thuyết phục những nước láng giềng xa rời Hoa Kỳ, chấp nhận
vai trò bá chủ của Trung Hoa và chiều theo mong muốn của Bắc Kinh trong những vấn
đề chính sách đối ngoại then chốt. Ví dụ, vào năm 2018, Bộ trưởng Quốc phòng
lúc đó, James Mattis, cảnh
cáo rằng :
Trung
Hoa đang “ấp ủ những kế hoạch dài hạn nhằm viết lại trật tự toàn cầu hiện có. …
Nhà Minh dường như là mô hình của họ, mặc dù theo kiểu cơ bắp hơn, yêu cầu những
quốc gia khác phải triều cống, khấu đầu trước Bắc Kinh.” (James
Mattis, 2018)
Những cựu
công chức chính phủ Hoa Kỳ như Rush Doshi và Elbridge Colby và những người
theo chủ nghĩa hiện thực nổi tiếng viết về đại chiến lược của Hoa Kỳ—kể cả tôi—đã
đưa ra những lập luận tương tự, và mong muốn đã tuyên bố của Trung Hoa là trở
thành một “cường
quốc hàng đầu thế giới” và những nỗ lực của họ nhằm thay đổi hiện trạng ở
Biển Đông và những nơi khác dường như đang biện minh cho những lo ngại này.
Hệ quả của
quan điểm này đáng lo ngại. Nếu Trung Hoa đang tích cực tìm cách trở thành bá
chủ khu vực ở châu Á và Hoa Kỳ kiên quyết ngăn chặn chuyện đó, thì một cuộc đụng
độ trực tiếp giữa hai quốc gia hùng mạnh nhất thế giới sẽ khó tránh khỏi.
Nhưng những
nỗi sợ hãi này có hợp lý không? Mặc dù Trung Hoa có thể sẽ có lợi hơn nếu họ có
thể trục xuất Hoa Kỳ khỏi châu Á và trở thành một bá chủ khu vực thực sự, nhưng
mục tiêu đó có lẽ nằm ngoài tầm với của họ. Nỗ lực giành quyền bá chủ khu vực của
Trung Hoa có thể thất bại và gây thiệt hại to lớn cho Trung Hoa (và những nước
khác) trong tiến trình này. Do đó, Hoa Kỳ có thể có quan điểm tương đối lạc
quan về triển vọng này, ngay cả khi không thể bác bỏ nó hoàn toàn. Do đó, ngay
cả khi họ cố gắng duy trì sự cân bằng quyền lực ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương,
Hoa Kỳ và những đồng minh phải bảo đảm được rằng những nỗ lực của họ sẽ không
thuyết phục những người lãnh đạo Trung Hoa phải cố gắng giành quyền bá chủ bất
chấp những rủi ro trước mắt.
.
Tại
sao bá quyền khu vực là điều đáng ao ước
Dễ hiểu tại
sao một quốc gia hùng mạnh có thể muốn trở thành bá chủ khu vực (nghĩa là cường
quốc duy nhất trong khu vực địa lý của nó). Nếu không có cường quốc lớn nào
khác ở gần, một bá chủ khu vực có rất ít lý do để lo sợ những cuộc tấn công trực
tiếp vào lãnh thổ của mình. Một cường quốc thống trị môi trường xung quanh theo
cách này cũng sẽ ít bị thiệt hại hơn trước những cuộc phong tỏa hoặc những hình
thức áp lực khác, và họ có thể mong được những quốc gia yếu hơn trong phạm vi ảnh
hưởng tôn trọng từ ngay cả khi họ không trực tiếp cai trị những quốc gia đó. Việc
không có những mối nguy hiểm cục bộ cũng giúp một bá chủ khu vực dễ dàng phóng
chiếu sức mạnh sang những khu vực khác trên thế giới nếu việc làm đó có vẻ là
điều cần hoặc muốn.
Lịch sử của
Hoa Kỳ minh họa những lợi ích này thật rõ ràng. Hoa Kỳ cách xa những cường quốc
khác do hai đại dương và cũng liên can đến nhiều cuộc cãi vã của họ. “An
ninh tự do” này đã
mang lại cho những người lãnh đạo Hoa Kỳ phạm vi xoay sở rất lớn: Họ có thể giữ
thái độ trung lập khi xung đột nổ ra ở nơi khác hoặc tham chiến trong “những cuộc
chiến tranh lựa chọn” ở xa quê hương nếu điều đó có vẻ phù hợp. Khi những can
thiệp từ xa này thất bại — như chúng đã xảy ra ở Việt Nam, Iraq hoặc
Afghanistan — Hoa Kỳ cuối cùng có thể rút quân mà không đặt an ninh của Mỹ
vào nguy cơ nghiêm trọng.
Những người
lãnh đạo Trung Hoa chắc chắn nghĩ rằng đất nước của họ sẽ an toàn hơn nếu đạt
được vị trí bá chủ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Bắc Kinh sẽ bớt lo sợ hơn nếu
Hoa Kỳ không liên kết chặt chẽ với nhiều nước láng giềng ở đó và không có lực
lượng quân sự hùng mạnh đồn trú khắp khu vực. Trung Hoa sẽ ít bị thiệt hại hơn
trước những cuộc phong tỏa trong trường hợp chiến tranh, một mối quan tâm đáng
kể do địa lý hàng hải hạn chế của Đông và Đông Nam Á và sự phụ thuộc đáng kể của
Bắc Kinh vào thương mại nước ngoài. Với ít mối nguy hiểm địa phương hơn để lo lắng,
Bắc Kinh cũng sẽ dễ dàng phóng chiếu sức mạnh ở nơi khác nếu họ muốn.
Chính những
yếu tố này cũng giải thích tại sao Hoa Kỳ muốn ngăn chặn tình trạng này phát
sinh. Kể từ khi trở thành một cường quốc vào buổi bình minh của thế kỷ 20, Hoa
Kỳ đã tìm cáchh duy trì sự cân bằng quyền lực sơ bộ ở châu Âu và Đông Á, đồng
thời ngăn chặn bất kỳ cường quốc đơn lẻ nào thống trị cả hai khu vực. những người
lãnh đạo Hoa Kỳ lo ngại rằng một bá chủ châu Âu hoặc châu Á cuối cùng có thể
tích lũy đủ sức mạnh kinh tế và quân sự ngang bằng hoặc lớn hơn Hoa Kỳ. Không
còn quan tâm đến hững mối đe dọa về mặt địa phương, nó có thể chọn can thiệp
vào những lĩnh vực khác, như Hoa Kỳ đã có thể làm. Một đối thủ kiểu này thậm
chí có thể liên minh với những quốc gia ở Tây Bán cầu và buộc Washington phải tập
trung sự chú ý của mình gần hơn. Mong muốn lâu dài để ngăn chặn một bá quyền
khu vực ở châu Âu hoặc châu Á là lý do tại sao Hoa Kỳ cuối cùng đã tham gia vào
hai cuộc chiến tranh thế giới và tại sao họ duy trì những lực lượng quân sự
đáng kể ở cả hai khu vực trong Chiến tranh Lạnh dai dẳng.
Do đó, nếu
quyền bá chủ khu vực có thể đạt được dễ dàng thì việc những người lãnh đạo
Trung Hoa muốn nó và những người lãnh đạo Hoa Kỳ cố gắng hết sức để ngăn chặn
điều đó có thể là chiến lược tốt. Nhưng nếu mục tiêu có vẻ hấp dẫn này thực tế
là một ảo ảnh: khó khăn và có thể không thể đạt được thì sao? Nếu vậy, Bắc Kinh
sẽ thật ngu ngốc khi theo đuổi mục tiêu này và Washington có thể chọn cách ứng
xử thận trọng hơn để ngăn cản nó.
.
Tại
sao (gần như) không thể đạt được quyền bá chủ khu vực
Quyền bá
chủ khu vực có thể đáng khát khao về mặt lý thuyết, nhưng lịch sử cho thấy đó
là một mục tiêu khó đạt được. Như Jonathan Kirshner đã chứng minh, một số cường quốc khác nhau đã đbỏ sức
giành quyền thống trị khu vực trong thời kỳ hiện đại và tất cả, trừ một trong
những nỗ lực này đều đã kết thúc trong thảm họa. Pháp thất bại dưới thời Louis
XIV và Napoléon Bonaparte; Đức bị đánh bại trong cả hai cuộc chiến tranh thế giới,
và nỗ lực của Nhật Bản nhằm thiết lập một trật tự bá quyền ở châu Á cũng kết
thúc trong thất bại hoàn toàn. Chỉ có Hoa Kỳ đã xoay sở để trở thành cường quốc
duy nhất trong khu vực của mình. Nói tóm lại, trong thế giới hiện đại, tỷ lệ
thành công là dưới 20 phần trăm.
Hơn nữa,
những thất bại đó không chỉ là những thất bại nhỏ: Chúng là những đại thảm họa
đối với những quốc gia đã thực hiện nỗ lực này. Có lẽ một triệu người Pháp đã
thiệt mạng trong Chiến tranh Napoléon, và Bonaparte đã chết khi lưu vong trên một
hòn đảo xa xôi ở Nam Đại Tây Dương. Nước Đức đã phải gánh chịu rất nhiều trong
cả hai cuộc chiến tranh thế giới và cuối cùng bị chia thành hai quốc gia hơn 40
năm. Nhật Bản bị đốt cháy trong Thế chiến thứ hai, có hai thành phố bị bom
nguyên tử phá hủyvà trật tự chính trị của nó đã kẻ ngoại xâm thay đổi. Trở
thành bá chủ khu vực có thể là điều đáng mơ ước, nhưng việc cố trở thành bá chủ
hầu như luôn khiến một quốc gia trở nên ít an toàn hơn, thay vì nhiều hơn.
Những nỗ lực
giành quyền bá chủ thất bại vì hai lý do chính. Đầu tiên, như những người theo
chủ nghĩa hiện thực phòng thủ từ lâu đã
nhấn mạnh, những cường quốc lớn có khuynh hướng cân bằng trước những mối đe
dọa. Khi một quốc gia hùng mạnh ở gần, khi những quân đội của quốc gia đó dường
như được điều chỉnh để phóng chiếu sức mạnh chống lại những quốc gia khác và
khi quốc gia đó dường như có tham vọng xét lại, thì những cường quốc gần đó thường
liên kết với nhau để ngăn chặn hoặc đánh bại họ. Nếu một nước sắp trở thành bá
chủ bộc lộ mục tiêu của mình bằng cách bắt đầu chiến tranh, hành động cân bằng
thậm chí còn trở nên hiệu quả hơn và rõ rệt hơn.
Rào cản thứ
hai đối với quyền bá chủ khu vực là chủ nghĩa dân tộc. Như Napoléon đã thấy khi
ông xâm lăng Tây Ban Nha, như Liên Xô và Hoa Kỳ đều học được ở Afghanistan, và
như Moscow hiện đang được nhắc nhở lại ở Ukraine, người dân địa phương sẽ tận lực
hy sinh để đẩy lùi quân xâm lăng. Ngay cả những quốc gia đã bị đánh bại tạm thời
thường vẫn kiên cường và mong muốn thoát khỏi ách thống trị của một bá chủ đầy
tham vọng. Sự tan rã của những đế chế thực dân châu Âu trong thế kỷ 20 càng
minh họa rõ hơn việc truyền bá những học thuyết dân tộc chủ nghĩa đã củng cố sức
khác chiến chông lại sự thống trị của nước ngoài như thế nào.
Hoa Kỳ là
một ngoại lệ đối với khuynh hướng lặp đi lặp lại này: Hoa Kỳ là bá chủ khu vực
duy nhất trong kỷ nguyên hiện đại. Những cường quốc khác có thể trở thành bá chủ
phải đối mặt với sự phản đối phối hợp từ những quốc gia có tổ chức tốt và đang
gờm, nhưng Hoa Kỳ cách xa những cường quốc khác cả một đại dương và có thể mở rộng
khắp Bắc Mỹ mà không cần phải chiến đấu với một cường quốc lớn khác hoặc vượt
qua một liên minh đối lập cân bằng. Người dân bản địa đã cố gắng chống lại,
nhưng họ đã bị suy yếu do dễ mắc những bệnh châu Âu và bị chia thành nhiều bộ lạc
và quốc gia tổ chức lỏng lẻo. Mặc dù sự phản đối của người bản địa đối với sự
bành trướng của người Mỹ vẫn
còn cho đến cuối thế kỷ 19, những bộ lạc bản địa phải đối đầu với những
vấn đề hành động tập thể không thể vượt qua và dân số ngày càng giảm và cuối
cùng bị cuốn theo làn sóng nhân khẩu không thể cưỡng lại. Nói một nhữngh dễ hiểu,
Hoa Kỳ đã gặp may.
Trung
Hoa có thể trở thành bá chủ khu vực ngày nay hay không?
Những điều
kiện cho phép Hoa Kỳ thống trị Tây bán cầu và loại trừ những cường quốc lớn
khác không hiện hữu ở châu Á ngày nay. Trung Hoa có thể mạnh hơn bất kỳ nước
láng giềng nào, nhưng một vài trong số họ là những cường quốc kỹ thuật có tiềm
năng đáng kể để kiềm chế sức mạnh của Trung Hoa, và cường quốc lớn khác trên thế
giới—Hoa Kỳ—vẫn cam kết giúp bảo vệ họ. Dân số Ấn Độ hiện lớn hơn và trẻ hơn
đáng kể so với Trung Hoa và nền kinh tế của nước này đang phát triển nhanh hơn.
Nhiều nước láng giềng của Trung Hoa đã sẵn sàng là đối lực cân bằng một cách mạnh
mẽ hơn: Ngân sách quốc phòng đang
tăng mạnh và Úc, Ấn Độ và Nhật Bản đang phối hợp với nhau và với Hoa Kỳ.
Nỗi sợ hãi của họ đối với quyền bá chủ của Trung Hoa càng lớn thì những phản ứng
như vậy sẽ ngày càng mạnh hơn.
Ngoài
ra, India đã có kho vũ khí hạch tâm và Nhật Bản hoặc Nam Hàn có thể có được khả
năng răn đe hạch tâm nếu có nhu cầu. Nhà chức trách ở Tokyo và Seoul trước đây đã
nói rõ rằng họ coi đây là một lựa chọn có thể đứng vững được nếu hoàn cảnh đòi
hỏi, và việc có khả năng răn đe của riêng họ sẽ hạn chế hơn nữa khả năng đe dọa
của Trung Hoa đối với họ. Do
đó, nếu Trung Hoa không muốn nhiều nước láng giềng có vũ khí hạt nhân, thì họ
nên hạn chế tham vọng của chính họ và khiến một phản ứng như vậy là không chuyện
cần thiết.
Những cường
quốc châu Á cũng không có khả năng bị ảnh hưởng vì đề nghị của Chủ tịch Trung
Hoa Tập Cận Bình “người dân châu Á điều hành việc của châu Á… dẫn đường cải
cách hệ thống quản trị toàn cầu” chuyển đổi những thể chế và chuẩn mực phản
ảnh những giá trị và ưu tiên của Bắc Kinh.
Cuối cùng,
kỹ thuật theo dõi và truyền thông hiện đại giúp những quốc gia dễ dàng xác định
những thế lực đe dọa và phối hợp phản ứng phòng thủ. Không thể che giấu nỗ lực
giành quyền bá chủ của Trung Hoa ở châu Á và những quốc gia bị đe dọa vì nỗ lực
này có thể chia sẻ mối quan tâm, tập hợp tài nguyên và kịp thời có phản ứng tập
thể. Như phản ứng nhanh và mạnh của phương Tây đối với cuộc xâm lăng Ukraine của
Nga cho thấy, những quốc gia đang đối diện với mối nguy hiểm chung có thể hành
động nhanh chóng đáng ngạc nhiên khi cần thiết.
.
Nếu
quyền bá chủ khu vực không phải là một lựa chọn, vậy thì sao?
Nếu triển
vọng bá chủ khu vực của Trung Hoa bị hạn chế, thì Hoa Kỳ và Trung Hoa phải đấu
tranh về điều gì? Mỗi quốc gia là một quốc gia rộng lớn với hàng trăm triệu
công dân yêu nước. Cả hai có nền kinh tế lớn và tinh vi mà không thế lực bên
ngoài nào có thể bóp nghẹt một cách hiệu quả, một quân đội hiện dịch mạnh mẽ và
khả năng tấn công hạch tâm lần thứ hai. Một đại dương bao la ngăn cách họ, và
không bên nào có thể xâm chiếm bên kia mà thanh công. Cùng sinh tồn không chỉ
là mong muốn; nó là điều không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên,
những người lãnh đạo Trung Hoa vẫn có thể quyết định chọn con đường đầy rủi ro
mà những nước có thể trở thành bá chủ khác đã đi theo. Nếu họ tin rằng cán cân
quyền lực trong khu vực nghiêng hẳn về phía có lợi cho họ, rằng những quốc gia
lân cận có thể bị bắt nạt để trở thành trung lập, rằng một hoặc hai chiến thắng
sẽ khiến cho sự kháng cự tiếp theo là không thể, và rằng những quốc gia khác ở
châu Á cuối cùng sẽ coi quyền ưu tiên của Trung Hoa là hợp pháp, thì rủi ro của
một cuộc leo thang làm bá quyền (dù khờ dại) sẽ tăng lên. Trong trường hợp xấu
nhất, những người lãnh đạo Trung Hoa có thể thuyết phục họ rằng những điều kiện
tạm thời ủng hộ nỗ lực giành quyền bá chủ khu vực, đồng thời lo sợ rằng cán cân
quyền lực có thể quay lưng lại với họ một cách dứt khoát nếu không nắm lấy cơ hội.
Sự kết hợp giữa mơ tưởng và hoang tưởng này là điều kiện sách giáo khoa cho chiến
tranh phòng ngừa; chính xác là logic đã
thuyết phục những người lãnh đạo Đức và Nhật Bản đưa ra những nỗ lực bất
thành để giành quyền bá chủ trong nửa đầu thế kỷ 20.
Những sự
liên can đối với Hoa Kỳ và những đối tác châu Á là rõ ràng. Một mặt, họ nên
hành động để giảm
thiểu những yếu tố khác nhau có thể cản trở sự cân bằng hiệu quả và có
thể khiến Bắc Kinh kết luận sai lầm rằng nỗ lực giành quyền bá chủ có thể thành
công. Tuy nhiên, đồng thời, Hoa Kỳ và những đồng minh của họ cần nói rõ rằng họ
không muốn đe dọa nền độc lập hoặc toàn vẹn lãnh thổ của Trung Hoa, làm suy yếu
uy quyền của Đảng Cộng sản Trung Hoa hoặc làm sụp đổ nền kinh tế Trung Hoa. Trấn
an là việc cần thiết để những người lãnh đạo Trung Hoa không kết luận rằng họ
không có lựa chọn nào khác ngoài việc theo đuổi quyền bá chủ ngay cả khi tỷ lệ
thành công là rất nhỏ.
Thông điệp
nhất quán sẽ rất cần thiết. Mặc dù những bài phát biểu gần đây của Cố
vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan và Bộ trưởng Tài chính
Janet Yellen rõ ràng nhằm trấn an Bắc Kinh về phạm vi và mục đích của
những biện pháp kiểm soát xuất cảng và những biện pháp kinh tế khác của Hoa Kỳ,
những nỗ lực nhằm trao cho NATO một vai trò chiến lược ở châu Á và tuyên
bố kết thúc mang tính đối đầu hơn đã được đưa ra sau cuộc họp thượng đỉnh
G-7 hồi đầu tháng gửi đi một tín hiệu khác, một tín hiệu không thể không làm
căng thẳng gia tăng.
Trong một
vài trường hợp trong ba thế kỷ qua, một cường quốc đã kết luận rằng an ninh của
họ đòi hỏi họ phải thiết lập một vị trí thống trị đối với những nước láng giềng.
Tất cả trừ một trong những nỗ lực này đều thất bại thảm hại. Trung Hoa sẽ không
khôn ngoan khi chọn con đường này, nhưng Hoa Kỳ và những đồng minh của họ cũng
sẽ không khôn ngoan nếu hành động của chính họ vô tình thuyết phục Bắc Kinh rằng
một nỗ lực mạo hiểm để giành quyền bá chủ vẫn là lựa chọn tốt nhất của họ.
Tác giả | Stephen M. Walt, một
bình luận gia tại Foreign Policy và là giáo sư Robert và Renée Belfer về quan hệ
quốc tế tại Đại học Harvard. Nhận định này xuất bản với sự hợp tác của
Chương trình Hòa bình Châu Á tại Viện Nghiên cứu Châu Á của Đại học Quốc gia
Singapore.
© 2023
DCVOnline
Nếu đăng lại,
xin ghi nguồn và đọc “Thể
lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn:
Stop
Worrying About Chinese Hegemony in Asia
U.S. fears
are not only irrational—they’re a potential self-fulfilling prophecy.
MAY 31,
2023, 9:28 AM
No comments:
Post a Comment