Truyền
hình Việt ngữ hải ngoại: Mặt trận không yên tĩnh (1)
Vũ
Đình Trọng - Saigon Nhỏ
24 tháng 6, 2023
LTS. Ngay từ khi đặt chân đến Hoa Kỳ,
cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản đã cùng chung sức khai phá ngành truyền
thông Việt ngữ, với mục đích gìn giữ văn hóa, là cầu nối cho người Việt tỵ nạn
khắp nơi. Thế hệ truyền thông đầu tiên gồm một số nhà báo, nhà văn, nhà thơ, đã
hoạt động trong ngành truyền thông trước 1975. Lúc đầu, họ chỉ “mong làm báo chừng
5, 7 năm thôi, đến khi tiếng Việt không còn nữa thì nghỉ”, như lời chia sẻ của
cố ký giả Ngọc Hoài Phương.
Điều không ai ngờ là ngành truyền thông hải ngoại ngày càng phát triển, cả
số lượng và phẩm chất. Quận Cam (California) từng có bốn tờ nhật báo, hơn 10 tuần
báo, nguyệt san và bán nguyệt san. Về truyền thanh, ngoài ba đài lớn như Little
Saigon Radio, Radio Bolsa, VNCR, còn có một số đài khác, với thời lượng phát
thanh từ 2 đến 6 tiếng một ngày, kể cả cuối tuần.
Tuy nhiên, thời hoàng kim của báo chí Việt ngữ đã qua. Hiện nay chỉ còn tờ
Người Việt là ra báo hàng ngày, đúng nghĩa “nhật báo”, còn ba tờ “nhật báo”
khác (Việt Báo, Viễn Đông, Việt Mỹ) không chỉ rút lại số lượng phát hành, mà
còn bớt lại một số ngày ra báo. Một số tờ báo tuần cũng rơi vào cảnh “tiến thoái
lưỡng nan” – tiền quảng cáo không đủ chi phí in – nên đành đóng cửa, hoặc thu gọn
nhân sự lại, sống lây lất…
Ngược lại với sự đi xuống của báo chí và radio, các hệ thống truyền hình
dù xuất hiện trễ hơn, chí phí hoạt động tốn kém hơn, nhưng lại có những bước
phát triển mạnh, nhất là giai đoạn sau này, khi các băng tần analog được chuyển
sang digital.
Nhìn vào bề nổi, nhiều người cho rằng đây là một bước phát triển vượt bực
của truyền thông hải ngoại, với hơn 20 đài truyền hình digital địa phương. Thế
nhưng, cho dù “trăm hoa đua nở”, nhưng không phải hoa nào cũng đẹp và cũng
thơm, khi một số đài truyền hình không khác gì gánh “sơn đông mãi võ”, một vài
đài xác định “chỉ làm thương mại”… Các đài truyền hình nói riêng và ngành truyền
thông của người Việt hải ngoại hiện tại đứng trước một thử thách khắc nghiệt:
Làm thế nào để tồn tại, khi “mặt trận truyền thông” chưa bao giờ yên tĩnh?
.
Những
nền móng truyền thông đầu tiên trên đất Mỹ
Nhóm người Việt tỵ nạn đầu tiên đặt chân đến trại Pendleton, miền Nam
California vào tháng Năm 1975. Cuộc sống mới bắt đầu rất khó khăn, thế nhưng chỉ
đến Tháng Mười Một, nhà báo Nguyễn Hoàng Đoan cùng một số nhà báo, nhà văn từng
hoạt động trong nước, xuất bản tờ nguyệt san Hồn Việt, phát hành khắp Hoa Kỳ. Một
số người đặt nền móng cho ngành truyền thông người Việt hải ngoại gồm có: Nguyễn
Hoàng Đoan (chủ nhiệm), Nguyễn Văn Quang và Trọng Viễn (phụ tá chủ nhiệm), nhà
báo Du Miên (giám đốc kỹ thuật),… Nhà văn Nguyễn Tất Điều là Tổng Thư Ký đầu
tiên, sau đó là nhà báo Đỗ Ngọc Yến.
Theo cố ký giả Ngọc Hoài Phương, “Sau tờ Hồn Việt, ngày 6 Tháng Hai năm
1976, tuần báo Trắng Đen do nhà báo Việt Định Phương làm Chủ Nhiệm ra đời, với
hai người phụ giúp: Nhà văn Tử Vi Lang là Phụ tá Chủ Nhiệm, nhà báo Thế Linh
làm Tổng Thư Ký, tôi (Ngọc Hoài Phương) và Thế Phương làm phụ tá Tổng Thư Ký”.
Năm 1978, nhóm Hồn Việt quyết định ra tuần báo Người Việt Cali, giao cho
hai nhà báo Đỗ Ngọc Yến và Du Miên phụ trách. Sau đó, dựa trên nền móng tuần
báo Người Việt Cali, hai nhà báo Đỗ Ngọc Yến và Du Miên quyết định đổi tên
thành Người Việt. Sau một thời gian hoạt động, tờ tuần báo Người Việt trở thành
tờ nhật báo Người Việt vào năm 1985, hoạt động cho đến ngày nay, và trở thành tờ
nhật báo lớn nhất không chỉ của người Việt ở Mỹ mà còn ở hải ngoại nói chung.
Có thể nói, Nguyệt san Hồn Việt, và sau này là Nhật báo Người Việt, đã đặt
nền móng cho sự phát triển của ngành truyền thông người Việt hải ngoại, để từ
đó một số tờ báo khác ra đời như tuần báo Sài Gòn của nhà báo Du Miên (1978); tờ
Chí Linh của nhà báo Trọng Viễn (1978); nhà thơ Du Tử Lê là chủ nhiệm các báo
Nhân Chứng, Tay Phải, và Văn nghệ (thập niên 1980); Nhật báo Việt Báo Kinh Tế
(nhà thơ Trần Dạ Từ và nhà văn Nhã Ca); Nhật báo Viễn Đông (nhạc sĩ Nguyễn Đức
Quang, và sau này nhà báo Tống Hoằng).
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/06/50-nam-Truyen-hinh-Viet-ngu-1.jpg
Hình kỷ niệm Tết đầu tiên trên đất Mỹ (đại lộ
Hollywood, Los Angeles đầu năm 1976) của một số người khai phá ngành truyền
thông Việt ngữ tại hải ngoại. Từ trái: Cựu Thiếu tá Nguyên Thế Hanh, ông Đinh
Văn Ngọc, nhà báo Tô Văn, nhạc sĩ Tô Huyền Vân, nhà báo Việt Định Phương, nhà
báo Ngọc Hoài Phương và dịch giả Tử Vi Lang (dịch giả hai bộ truyện nổi tiếng
Tam Quốc Chí và Thủy Hử) – ảnh: nhà báo Ngọc Hoài Phương cung cấp
Đầu thập niên 1980, nhà báo Thế Phương mở ra hướng đi mới cho ngành truyền
thông người Việt hải ngoại khi ông lấn sân qua lãnh vực truyền thanh. Tuy nhiên
do khó khăn về tài chánh, đài của ông cũng không tồn tại được lâu. Năm 1980,
ông Vũ Quang Ninh thành lập đài radio Tiếng Vọng Quê Hương, phát thanh ba ngày
mỗi tuần, mỗi lần 1 giờ và kéo dài được ba năm. Năm 1993 ông cùng một số thân hữu
như ông Đinh Xuân Thái, bà Quỳnh Trang, ông Lê Hoan,… thành lập đài Little
Saigon Radio.
Năm 1997, nhạc sĩ Việt Dzũng và xướng ngôn viên Minh Phượng thành lập đài
Radio Bolsa. Ngành truyền thanh của người Việt hải ngoại tiếp tục phát triển
cho đến nay, sau này cộng đồng người Việt có thêm một số đài khác như Saigon
Radio Hải Ngoại, Mẹ Việt Nam, v.v…
Hai ngành truyền thông này (báo giấy và phát thanh) cung cấp nhiều tin tức
cần thiết cho người Việt định cư tại Nam California những năm đầu tiên, góp phần
không nhỏ trong việc gìn giữ văn hóa Việt, giúp sức cho công cuộc đấu tranh cho
dân chủ và nhân quyền trong nước. Từ đó đến nay, dù rất muốn nhưng nhà cầm quyền
Hà Nội vẫn không thể có một tờ báo hay một đài phát thanh riêng nào để thao
túng cộng đồng và thực hiện nghị quyết 36 của họ.
Tuy nhiên, ngành truyền hình thì khác.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/06/maxresdefault.jpg
Một buổi phát sóng của SBTN (SBTNOfficial – YouTube)
.
“Mặt
trận không yên tĩnh”
Ngành truyền hình Việt ngữ hải ngoại góp mặt sau nhưng có nhiều bước tiến
đáng kể. Năm 1987, trong hệ thống đài truyền hình địa phương (local), Little
Saigon TV xuất hiện trên băng tầng 44, mở đầu cho sự khai phá của ngành truyền
thông này. Chủ nhân là hai vợ chồng (lúc đó) ông Đinh Xuân Thái và bà Quỳnh
Trang. Dù chỉ góp mặt một giờ mỗi ngày, Little Saigon TV nhanh chóng được cộng
đồng ủng hộ qua phần tin tức và sinh hoạt cộng đồng. Vài năm sau, họa sĩ Lương
Văn Tỷ mở đài Truyền Hình Văn Nghệ trên băng tầng 18 (một giờ/ngày vào hai ngày
cuối tuần), nhưng cũng chỉ hoạt động trong thời gian ngắn.
Nhờ kỹ thuật digital, và cộng đồng người Việt ngày càng lớn mạnh, từ năm
2000 trở đi, ngành truyền hình có nhiều thay đổi, phát triển mạnh về số lượng
đài. Năm 2002, nhạc sĩ Trúc Hồ và ca sĩ Thy Vân thành lập đài SBTN, phát hình
trên hệ thống Direct TV và cable; khoảng năm 2004 trở đi, một số đài truyền
hình khác ra đời như SET, VNA, Saigon TV, VBS TV, NVA TV, VietFace TV,… Đài
Little Saigon TV cũng chuyển phát hình từ analog sang digital, phát hình 24/24.
Lúc đầu, các đài truyền hình ở nhiều băng tầng xa nhau, khiến khán giả
khó nhớ khi chuyển từ đài này qua đài khác. Từ năm 2008 trở đi, các đài truyền
hình đồng loạt chuyển về băng tầng 57, và hiện nay, riêng hệ thống băng tầng
này, chúng ta đã có gần 20 đài truyền hình trên các băng tầng 57.xx. Khi hệ thống
băng tầng không mở thêm, một số đài truyền hình ra sau được phát hình trên hệ
thống băng tầng 56, và một số băng tầng khác. Sau này, ngoài chuyện phát hình ở
địa phương, hầu hết các đài đều có mặt trên hệ thống Galaxy để mở rộng mạng lưới,
phục vụ khán giả toàn nước Mỹ và Canada.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/06/50-nam-Truyen-hinh-Viet-ngu-2.jpg
Chương trình “Luận Đàm Thời Sự” của Little Saigon TV
57.5 – ảnh: YouTube Little Saigon TV
Ngoài hướng đi riêng của từng đài, mục đích chung của các đài truyền hình
Việt ngữ của người Việt hải ngoại là phục vụ người Việt hải ngoại qua phần tin
tức và sinh hoạt cộng đồng, như lời chia sẻ của nhạc sĩ Trúc Hồ (Giám đốc
SBTN):
“SBTN muốn trở thành một đài truyền hình mang nặng phần tin tức như đài
Fox hay CNN của Hoa Kỳ, với mục đích giúp người Việt ở bất cứ nơi đâu trên thế
giới cũng có nhịp cầu nối với nhau. Như chuyện gì xảy ra với người Việt ở
Dallas, cũng được người Việt ở Đan Mạch cũng biết. Nơi nào có người Việt sinh sống
thì nơi đó có phóng viên SBTN, kể cả trong nước. Nói chung, nhiệm vụ của SBTN
là đi sát với cộng đồng người Việt hải ngoại.”
Mỗi đài truyền hình đều có những chương trình mang dấu ấn riêng, như đài
VNA có chương trình “Good Morning Việt Nam America” do nhà báo Du Miên phụ
trách, “Sổ tay truyền hình” của nhà báo Phạm Long, “5 điều 7 chuyện 3 cái linh
tinh” do cô Phương Thanh phụ trách; đài Saigon TV được nhiều người theo dõi qua
“Café sáng”, “Luận đàm thời sự”, “Mỗi tuần một vấn đề”, các phóng sự trực tiếp
(live) từ địa phương cho đến các sự kiện lớn xảy ra trên nước Mỹ và thế giới,
và đặc biệt là chương trình “Breaking News”.
Ngoài ra, các đài truyền hình còn chú trọng thêm những chương trình mang
tính xã hội, giáo dục và giải trí. Theo đánh giá của anh Quang Phạm
(Westminster), người thường xuyên theo dõi truyền hình, thì: “Trước đây các đài
nặng về phần tin tức, cộng đồng, nên chương trình cũng giông giống nhau. Hơi nặng,
và khô. Thời gian sau này, cũng là tin về cộng đồng, hay chính trị, nhưng cách
làm hấp dẫn hơn. Thêm nữa, cái đài cố gắng sản xuất nhiều chương trình nhiều
hơn, nhất là phần vui chơi, giải trí, nên xem cũng được.”
Một người chuyên lấy quảng cáo cho các đài truyền hình (xin giấu tên) cho
biết: “Với hơn 20 đài truyền hình Việt ngữ (free to air), sự cạnh tranh để lấy
được quảng cáo bảo trợ rất gay gắt, đài mới ra, cho giá quảng cáo rẻ hơn để mời
khách, khiến các đài khác cũng phải xuống giá để giữ khách. Cứ thế giá quảng
cáo xuống dần, tuy có lợi cho khách hàng, nhưng hoạt động của đài ngày càng chật
vật hơn.”
Chị cũng cho biết thêm: “Vẫn có một số ít đài tivi không xuống giá, vì họ
có chương trình hay, có khán giả. Tuy nhiên, những đài như thế không nhiều”.
Như thế, bài toán ở đây là chỉ còn một cách để tồn tại, đó là làm sao để
chương trình hay, lôi cuốn khán giả, từ đó giữ được khách hàng cũ, và mời được
khách hàng mới bảo trợ. Mà thực hiện chương trình với một kinh phí hạn hẹp thì
không dễ chút nào.
Nhà báo Trần Nhật Phong cho biết: “Đúng là các đài truyền hình gặp trở ngại
rất lớn về chương trình. Làm nội dung rất tốn kém, càng tốn kém hơn khi giá quảng
cáo ngày càng giảm do cạnh tranh. Trong ‘cái khó ló cái khôn’, các đài chỉ làm
tám tiếng chương trình, rồi phát lại, ngoài trừ phần cập nhật tin tức và breaking
news.”
Khi giải không được “bài toán khó”, một số chủ đài truyền hình tìm cách
đưa nó về một dạng dễ giải hơn: Mua hoặc trao đổi quảng cáo để được chiếu phim
truyện và game show trong nước. Một số ít đài dứt khoát “không chiếu phim cộng
sản” thì tìm nguồn phim Hàn Quốc, hoặc Trung Quốc về chiếu. Đương nhiên, phim
truyện Việt Nam vẫn chiếm ưu thế hơn phim các nước khác.
Bà Thanh Nguyễn (Anaheim), một khán giả rất thích xem phim bộ trên truyền
hình, cho biết cảm nghĩ: “Tối đi làm về mở tivi xem phim bộ giải trí thôi. Cứ hết
đài này đến đài kia, tùy giờ chiếu (cười). Nói chung là phim tình cảm tâm lý xã
hội, diễn viên đẹp, đóng hay, dù cốt truyện cũng không có gì nhưng lôi cuốn.
Xem cho hết giờ rồi đi ngủ, chứ tôi cũng không quan tâm đến chính trị, thời sự
gì.”
Tuy nhiên, ở góc nhìn của người làm truyền thông, nhạc sĩ Trúc Hồ chia sẻ:
“Tương lai sẽ như thế nào nếu bây giờ chúng ta không
bảo vệ nền văn hóa của chúng ta? Hầu như đài nào cũng chiếu game show, phim bộ
Việt Nam. SBTN thì không, vì tôi không chấp nhận làm việc với chính quyền trong
nước.
“Có người nói ‘game show đâu phải là chính trị, chỉ
là giải trí thôi mà! Phim bộ chỉ là chuyện tình cảm thôi mà! Lâu lâu thấy lá cờ
(đỏ sao vàng) chút xíu thôi, có sao đâu!…’
Tôi không bao giờ xem hết, nhưng thấy cái đó mình rất
buồn. Nhiều khi về nhà buổi tối, mở đài địa phương lên xem, cứ ngỡ mình đang
còn ở với Việt Cộng, vì họ dùng những chữ hoàn toàn xa lạ với mình. Lúc đầu thì
xa lạ, nhưng xem một thời gian thì ngay cả người lớn cũng thấy bình thường, nói
chi đến con cháu chúng ta. Những cái đó đi ngầm, nếu con cháu mình không có điểm
tựa về văn hóa của người Việt VNCH, thì sẽ nhanh chóng tiếp nhận văn hóa bên
kia. Nguy hiểm vô cùng, và đó là bài toán nhức đầu nữa.”
Trong khi các đài truyền hình Việt ngữ hải ngoại đang chật vật kiếm từng
xu quảng cáo thì trên hệ thống truyền hình địa phương xuất hiện một đài truyền
hình được nuôi bằng “bầu sữa” trong nước nên không cần lấy quảng cáo ngoài này.
Đó là đài của nhà nước CSVN, có tên NetViet, bắt đầu
phát sóng vào ngày 1 Tháng Tám 2016 trên băng tầng 54.5, phủ sóng toàn cõi
California.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/06/50-nam-Truyen-hinh-Viet-ngu-3.jpg
Đài truyền hình NetViet – Ảnh: NetViet
Cần nhấn mạnh, Kênh VTC10-NetViet đã được Bộ trưởng Bộ Thông tin truyền
thông cộng sản Việt Nam phê duyệt là một trong mười kênh truyền hình trong nước
phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu của quốc gia trong
thông tư số 09/2012/TT-BTTTT. Ngày 4 Tháng Chín 2012, NetViet cũng được Thủ tướng
cộng sản Việt Nam quy hoạch là Kênh truyền hình phục vụ cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngoài trong Quyết định số 1209/QĐ-TTg.
Sau đó, ngày 23 Tháng Giêng 2013, NetViet đã đạt được thỏa thuận với
chính phủ Pháp, phát trên hệ thống Orange TV trực thuộc tập đoàn France
Telecom, được phát sóng trong dịch vụ truyền hình IPTV cung cấp tới hơn 4 triệu
800 ngàn thuê bao. Orange TV là hãng truyền hình IPTV lớn nhất tại Pháp với thị
phần truyền hình và ADSL chiếm 45%, doanh thu trung bình mỗi năm đạt 45 tỉ
euro.
Việc có một đài truyền hình trong nước phát hình tại California, nơi có
trên 500 ngàn người Việt sinh sống, đã mở ra một “mặt trận truyền thông” mới. Cộng
đồng người Việt hải ngoại tại California dù muốn hay không, cũng phải ở trong
“trận chiến văn hóa” này, và ngành truyền thông hải ngoại đang ở trong một “mặt
trận không yên tĩnh”!
____________
CÒN TIẾP
*****
Truyền hình Việt ngữ hải ngoại: Tương lai ảm đạm hay sáng sủa?
(2)
Vũ Đình Trọng
26 tháng 6, 2023
Chương
trình NetViet có gì?
Vào Tháng Mười năm 2016, Liên Ủy Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai tổ chức buổi
họp báo để “loan báo tình hình Cộng Sản Việt Nam sử dụng truyền hình để
tuyên truyền tại California”. Nhờ đó nhiều người mới biết “có đài của Việt
Cộng ở thủ đô tỵ nạn”.
Tuy nhiên, hoạt động của Liên Ủy Ban Chống Cộng Sản và Tay Sai cũng chỉ dừng
tại đó, vì NetViet không có văn phòng đại diện ở Nam California, thì làm gì có
chỗ để biểu tình.
Một số người đã xem đài truyền hình này nhận xét rằng, chính quyền trong
nước tìm cách “tô hồng” chế độ khá khéo léo qua những chương trình văn
hóa có chiều sâu như “Văn hóa ẩm thực Việt Nam”, “Văn hóa làng nghề”,…
Cách dàn dựng, biên kịch được chuẩn bị kỹ, có thêm phần phụ đề Anh ngữ cho người
nước ngoài. Họ cũng chú trọng đến tiểu tiết để không gây phản cảm cho người Việt
hải ngoại, như tránh quay cờ đỏ sao vàng, hay tượng ông Hồ, nếu đoạn phân cảnh
không bắt buộc.
Nói chung, đây là đài quảng cáo cho chế độ, được chính quyền CSVN cung cấp
vốn, thực hiện Nghị quyết 36, nên họ ra sức quảng bá hình ảnh “tốt đẹp”, theo
đúng nghĩa “tốt khoe, xấu che”. Cũng vì đã có nhiều kinh phí hoạt động, nên họ
không cần lấy quảng cáo. Quảng cáo các doanh nghiệp trong nước thì không phù hợp,
còn các cơ sở kinh doanh ở hải ngoại, có dù có mối làm ăn với trong nước, cũng
không dám quảng cáo. Điều đó chẳng khác gì “tiếp tay cho cộng sản”!
Theo trang web của NetViet, hiện nay họ phát sóng tới hơn 20 quốc gia (có
người Việt cư ngụ) ở bốn châu lục. Tạm tính chi phí mua giờ phát sóng là
$20,000/tháng, thì mỗi năm đã tốn $240,000, chưa kể tiền làm chương trình,
lương nhân viên, và nhiều chi phí khác. Con số này vẫn là quá ít và họ sẵn sàng
bỏ ra thêm gấp nhiều lần nữa để phủ sóng toàn bộ cộng đồng người Việt tỵ nạn
trên khắp thế giới.
Thế nhưng không phải muốn là được. Hoạt động một thời gian, do thấy cộng
đồng người Việt tỵ nạn Cộng sản ở Quận Cam lên tiếng phản đối mạnh mẽ, đài
NetViet âm thầm rút lui khỏi hệ thống đài truyền hình địa phương, chỉ còn phát
sóng trên vệ tinh Galaxy 19 tại Bắc Mỹ.
Điều đó không có nghĩa là “mặt trận truyền hình đã yên tĩnh”.
.
Càng
nhiều đài truyền hình, càng nhiều phim truyện Việt Nam
Mỗi đài truyền hình hải ngoại đều có những chương trình mang dấu ấn
riêng, tùy theo nhân sự và khả năng, sẽ có hướng phát triển riêng về chương
trình, nhờ đó khán giả có nhiều chọn lựa theo nhu cầu riêng của mình. Tuy
nhiên, mặc dù cố gắng đến đâu chăng nữa, các đài vẫn thiếu chương trình nên phải
mua bản quyền một số chương trình để chiếu, phổ biến là phim bộ từ các nước Hàn
Quốc, Trung Quốc, và nhiều nhất là phim bộ Việt Nam. Nhiều thứ hai là gameshow
sản xuất trong nước, và sau đó là một số chương trình khác như ẩm thực địa
phương Việt Nam, du lịch nội địa Việt Nam, v.v…
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/06/50-nam-Truyen-hinh-Viet-ngu-Ky-2-01.jpg
Chương trình “Café
Sáng” trên đài truyền hình Little Saigon mỗi sáng, được
nhiều người theo dõi. Hình: Nguyễn Trường (trái) và Hoàng Trọng Thụy trong
chương trình “Café Sáng” – Ảnh chụp màn hình YouTube
Nhìn vào lịch chiếu phim bộ của các đài truyền hình, người ta dễ dàng nhận
thấy nhu cầu rất lớn xem phim bộ, nhất là phim bộ sản xuất tại Việt Nam. Có
phim chiếu ở đài này, một thời gian sau lại thấy xuất hiện ở đài khác, vẫn có
người xem dù nhiều người đã thuộc làu nội dung từ đầu đến cuối. Giờ chiếu phim
bộ Việt Nam trở thành giờ “vàng” của đài, vì lấy được nhiều quảng cáo, bảo
trợ.
Phải công nhận một điều là phim trong nước rất thu hút khán giả hải ngoại.
Một số rất ít phim được chuyển thể từ các tác phẩm văn học nổi tiếng từ xưa,
như các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, tái hiện cảnh sông nước, nhà cửa thời
Pháp thuộc, còn lại đều có bối cảnh hiện tại.
Hầu hết diễn viên trong nước đã được đào tạo từ các trường nghệ thuật nên
diễn xuất khá tự nhiên, nhập vai tốt, lôi cuốn người xem. Nhờ được chiếu trên
các đài truyền hình hải ngoại, các diễn viên này được khán giả hải ngoại biết đến
nhiều, điều này tạo thuận lợi cho họ (kể cả một số “nghệ sĩ ưu tú”, hay “nghệ
sĩ nhân dân”) khi sang Mỹ biểu diễn.
Bà Thanh Nguyễn (Anaheim), một khán giả rất thích xem phim bộ truyền hình,
cho biết: “Tối đi làm về mở tivi xem phim bộ giải trí thôi. Cứ hết đài này đến
đài kia, tùy giờ chiếu. Nói chung là phim tình cảm tâm lý xã hội, diễn viên đẹp,
đóng hay, dù cốt truyện cũng không có gì nhưng lôi cuốn. Xem cho hết giờ rồi đi
ngủ, chứ tôi cũng không quan tâm đến chính trị, thời sự gì.”
Xem xong những phim truyền hình nhiều tập như thế, cái gì sẽ “đọng lại”
nơi khán giả? Hình như điều lớn nhất là xã hội Việt Nam vẫn an ổn (?) Dù nhiều
xung đột, mâu thuẫn nhưng kẻ xấu luôn bị pháp luật trừng trị thích đáng. Trong
một số phim khác, khán giả còn được thấy công an Việt Nam nhân hậu, bản lĩnh
(!).
Chắc chắn chẳng riêng giới sản xuất phim truyền hình nhiều tập ở Việt
Nam, đạo diễn, diễn viên và khán giả của những phim này đang sống tại Việt Nam
cũng biết thực trạng xã hội Việt Nam khác xa trong phim. Thành ra phim truyền
hình ở Việt Nam không phản ảnh thực trạng xã hội, không có những người chỉ bị
công an mời lên đồn uống cà phê thôi đã lên bàn thờ; không có những người chỉ
viết blog mà bị vào tù,…
Cách đây chừng mười năm, hầu hết các đài truyền hình tiếng Việt ở Quận
Cam đều kiểm tra rất kỹ hình ảnh của các bộ phim truyện trong nước trước khi
trình chiếu. Họ cắt hình ảnh cờ đỏ sao vàng, bỏ hình ông Hồ, không dùng hình
công an, bộ đội,… Nói chung, ban biên tập thẳng tay cắt bỏ những hình ảnh “nhạy
cảm”, dễ làm cho người Việt hải ngoại nhớ lại ký ức đau buồn mà chế độ cộng sản
đã gây ra cho gia đình họ.
Bây giờ thì khác. Các phim truyện Việt Nam chiếu trên đài truyền hình Việt
ngữ ở Quận Cam nhan nhản hình ảnh công an phá án, bộ đội diệt “bọn phản động”,
cờ đỏ sao vàng đầy màn hình,… Những hình ảnh ca ngợi công an trở thành bình thường
trên nhiều bộ phim được chiếu trên đài truyền hình địa phương. Hình ảnh đó trở
nên “quen thuộc” đến nỗi có một bà nội trợ “chuyên trị” phim bộ trong nước nói
rằng “công an có người này người kia chứ họ cũng đâu có đến nỗi nào” (?!) dù chồng
bà cũng là người tù cải tạo, và bà định cư ở Mỹ theo diện H.O.
Cộng đồng người Việt ở đây giờ gần như chẳng ai buồn lên tiếng phản đối.
Một ông cụ “có chân” trong hội đoàn nổi tiếng chống cộng tỏ vẻ ngạc nhiên khi
được hỏi ông nghĩ sao về những phim truyền hình như thế. Ông nói không xem nên
không biết, còn hỏi lại “có thiệt không?”
Một ông khác giấu tên nói: “Chúng tôi biết điều này và đã từng góp ý với
đài truyền hình chiếu những bộ phim như thế rồi. Họ nói ‘dạ dạ, để em xem lại…’
rồi thôi. Mình đâu kiểm soát họ 24/24 được. Quan trọng là ‘ý thức chính trị’ của
họ”.
Theo ông, vấn đề này cũng thuộc loại “nhạy cảm”, làm không khéo dễ bị “chụp
mũ” là vu khống người khác là cộng sản, bị ra tòa là phiền. “Lúc đó thân ai nấy
lo, ‘cộng đồng cộng điếc’ gì cũng trốn biệt. Lỡ bị bắt bồi thường thì tiền
đâu?”
Ông lo xa cũng đúng, vì ở đây đã có “bài học xương máu” về chuyện “chụp
mũ” để rồi bị tán gia bại sản, nên ai muốn lên tiếng cũng phải ngó trước, nhìn
sau.
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/06/50-nam-Truyen-hinh-Viet-ngu-Ky-2-03.jpg
Phim tài liệu “Hành trình xuyên Việt” của SBTN sản
xuất năm 2009 – Ảnh chụp màn hình YouTube
Ở góc nhìn của người làm truyền thông, nhạc sĩ Trúc Hồ (Giám đốc
đài SBTN) chia sẻ:
“Văn hóa của chúng ta đang bị tàn phá ít nhiều bởi
phim bộ Việt Nam. Nó như sóng ngầm. Ai cũng biết nhưng tại sao mọi người lại
làm ngơ? Những nhà giáo dục ở đâu? Những nhà làm chính trị, lãnh đạo cộng đồng
đang ở đâu? Ca sĩ hải ngoại về nước hát những ca khúc trước năm 1975 thì bị
‘đánh’, trong khi nó (phim bộ Việt Nam) xuất hiện mỗi ngày ở nơi đông người Việt
cư ngụ nhất, mà mình vẫn tỉnh bơ? Thực sự tôi không hiểu.”
Nếu nhìn tổng thể, xem tất cả hơn 20 đài truyền hình Việt ngữ tại Quận
Cam, người ta dễ dàng nhận ra rằng, chỉ có một số ít đài có cố gắng thực hiện một
số chương trình riêng, như đài SET, VNA, Saigon TV, Little Saigon TV, VietFace,
VBS, AWM…
Nhiều đài truyền hình khác mở ra chỉ để chiếu phim Việt Nam, buôn bán dược
thảo. Các chương trình khác họ đều “vay mượn” ở nơi khác mang về chiếu, như tin
tức thì lấy ở trang web RFA, VOA,… gameshow thì lấy trong nước. Những “đài truyền
hình” như thế không làm phóng sự cộng đồng, và cũng không “mặn mà” lắm đến loại
phóng sự này vì một số nguyên nhân.
Thứ nhất, họ không có đội ngũ phóng viên chuyên nghiệp. Thứ hai, theo lời
một chủ nhân đài truyền hình, thì họ “chỉ đơn thuần làm truyền hình ‘giải trí’
(entertainment)”, và “chúng em không muốn dính đến chính trị cộng đồng” (!)
Có một thực trạng đáng buồn hiện nay là những cơ sở truyền thông nào có
nhiều chương trình chống cộng, càng khó lấy quảng cáo. Một chủ nhân đài radio
giấu tên cho biết, họ bị một số thân chủ gọi điện thoại đến hủy hợp đồng quảng
cáo vì “ khách hàng của em phàn nàn đài anh chống cộng quá… nên cho em ngưng
một thời gian cho êm rồi em quay lại”.
Còn quá sớm để đặt câu hỏi rằng, cách từ chối đó có nằm trong kế hoạch “tẩy
chay” của một lực lượng nào đó hay không. Thế nhưng, nhiều người nhận ra rằng cộng
đồng người Việt ở đây ngày càng đông thì sự “đổi màu” càng rõ nét.
Một người chuyên lấy quảng cáo cho các đài truyền hình nói rằng, những
đài có nhiều giờ chiếu phim truyện Việt Nam dễ lấy quảng cáo hơn những đài
khác. Điều này chứng tỏ lượng khán giả thích xem phim trong nước ngày càng
tăng, vô hình chung, họ trở thành một lực lượng quan trọng trong việc thu hút
quảng cáo cho đài truyền hình.
Lực lượng không nhỏ đó phần lớn là các bà nội trợ, hoặc đã về hưu. Trong
số đó, chắc chắn có không ít gia đình đã từng là thuyền nhân, gia đình H.O… Chẳng
lẽ tương lai truyền hình Việt ngữ hải ngoại lại do lực lượng này quyết định?
.
Tương
lai truyền hình Việt ngữ hải ngoại đi về đâu?
Cách đây hơn mười năm, đài SBTN hợp tác với Việt Mỹ Film sản xuất phim
“Chuyện tình Bolsa” dài 15 tập, được chiếu trên đài SBTN, sau đó phát hành DVD.
Do quá tốn kém, lại không đạt hiệu quả về doanh thu, SBTN không tiếp tục làm
phim truyện, mà chuyển hướng qua làm phim tài liệu. Nhạc sĩ Trúc Hồ nói:
“SBTN làm rất nhiều document, như Hành Trình Xuyên Việt, Giác Ngộ,
Thánh Địa, 40 Năm Hành Trình Tỵ Nạn v.v… Những document đó rất giá trị. Tốn
nhiều tiền lắm, nhưng tôi thấy đó là sự cần thiết, nếu mình không làm thì ai
làm? Những document này mang tính giáo dục cao, dành cho thế hệ sau, xem để biết
cha ông chúng như thế nào. Hành Trình Xuyên Việt là một chuyến đi dài
ngày của anh em trong nước, đi lén, quay lén, ra tận mấy cái đảo luôn.”
https://saigonnhonews.com/wp-content/uploads/2023/06/50-nam-Truyen-hinh-Viet-ngu-Ky-2-04.jpg
Cảnh trong phim “Đời người Mỹ gốc Việt” của đạo diễn
Nguyễn Đào Tam Anh, sản xuất năm 2017 – Ảnh chụp màn hình YouTube
Sự cố gắng của nhạc sĩ Trúc Hồ và đài SBTN cũng chỉ dừng lại ở đó. Dù biết
là cần thiết, tự đặt cho mình nhiệm vụ phải làm, nhưng “tiền không có làm sao
dám ló… đầu?”
Mãi đến năm 2017, đạo diễn trẻ Nguyễn Đào Tam Anh thực hiện bộ phim truyền
hình Đời người Mỹ gốc Việt. Anh tự tìm nhà bảo trợ, lấy nguồn hoa hồng
quảng cáo cho các đài truyền hình của chính anh, rồi “cân đo đong đếm” sản xuất
bộ phim này được 12 tập. Phim được chiếu trên đài VietFace TV, S-Chanle TV,
cùng trên hệ thống direct TV 2076 và Galaxy. Sau đó thì… ngưng! Không biết vì
lý do gì anh không thực hiện tiếp những bộ phim truyền hình khác, nhưng có lẽ,
lý do chính vẫn là khó khăn về kinh phí.
Nhà báo Trần Nhật Phong (tốt nghiệp đạo diễn điện ảnh tại New York năm
1992), cho rằng làm phim bộ ở hải ngoại là không hợp lý, vì quá tốn kém, mà thị
trường lại nhỏ. Ông cho rằng các đài truyền hình ở đây nên khai thác đề tài
giáo dục, gia đình, vì “đỡ tốn kém hơn, mà lại có chiều sâu hơn, chinh phục được
nhiều lứa tuổi”.
“Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy trong đài truyền hình Mỹ,
những chương trình được nhiều người theo dõi không phải là phim bộ (mặc dù
chúng rất hay), mà là những chương trình về đời sống như chương trình của Oprah
Winfrey. Những chương trình đó tuy tốn công sức nhiều nhưng chi phí sản xuất thấp.
Những nội dung đó vẫn kích thích khán giả. Ăn thua mình chọn cách làm như thế
nào để đạt được rating cao mà vẫn có chiều sâu. Khai thác cảm xúc thật của con
người tốt hơn là cường điệu hóa qua phim ảnh.” – Nhà báo Trần
Nhật Phong.
Hiện nay một số đài truyền hình Việt ngữ ở Quận Cam đã và đang phát triển
chương trình theo hướng này, tuy nhiên, hiệu quả của những chương trình này hiện
vẫn còn thấp, chưa tạo ra hiệu ứng để khán giả phải đón xem tiếp.
Nhạc sĩ Trúc Hồ cho rằng làm gì thì làm, phải không được để “mất gốc”.
Ông nói:
“Tương lai truyền hình sẽ như thế nào nếu bây giờ
chúng ta không bảo vệ nền văn hóa của chúng ta. Nếu chúng ta quên đi nguyên
nhân tại sao chúng ta ở đây thì mình không có khả năng tồn tại. Nếu chúng ta
quên nền văn hóa của chúng ta là gì thì chúng ta cũng không xứng đáng tồn tại.”
No comments:
Post a Comment