QUY
HOẠCH ĐƯA ĐẤT NƯỚC QUAY LẠI THỜI “QUAN LIÊU BAO CẤP”
Trong buổi tọa đàm “Giải bài toán thiếu điện” [do CLB Café Số tổ chức
chiều 9-6-2023] ông Hà Đăng Sơn (một chuyên gia) có ý phê bình những người phê
bình “Quy hoạch điện VII”. Ông mô tả công việc của những người làm quy hoạch là
rất phức tạp và đòi hỏi trí tuệ. Tuy nhiên, ông Sơn than là Quy hoạch “quá cứng
nhắc, 5 năm mới được điều chỉnh, trong khi thực tế thay đổi chóng mặt”.
Cùng trên bàn chủ tọa, tiến sĩ Nguyễn Đình
Cung, cho rằng, “Thực tế thay đổi sao không viết lại quy hoạch. Sao lại tự mình
vẽ ra (quy hoạch) rồi buộc mình”. Theo ông Cung, “phải để thị trường ban hành”.
Ông Cung cho rằng, “Phải thay đổi cách thức làm chính sách, phải để các nhà đầu
tư đưa ra quyết định, đừng bàn nữa, đừng chỉ thị nữa”.
TS Nguyễn Đình Cung giải thích, “Thiếu điện là
cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư. Thay vì ngồi xét duyệt hồ sơ [mua điện từ 85
dự án năng lượng tái tạo không kịp giá fit] thì chỉ cần dùng giá là mua được”.
Nguyên Long, một nữ nhà báo rất thuộc bài và dẫn chương trình khá duyên dáng, cắt
lời, “Nhưng điện là hàng hóa đặc biệt”. TS Nguyễn Đình Cung dơ hai tay lắc đầu.
Có cảm giác như ông rất tuyệt vọng khi đã cố giảng giải về “thị trường” mà những
người xung quanh ông vẫn tư duy “hành chánh”.
85 dự án năng lượng tái tạo [phần lớn đã xong]
ngồi chờ duyệt giá và ngay cả khi EVN có mua điện của họ, cũng không thể chuyển
điện ra miền Bắc nơi đang thiếu điện.
Các đại diện của EVN trong Tọa đàm này không
nói ra nhưng rõ ràng không phải EVN không phải không biết năm nay miền Bắc thiếu
điện, không phải không biết miền Nam sẽ dư điện nếu khai thác từ 85 dự án năng
lượng tái tạo. Nhưng EVN, nơi kiểm soát 100% việc truyền tải điện, không làm đường
dây 500kv nối “mạch 3” từ Vũng Áng – Quảng Trạch ra. EVN chịu ràng buộc bởi Quy
hoạch điện VII và chỉ tư duy trong “Quy hoạch”.
TS Nguyễn Đình Cung nằm trong số 37 cán bộ trẻ
của Việt Nam được gửi sang các nước phương Tây, năm 1992, học về kinh tế thị
trường theo học bổng của UNDP. Ông là người trực tiếp thiết kế Luật Doanh nghiệp
1999.
Trong thập niên 1990s, không chỉ có những cán
bộ trẻ như ông Cung, những nhà lãnh đạo của quốc gia như ông Võ Văn Kiệt, Phan
Văn Khải, cùng các bộ trưởng đều hiểu, nguyên nhân chính đưa đất nước chìm xuống
tận đáy là do áp dụng mô hình xô viết [khi chưa thấy sai ta gọi là “nền kinh tế
kế hoạch hóa”, khi thấy sai ta gọi là “cơ chế quan liêu bao cấp”]. Họ biết, chỉ
có kinh tế thị trường mới “đánh thức được tiềm lực” của dân, của nước.
Toàn bộ cơ chế chính sách được thiết lập trong
giai đoạn ông Võ Văn Kiệt và ông Phan Văn Khải làm thủ tướng đều là khai thông,
là thiết lập một hành lang pháp lý cho kinh tế thị trường. Việt Nam lúc đó đã
chấp nhận các đòi hỏi của phương Tây qua các hiệp định song phương, đặc biệt là
Hiệp định BTA với Mỹ, qua các định chế quốc tế như UNDP, IMF, WB… và về sau là
WTO để sửa hàng trăm điều luật.
Tôi hay nói với trưởng đoàn đàm phán Hiệp định
thương mại Việt – Mỹ, ông Nguyễn Đình Lương, “Điều gì ở trên bàn đàm phán, các
anh thua thì nhân dân Việt Nam chiến thắng”. Đấy không phải là một câu đùa. Ông
Lương cũng thừa nhận là hầu hết những điều họ đòi hỏi là cần thiết cho nền kinh
tế và mở ra cho dân mình.
Luật Doanh nghiệp 2005, là một trong những văn
bản luật cuối cùng được sửa theo tinh thần cam kết gia nhập WTO [không còn phân
biệt doanh nghiệp nước ngoài và trong nước]. Những quy định trong Luật Doanh
nghiệp 2005 vẫn trên tinh thần ấy, thông thoáng.
Hôm qua, PTGĐ EVN, ông Võ Quang Lâm nói rằng,
“Sau đường dây 500kv mạch 1, được làm dưới thời Thủ tướng Võ Văn Kiệt, ta có mạch
2, làm rất nhanh, hoàn thành năm 2005. Nhưng, mạch 3, đoạn từ Vũng Áng – Quảng
Trạch ra, nếu làm không thể nào nhanh được vì thủ tục vô cùng rắc rối”.
Số 6 Hoàng Diệu là trụ sở của Ủy ban Kế hoạch
Nhà nước, nhưng từ “sào huyệt của quan liêu bao cấp” ấy, “con đẻ” của Ủy ban, Bộ
Kế hoạch Đầu tư lại đã cung cấp cho đất nước các tác giả của những chính sách đổi
mới. Nếu Bộ Kế hoạch Đầu tư “tuyên bố hoàn thành nhiệm vụ” từ cuối nhiệm kỳ của
Thủ tướng Phan Văn Khải thì về chính sách, chúng ta vẫn có thể theo hướng thị
trường.
Từ 2011, một thế hệ lãnh đạo mới bắt đầu thay
thế. Khi ở cấp trung ương, nhiều nhà lãnh đạo cay đắng nhận ra “con đường làm
khánh kiệt quốc gia” thì họ đang ở cấp rất thấp hoặc đang ở địa phương. Khi các
nhà lãnh đạo đổi mới biết mình phải “học phương Tây” để có kinh tế thị trường,
thì họ đang bổ sung các chứng chỉ chính trị để tìm đường thăng tiến.
Họ không thực sự hiểu kinh tế thị trường mà
đang nắm kinh tế thị trường; họ không có tư duy chính sách mà say sưa làm chính
sách.
Luật Đầu tư 2014 là một trong những luật mẹ đẻ
ra “trận đồ bát quái” về thủ tục. Đặc biệt, Luật Quy hoạch 2017 là một ví dụ
tiêu biểu về “quan liêu”. Tôi chưa từng thấy có cái luật nào trên thế giới mà
tư duy tối tăm như Luật ấy. Điều nguy hiểm hơn, Luật Quy hoạch 2017, đe dọa những
nỗ lực đưa đất nước phát triển theo hướng kinh tế thị trường [thị trường thất bại
thì lấy đâu phúc lợi cho định hướng] và có nguy cơ tiến gần tới mô hình “tập
trung”, mô hình đã và chắc chắn sẽ dẫn đến “quan liêu – bao cấp”.
Tôi hiểu nỗi tuyệt vọng của TS Nguyễn Đình
Cung. Làm sao mà không đau khi cũng từ số 6 Hoàng Diệu có những thế hệ đã từng
khát vọng xây dựng kinh tế thị trường và đã “thể chế hóa” thành công những khát
vọng ấy. Cũng từ số 6 Hoàng Diệu, lại xuất hiện tác giả của những chính sách đi
ngược với kinh tế thị trường. Đau nhất là không rõ, họ có biết họ đang làm gì với
đất nước.
HÌNH : https://www.facebook.com/photo/?fbid=6118341244867672&set=a.305706452797876
.
No comments:
Post a Comment