Nguyễn Thị Thanh Bình phỏng vấn GS Lê
Xuân Khoa về ngày 30/4
Nguyễn
Thị Thanh Bình thực hiện năm 2021
Posted on 06/05/2023 by admin
https://boxitvn.online/?p=83894
Lê Xuân Khoa vào
nghề dạy học năm 1950 tại trường trung học Nguyễn Huệ, Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp
Đại học Văn khoa và Cao đẳng Sư phạm năm 1953, ông vào Saigon dạy tại trường
công lập Petrus Ký. Năm 1958, ông được chuyển sang làm chuyên viên viết sách
giáo khoa cho Sở Tu thư Bộ Quốc gia Giáo dục. Ông cũng tham gia ban biên
tập nguyệt san Văn Hóa của Bộ Giáo dục do Giáo sư Nguyễn Khắc Kham làm Chủ bút,
hợp tác với tạp chí Bách Khoa, tập san Tư Tưởng của Viện Đại học Vạn Hạnh và
các nhật báo Tự Do, Chính Luận.
Trước 1975, ngoài
nghề nghiệp chính là giáo sư Đại học Văn Khoa và Đại học Đà Lạt, ông Lê Xuân
Khoa đã đảm nhận các chức vụ sau đây:
- 1958-1960: Tổng
thư ký Hội Việt Nam Nghiên cứu Liên lạc Văn hóa Á châu do Gíáo sư Nguyễn Đăng
Thục làm Chủ tịch, xuất bản tạp chí Văn Hóa Á Châu và ấn bản Anh ngữ Asian
Culture.
- 1962-1963: Chủ
nhiệm tuần báo Xã Hội Mới, với Luật sư Vương Văn Bắc làm Chủ bút.
- 1965: Đổng lý Văn
phòng Bộ Văn hóa Giáo dục, thời BS Nguyễn Tiến Hỷ, Quốc Vụ Khanh kiêm Tổng trưởng
Bộ Văn hóa Giáo dục, Chính phủ Phan Huy Quát.
- 1966: Bộ Giáo dục
biệt phái một năm sang Đại học Vạn Hạnh giúp tổ chức và soạn thảo chương trình
Khoa học Nhân văn.
- 1966-1967: Phó
Giám đốc Tổ chức các Tổng trưởng Giáo dục Đông Nam Á (SEAMEO), Bangkok, Thái
Lan.
- 1971-1975: Giám đốc
Nhà xuất bản Hiện Đại do Hội Việt-Mỹ bảo trợ, thực hiện dự án dịch thuật và xuất
bản các sách giáo khoa Đại học Mỹ cho sinh viên Đại học Việt Nam.
- 1973-1975: Chủ
nhiệm tạp chí Phát Triển Xã Hội và ấn bản tiếng Anh Social Development với GS
Luật khoa Tạ Văn Tài làm Chủ bút.
- Năm 1974-1975:
Phó Viện trưởng Đại học Saigon đặc trách Nghiên cứu Phát triển, do GS Đại học Y
khoa Saigon Nguyễn Ngọc Huy làm Viện trưởng.
Tháng Tư 1975, ngay
sau khi tới Hoa Kỳ, GS Lê Xuân Khoa hoạt động liên tiếp 22 năm về tị nạn cho tới
năm 1997. Quan trọng nhất là những cuộc vận động các nhà làm chính sách của
Hoa Kỳ và quốc tế về cứu trợ, bảo vệ và định cư tị nạn trong thời gian ông tham
gia tổ chức Indochina Refugee Action Center từ 1979 (sau đổi tên là Southeast
Asia Resource Action Center (SEARAC) và chính thức cầm đầu tổ chức này năm
1981. Ông có quan hệ làm việc trực tiếp với nhiều nhà lãnh đạo Mỹ, UNHCR,
chính phủ Hong Kong và các quốc gia Đông Nam Á cho tị nạn tạm trú. Đóng góp đặc
biệt của ông và SEARAC là tổ chức hội nghị 15 nước liên quan đến tị nạn Việt
Nam tại Washington, DC năm 1988 để chuẩn bị cho Hội nghị quốc tế Geneva năm
1989, sau đó giúp chính phủ Hoa Kỳ thực hiện được giải pháp công bằng và nhân đạo
cho thảm trạng thuyền nhân tị nạn Việt Nam năm 1995. Ông tham dự nhiều hội nghị
quốc tế, không chỉ về tị nạn, đặc biệt là thành viên phái đoàn chính phù Hoa Kỳ
tại hội nghị Warsaw năm 1993 do Hội đồng An ninh và Hợp tác Châu Âu (CSCE) tổ
chức, được Bộ Ngoại giao và Quốc hội Hoa Kỳ ngợi khen về những sáng kiến của
ông đóng góp cho hội nghị. Năm 1997, khi đang làm giáo sư thỉnh giảng tại trường
Cao Học Nghiên Cứu Quốc Tế (SAIS) và học giả ngoại trú của Học Viện Chính sách
Đối ngoại (FPI), ông được Ditchley Foundation mời tham dự hội nghị về “Công bằng
Xã hội và Giải quyết Nạn Nghèo Đói trên Thế giới” tại Oxfordshire, Anh quốc.
Ở Việt Nam, ngoài
những bài vở và công trình nghiên cứu văn hóa giáo dục, GS Lê Xuân Khoa là tác
giả cuốn Thư tịch Phật học Việt Nam (Văn Hóa Á Châu, Saigon, 1962) và Nhập môn
Triết học Ấn độ (Bộ Quốc gia Giáo dục, 1965, 1972). Tại Hoa Kỳ, ông là Chủ bút
tờ báo The Bridge từ 1984 đến 1997, tác giả của nhiều bài báo, bài điều trần về
chính sách tị nạn gồm cả hai bài tham luận cho tạp chí Đại học Oxford ở Anh và
Đại học San Francisco, California. Tác phẩm chính của ông sau khi về hưu là cuốn Việt
Nam 1945-1995: Chiến tranh, Tị nạn và Bài học Lịch sử (Tiên Rồng,
2004, 2006; Người Việt, 2018). Ông đang tiếp tục hoàn tất cuốn Lịch sử Tị nạn
và Cộng đồng, dự trù sẽ ra mắt cuối năm 2022.
***
- Nguyễn Thị Thanh
Bình: Kính thưa GS Lê Xuân Khoa, hẳn nhiên GS cũng đã có những cuộc phỏng vấn
về ngày 30/4. Dù vậy, cho đến bây giờ là chặng đường lê thê đã 46 năm, sau biến
cố lịch sử của ngày đổi đời 30/4, liệu GS có điều gì còn băn khoăn khi nhìn về
quê hương, nhìn lại những thế hệ con cháu và chính mình, để thấy rằng cách gọi
Ngày Thống Nhất Đất Nước mà GS dường như đã đồng cảm nhất, cho đến hôm nay tại
sao vẫn chưa thể thống nhất được lòng người? Và để có một ước mơ duy nhất cho
quê nhà Việt Nam, thì điều đó là gì, khi GS phải để lại một lời di chúc cho
cháu con mình, cho một đất nước có tới hơn 65% là ‘thanh niên rường cột nước
nhà’ vẫn đang là một thế hệ cúi đầu, dửng dưng với câu nhắc nhở “quốc gia hưng
vong, thất phu hữu trách”, tuyệt nhiên không giống như giới trẻ của Hồng Kông,
Thái Lan, và Miến Điện?
Xin trân trọng cám ơn GS Lê Xuân Khoa!
- Lê Xuân Khoa:
Tôi rất tiếc vì đang trong tình trạng phải chữa bệnh khá nặng nên không
thể nào nhận lời phỏng vấn cho tập sách “Những Suy nghĩ về Ngày 30 tháng Tư” do
nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình chủ biên gồm những bài phỏng vấn một số trí thức
và nhà văn tên tuổi trong và ngoài nước. Tuy nhiên, rốt cuộc chị Thanh Bình vẫn
tạo điều kiện cho tôi tham gia bằng cách chỉ phỏng vấn tôi một câu gợi mở để bổ
sung cho những phát biểu của tôi trong cuộc hội thảo cũng do chị đứng ra tổ chức
tại trụ sở Hội Cao Niên ở Virginia vào mùa Thu 2018.
https://drive.google.com/uc?id=1Wi4WYqTGVgF6_TZjr8eBaxTTKKBAGrC4
Bìa sách “NHỮNG SUY NGHĨ VỀ NGÀY 30.4”
Tôi đồng ý với chị chủ biên rằng những nhận định của tôi vào thời điểm
đó vẫn còn thích hợp với tình hình đất nước hiện nay, chỉ có giải pháp tất yếu
nêu ra ở phần cuối – sự thành lập một đảng hay tổ chức chính trị đối lập – thì
tôi thấy cần phải xem xét kỹ khả năng thực hiện trước tình trạng phức tạp hiện
thời của Đảng lãnh đạo về đối nội và đối ngoại sau Đại hội 13: tranh
giành quyền lực giữa các phe nhóm lãnh đạo Đảng, nỗi lo sợ bị các “thế lực thù
địch” can thiệp hay lật đổ, hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” của đảng
viên, và đặc biệt là trước nguy cơ xung đột giữa Mỹ và Trung Cộng mà thực tế
thì Trung Cộng đã tham chiến với Mỹ trong “vùng xám” mà chủ yếu là Biển Đông,
như bài tường thuật vừa qua của Jamie Seidel, tổng hợp nhận định của các chiến
lược gia cao cấp Mỹ*. Một dấu hiệu gần đây mà những người yêu nước cần theo dõi
sát để hành động thích hợp là Hà Nội đã biểu lộ xu hướng hợp tác với Washington
nhiều hơn trong nỗ lực bảo vệ chủ quyền đất nước để tạo cân bằng trong chính
sách đu dây với Bắc Kinh. Mặc dù vẫn phải bám chặt vào Trung Cộng để có thể duy
trì quyền lực, lãnh đạo Hà Nội biết rất rõ thân phận “vắt chanh bỏ vỏ” của họ một
khi Bắc Kinh đã hoàn toàn làm chủ được đất nước và dân tộc Việt Nam bằng cuộc
chiến “sức mạnh mềm”. Khi đó, danh xưng Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
đương nhiên bị xóa bỏ trên danh sách hội viên Liên Hiệp Quốc vì đã bị sáp nhập
vào Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Các nhân vật lãnh đạo trong bộ máy cầm quyền
CSVN, từ trung ương tới địa phương, đều trở thành những “hàng thần lơ láo” sống
lạc lõng như một loại công dân hạng hai khó có thể yên thân với tài sản đã vơ
vét được trước cặp mắt cú vọ của những tên cán bộ Trung Cộng có đôi chút quyền
lực. Hàng triệu tín đồ các tôn giáo lớn và những người Việt yêu nước sẽ bị dồn
vào những trại tập trung cải tạo làm lao công sản xuất hàng hóa, thực phẩm xuất
cảng cho tư bản đỏ như tình trạng dân Tây Tạng và Duy Ngô Nhĩ từ nhiều năm qua.
Hàng chục triệu thường dân khác sẽ bị đối xử phân biệt và bóc lột dưới nhiều
hình thức khác nhau. Dân tộc Việt Nam thời Bắc thuộc bị thống trị bởi các triều
đại phong kiến ngày trước còn có cơ hội vùng lên giành lại độc lập và chủ quyền
cho Tổ Quốc, nhưng dưới chế độ toàn trị tân kỳ của Tập Cận Bình ngày nay, với sức
mạnh kinh tế, quân sự và khoa học công nghệ ngang ngửa với Hoa Kỳ, khả năng
thoát khỏi ách đô hộ của Bắc Kinh có thể coi như vô vọng, trừ trường hợp có biến
cố bất thường trong nội bộ Việt Nam hay từ bên Trung Cộng.
Vấn đề đáng xem xét là mặc dù hiểu rõ dã tâm của “thiên triều” muốn chiếm
đoạt đất nước và Hán hóa dân tộc Việt mà hậu quả là tương lai đen tối của bản
thân và đảng CSVN, liệu lãnh đạo CSVN có thể làm được gì khác hơn là lặp lại
nguyên văn những lời xác định nhàm chán về chủ quyền biển đảo và phản đối những
bước lấn tới quá trắng trợn của Bắc Kinh, như vụ đặt giàn khoan Hải Dương-981
trong hải phận Việt Nam hồi tháng 5/2014, ép buộc VN phải hủy bỏ hợp đồng hợp
tác thăm dò dầu khí với các công ty ngoại quốc khác, bắt giữ và sát hại ngư dân
VN đánh cá trong trong vùng biển hợp pháp, v.v. Liệu những việc tiếp nhận
và mua thêm vũ khí phòng thủ, tham gia vài cuộc tập dượt với Mỹ và đồng minh
trên Biển Đông, gia tăng quan hệ với Mỹ, Nhật và Ấn độ trong chiến lược phát
triển hợp tác khu vực Thái Bình Dương – Ấn độ Dương có dẫn đến việc cải thiện
quan hệ giữa chính quyền và nhân dân trong nước? Tôi không thể lạc quan khi
chính quyền thay vì nới lỏng lại gia tăng kiềm chế hoạt động của xã hội dân sự
và đàn áp các thành phần yêu nước. Chưa có yếu tố cụ thể nào có thể tin
tưởng đây là thời điểm thuận lợi cho xu hướng Thoát Trung trong nội bộ lãnh đạo
CSVN. Dù sao, bất cứ một dấu hiệu tích cực nào cũng cần được tìm hiểu, khuyến
khích và chuẩn bị tiến đến một đồng thuận nhằm xây dựng sức mạnh dân tộc và sự
hỗ trợ của quốc tế chống bá quyền Trung Cộng. Lãnh đạo Đảng CSVN muốn bị nhân
dân và lịch sử muôn đời kết án và nguyền rủa về tội ác bán nước và đồng lõa diệt
chủng hay sẽ được ghi nhận những nỗ lực kết hợp sức mạnh toàn dân đánh bại dã
tâm của kẻ thù phương Bắc, bảo toàn độc lập của Tổ Quốc và dòng giống Việt Nam?
Đây là một chủ để quan trọng cần được thảo luận và giải quyết.
Dưới đây là nội dung bài phát biểu về hiện tình đất nước của tôi trong
dịp trở lại vùng thủ đô thăm bà con và bạn hữu vào mùa Thu 2018. Sau đó sẽ là
phần trả lời câu phỏng vấn bổ sung của nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình.
Hai mối quan tâm lớn nhất của người Việt ở trong và ngoài nước hiện nay
là hiểm họa Trung Quốc và chế độ độc tài tham nhũng. Đây là một đại bất hạnh
chưa từng có trong hơn 2.000 năm lịch sử của một dân tộc đã đánh bại mọi cuộc
xâm lược và mưu toan đồng hóa của đế quốc khổng lồ phương Bắc, không chỉ bằng
quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền của quê cha đất tổ mà còn nhờ tinh thần
đoàn kết, trên dưới một lòng, giữa các triều đại cầm quyền và toàn thể nhân
dân. Ngày nay, dưới sự cai trị của một tập đoàn lãnh đạo cộng sản, để duy trì
chế độ độc tài toàn trị và bảo vệ lợi ích của bộ máy cầm quyền tham nhũng, đám
lãnh đạo này, thay vì cùng với nhân dân sử dụng sức mạnh của dân tộc chống lại
dã tâm của kẻ thù phương Bắc, đã chấp nhận làm chư hầu của chúng và quay lại
đàn áp mọi thành phần nhân dân yêu nước.
Vì nỗi bất hạnh lớn nhất trong lịch sử kể trên, giữa vô số vấn đề khó
khăn về cả hai mặt đối nội và đối ngoại, toàn thể người Việt ở trong và ngoài
nước phải tập trung mọi khả năng và điều kiện thuận lợi vào việc thực hiện hai
mục tiêu ưu tiên là “thoát Trung” và “thoát Cộng”. Vấn đề đang được tranh cãi
là thoát Trung trước hay thoát Cộng trước?
Một số nhà tranh đấu đã chủ trương muốn thoát Trung thì phải thoát Cộng
trước, vì chính quyền cộng sản độc tài tham nhũng là trở ngại cận kề, sát nách,
đang sử dụng mọi phương tiện thô bạo để ngăn chặn trí thức và xã hội dân sự chống
lại sách lược của Trung Quốc dùng sức mạnh mềm (soft power) để từng bước chiếm
đoạt đất nước và Hán hóa dân tộc Việt. Một khi đã loại trừ được chế độ độc tài
cộng sản và thay thế bằng chế độ dân chủ thật sự thì chính quyền và nhân dân sẽ
kết hợp thành sức mạnh vô địch và cuộc đấu tranh chống Trung Quốc xâm lược nhất
định sẽ thành công.
Lý luận này rất lô-gích và phù hợp với truyền thống yêu nước của dân tộc
Việt. Tuy nhiên, tình hình chính trị Việt Nam hiện nay sẽ không diễn ra đơn giản
như vậy. Trí thức và nhân dân yêu nước đang đứng trước một số vấn đề và câu hỏi
thực tế cần được giải đáp trước khi hành động thích hợp.
1. Muốn giải thể một
chế độ độc tài cần phải có ít nhất là một tổ chức dân chủ đối lập và lãnh đạo
có uy tín được sự ủng hộ của nhân dân và quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam chưa có
sự xuất hiện của một tổ chức và lãnh đạo đối lập nào, dù có đường lối ôn hòa,
xây dựng. Không biết đến khi nào mới có đảng đối lập, rồi kể từ đó cho đến khi
thoát Cộng và thành lập được một chính thể dân chủ tam quyền phân lập, đoạn đường
có thể dài vô định trừ khi có biến cố bất thường. Giả thử Trung Quốc hoàn toàn
thôn tính được Việt Nam trong khi các nỗ lực thoát Cộng chưa đạt được, liệu người
Việt yêu nước có thể đồng thời thoát Trung và thoát Cộng được hay không?
2. Chế độ hiện hành, nếu
tiếp tục chính sách lệ thuộc Trung Quốc, tham nhũng, ức hiếp dân oan và đàn áp
người yêu nước thì một ngày nào đó sẽ bị nhân dân bất mãn và nổi dậy lật đổ bằng
cách mạng ôn hòa hay bạo động. Giả thử có một cuộc cách mạng như vậy xảy ra,
làm thế nào tránh được sự hỗn loạn của tình trạng vô chính phủ? Liệu sẽ có được
một nhân vật dân sự hay quân sự nào đủ uy tín và khả năng đứng ra thành lập một
chính quyền dân chủ, ổn định được mọi sự xáo trộn về chính trị, kinh tế và xã hội?
3. Có thể nào Trung Quốc
chịu ngồi yên để cho chế độ cộng sản đàn em bị lật đổ và chấp nhận sự ra đời của
một quốc gia Việt Nam độc lập, dân chủ, đòi lại toàn vẹn chủ quyền trên đất và
trên biển đã bị Trung Quốc chiếm đoạt hay mưu toan chiếm đoạt (như ba đặc khu
kinh tế đang được tạm hoãn thi hành)?
Trở lại với câu hỏi nên thoát Trung hay thoát Cộng trước, những người
chủ trương thoát Trung là ưu tiên số một sẽ giải thích hợp lý rằng nếu dân tộc
Việt Nam có thể thoát ra khỏi sự khống chế của Trung Quốc thì CSVN sẽ đương
nhiên mất chỗ dựa để có thể duy trì chế độ độc tài tham nhũng và sẽ bị thay thế
bởi một chế độ thật sự tự do dân chủ. Nhưng làm thế nào dân tộc Việt Nam có thể
thoát Trung khi lãnh đạo không đồng hành với nhân dân trong cuộc đấu tranh chống
quân xâm lược? Khi đảng cộng sản Việt Nam vẫn còn nắm quyền thống trị, tiếp tục
ngăn cấm và trừng phạt những người yêu nước?
Trước tình trạng lưỡng nan khó xử ấy, giải pháp thích hợp nhất là vừa
thoát Trung vừa thoát Cộng bằng cách phát động những chiến dịch kêu gọi thoát
Trung và thoát Cộng sâu rộng trong các giới nhân dân. Mục tiêu của chiến dịch
thoát Trung là cung cấp những thông tin chính xác về những hành động của TQ xâm
phạm chủ quyền và cướp đoạt tài nguyên trên đất và trên biển của VN, tố cáo dã
tâm ác độc của lãnh đạo Trung Quốc nhằm làm suy nhược, đồng hóa hay hủy diệt
dòng giống Việt qua những hành động đầu độc môi trường thực phẩm và gây ô nhiễm
khí hậu, v.v. Mục tiêu của chiến dịch thoát Cộng là tố cáo tội phản quốc của một
số lãnh đạo đảng, tội ác ức hiếp dân oan và lòng tham nhũng vô hạn của các quan
chức chính quyền trung ương và địa phương.
Thức tỉnh lòng yêu nước của người dân và kêu gọi nhân dân đoàn kết chống
tội ác của quân thù phương Bắc trong tình thế hiện nay dễ có hiệu quả hơn cả việc
hô hào nhân dân tham gia tranh đấu cho nhân quyền dân chủ. Tố cáo những hành động
bóc lột dân nghèo, kể cả những gia đình có công với cách mạng, phơi bày tài sản
khổng lồ của các quan chức tham nhũng cũng sẽ làm gia tăng lòng bất mãn và căm
giận của nhân dân đối với nhà nước cộng sản độc tài. Số đảng viên tự diễn biến,
tự chuyển hóa mỗi ngày một đông. Họ đều chán ghét đảng và lãnh đạo nhưng chưa
thể bỏ đảng, hầu hết chỉ vì cần giữ sổ lương hưu.
Đã đến lúc trí thức và nhân dân trong nước phải tìm cách cho ra đời một
tổ chức chính trị đối lập với thành phần lãnh đạo có khả năng và uy tín trong
xã hội. Đã có những tiếng nói sáng suốt và dũng cảm của những cá nhân yêu nước,
nay cần phải kết hợp thành tiếng nói dũng cảm của tập thể. Nói cách khác, đã đến
lúc sức mạnh của từng cây đũa cần phải được kết hợp thành sức mạnh của bó đũa.
Nhân dân trong nước đang trông chờ sự ra đời và lãnh đạo của tổ chức chính trị
này.
Cũng đã đến lúc cộng đồng người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là người Mỹ
gốc Việt cần phải liên kết thành những tổ chức sinh hoạt theo lề lối dân chủ và
thực hiện mục tiêu chung là hỗ trợ đắc lực cho những nỗ lực thoát Trung và
thoát Cộng của người dân trong nước.
Trở lại với câu phỏng vấn mà nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình nêu ra liên
quan đến tên gọi Ngày 30 Tháng Tư mà trong suốt 46 năm qua vẫn còn được tranh
cãi, chưa đạt được sự đồng thuận tối cần thiết cho việc xây dựng một nước Việt
Nam thật sự độc lập, dân chủ và phát triển. Nguyên văn câu hỏi của chị Thanh
Bình là: “Kính thưa GS Lê Xuân Khoa, hẳn nhiên GS cũng đã có những cuộc phỏng
vấn về Ngày 30/4. Dù vậy, cho đến bây giờ là chặng đường lê thê đã 46 năm, sau
biến cố lịch sử của ngày đổi đời 30/4, liệu GS có điều gì còn băn khoăn khi
nhìn về quê hương, nhìn lại những thế hệ con cháu và chính mình, để thấy rằng
cách gọi Ngày Thống Nhất Đất Nước mà GS dường như đã đồng cảm nhất, cho đến hôm
nay tại sao vẫn chưa thể thống nhất được lòng người? Và để có một ước mơ duy nhất
cho quê nhà Việt Nam, thì điều đó là gì, khi GS phải để lại một lời di chúc cho
cháu con mình, cho một đất nước có tới hơn 65% là ‘thanh niên rường cột nước
nhà’ vẫn đang là một thế hệ cúi đầu, dửng dưng với câu nhắc nhở ‘quốc gia hưng
vong, thất phu hữu trách’, tuyệt nhiên không giống như giới trẻ của Hồng Kông,
Thái Lan, và Miến Điện?”.
Khi đặt câu hỏi này, nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình đã liên tưởng đến cuộc
phỏng vấn tôi của phóng viên đài BBC tại California nhân dịp kỷ niệm 35 năm
ngày 30.4.1975 ở hải ngoại. Chị Thanh Bình chú ý đến ý kiến của tôi về tên gọi
“Ngày Thống nhất” và muốn tôi nói rõ hơn quan điểm của tôi về tên gọi này vì
“cho đến hôm nay (46 năm sau) tại sao vẫn chưa thể thống nhất được lòng người?”.
Câu phỏng vấn đầu tiên của BBC là: “Dưới góc nhìn của một nhà
nghiên cứu thì ngày 30/4 có ý nghĩa như thế nào trong tiến trình lịch sử của
dân tộc? Đó là Ngày Chiến Thắng, Ngày Quốc Hận, Ngày Thống Nhất hay ngày đánh dấu
sự chia rẽ sâu sắc của dân tộc không thể nào hàn gắn được?”.
Theo câu trả lời của tôi thì việc gọi ngày 30/4 là Ngày Chiến Thắng hay
Ngày Quốc Hận là tùy theo quan điểm của phe thắng trận hay phe bại trận. Thật
ra, từ ngữ Chiến Thắng đã mau chóng mất dần ý nghĩa ngay từ trong nội bộ của
phe thắng trận vì lãnh đạo cộng sản miền Bắc đã sớm bội ước với Mặt trận Giải
phóng miền Nam và áp đặt chế độ thống trị độc tài hoàn toàn ngược lại nguyện vọng
của nhân dân. Từ nhiều năm qua, ngày 30/4 chỉ còn là ngày được chính quyền kỷ
niệm mừng chiến thắng và đã có xu hướng đổi tên thành Ngày Thống Nhất. Tên
“Ngày Quốc Hận” hay “Tháng Tư Đen” phản ánh tâm trạng đau buồn của cộng đồng
người Việt ở hải ngoại đã phải bỏ lại quê hương, tài sản và liều chết ra đi tìm
cuộc sống tự do ở một quốc gia không cộng sản. Lý tưởng mà nói, hận thù
cần phải xóa bỏ, cần phải quên đi. Là con người không ai muốn nuôi hận thù làm
gì nhưng chữ Quốc Hận đến giờ không thể bỏ được. Người ta muốn quên nhưng
không bỏ được cho đến chừng nào có sự thay đổi ở trong nước tức là khi chính
quyền thật sự bảo vệ độc lập và toàn vẹn chủ quyền đối với Trung Quốc và thực
hiện một chính thể thực sự của dân, do dân, vì dân. Như vậy sẽ hóa giải được
hận thù. Từ chỗ hóa giải hận thù dẫn đến hòa giải và hòa hợp dân tộc. Lúc đó
sẽ không còn ai nói đến Quốc Hận.
Tôi không phải là người đặt tên ngày 30/4 là Ngày Thống Nhất mà chỉ nhận
xét rằng “Có lẽ vì tên ‘Chiến thắng’ đã bị mất ý nghĩa nên những năm sau này
người ta dùng từ ‘Thống nhất’ nhiều hơn.” Dù sao chị Thanh Bình cũng có phần
đúng khi thấy tôi “dường như đã đồng cảm với cách gọi này” khi tôi so sánh với
cách gọi Ngày Chiến Thắng hay Ngày Quốc Hận. Lẽ ra, tôi cũng đã phải nói rõ là
“thực tế chỉ có thống nhất về địa lý chứ không thống nhất được lòng người”. Và
thực tế đơn giản là lòng người sẽ thống nhất, khi không còn lý do để thù hận.
Như vậy, vấn đề chính vẫn là tạo điều kiện chính đáng cho Hòa Giải Hòa Hợp Dân
Tộc. Khi đó, vấn đề thống nhất đất nước và lòng người cũng không còn được đặt
ra, vì mọi người đều chú trọng đến nhu cầu xây dựng và phát triển tương lai.
Trong chiều hướng đó, tôi sẽ phải giải thích lý do tại sao và cần phải để lại một
“lời di chúc” như thế nào, như lời hỏi của Chị Thanh Bình, “cho thế hệ con cháu
của một đất nước có tới hơn 65% là ‘thanh niên rường cột nước nhà’ vẫn đang là
một thế hệ cúi đầu, dửng dưng với câu nhắc nhở ‘quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách,’ tuyệt nhiên không giống như giới trẻ của Hồng Kông, Thái Lan, và Miến
Điện?”.
Tôi cũng từng băn khoăn về vấn đề này mỗi khi nghĩ đến mối quan tâm thường
được nói đến là thái độ “vô cảm” của nhiều người dân Việt thuộc mọi thành phần
xã hội trong một chế độ “công an trị” của cộng sản. Họ đã bị “thuần hóa” để trở
thành những công dân ngoan ngoãn chỉ biết tuân theo mệnh lệnh của chính quyền
vì “mọi việc đã có nhà nước lo”. Nạn tham nhũng trầm trọng trong bộ máy cầm
quyền từ cao xuống thấp, từ trung ương tới địa phương, tạo ra tình trạng chạy
chọt và các mánh khóe gian lận để mưu sinh; các biện pháp răn đe, đàn áp và trả
thù tàn bạo của cán bộ an ninh đã làm nhụt chí khí của một số người có lý tưởng.
Tình trạng đạo đức suy đồi và trật tự xã hội bị đảo lộn ngay cả trong học đường
khiến cho con người chỉ ham muốn hưởng thụ vật chất, nặng đầu óc vị kỷ và thiếu
tình đồng loại. Tuổi trẻ Việt Nam dửng dưng trước trách nhiệm với quốc gia, xã
hội, khác với giới trẻ của Hong Kong, Thái Lan, Miến Điện, vì họ không được
nuôi dưỡng trong những môi trường tự do, dân chủ, có đảng đối lập ngay cả dưới
chế độ độc tài quân phiệt như Miến Điện. Tuy nhiên, nhờ tiếp cận với thế giới
bên ngoài qua những phương tiện thông tin điện tử, hoặc có điều kiện du lịch
hay du học, nhiều thanh niên trong nước cũng thu thập được nhiều tư tưởng tiến
bộ và có những khát vọng về tự do, phát triển con người và xã hội. Một số hăng
say hoạt động dưới hình thức xã hội dân sự, gặp khó khăn, thậm chí bị bắt giữ,
nhưng một số đông biết mình bất lực trước những biện pháp kiểm soát và đàn áp
tàn bạo của chế độ vẫn có thể ảnh hưởng gián tiếp và gieo mầm phát triển tiềm
năng qua nghề nghiệp chuyên môn. Tất cả những tiềm năng cũ hay mới này đều tiếp
tục được vun trồng để sẵn sàng trở thành lực lượng đóng góp qui mô khi có biến
chuyển thuận lợi từ bên trong hay bên ngoài Đảng lãnh đạo. “Lời di chúc” (tôi
muốn thay bằng “Lời nhắn nhủ”) của tôi cho thế hệ trẻ ở Việt Nam là:
“Con người là sinh vật hoàn hảo nhất ở
thế gian. Hãy sống cho xứng đáng với giá trị cao quý đó. Ngoài việc hưởng
thụ những lạc thú chính đáng cần phải thực hiện những nghĩa vụ hợp đạo làm người.
Nghĩa vụ cao cả nhất của người dân Việt Nam trong tình thế hiện nay là quyết
tâm bảo vệ Tổ Quốc và xây dựng đất nước được giàu mạnh và dân chủ. Hãy tiếp cận
với những bạn trẻ đã và đang đóng góp khả năng thích hợp của mình cho lợi ích
chung”.
Tôi muốn mượn đoạn kết của bài viết “Ôn lại đặc điểm lịch sử tị nạn Việt
Nam” (VOA, 28.4.2020) nhân dịp kỷ niệm ngày 30.4 lần thứ 45, năm 2020) để kết
thúc bài trả lời câu phỏng vấn của nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình nhân dịp kỷ niệm
ngày 30.4 lần thứ 46 vì hoàn toàn phù hợp với ý nghĩa bổ sung cho bài “Cảm nghĩ
về hiện tình đất nước” phát biểu từ gần ba năm trước. Đoạn kết đó như sau:
Trong thời gian gần đây, khi có những dấu hiệu cho thấy Việt Nam dường
như muốn cưỡng lại những hành động lấn chiếm ngang ngược của Trung Cộng tại Biển
Đông, một thử thách lớn lại hiện ra như một cơ hội không chỉ riêng cho lãnh đạo
Đảng CSVN mà cũng cho tất cả mọi người Việt Nam yêu nước ở trong và ngoài nước.
Đây cũng là cơ hội thuận lợi nhất cho Việt Nam thoát Trung, gìn giữ được độc lập
và toàn vẹn giang sơn của tổ tiên, đồng thời bảo vệ được dòng giống Việt trước
nguy cơ Hán hóa. Đại dịch covid-19 xuất phát từ Vũ Hán đã thức tỉnh toàn thể thế
giới về mưu đồ hiểm độc của Trung Cộng muốn giành ngôi bá chủ toàn cầu. Thế giới
sẽ hợp lực đánh tan “Giấc Mơ Trung Quốc” và biến nó thành “Cơn Ác Mộng của Tâp
Cận Bình”. Lãnh đạo Việt Nam sẽ phạm trọng tội nếu bỏ lỡ cơ hội lịch sử này. Những
người viết sử cầu mong sẽ được chứng kiến những hành động có phối hợp, hoặc
riêng biệt nhưng đồng quy, từ cả ba phía: chính quyền, trí thức và nhân dân
trong nước, và cộng đồng gốc Việt ở nước ngoài. Không ai muốn sẽ phải luận tội
hành động sai lầm của những người có trách nhiệm.
(*) Jamie Seidel, “China already engaging in irregular war with U.S. in
the ‘grey area’.” NEWS.com.au, May 3, 2021. Bản dịch tiếng Việt trên báo mạng
Tiếng Dân, 3/5/2021.
N.T.T.B. – L.X.K.
Người phỏng vấn gửi BVN
No comments:
Post a Comment