Phạm Bá Hoa tóm lược
https://vietnamthoibao.org/vntb-su-that-phan-1/
VNTB)
– Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ tự do có nền kinh tế phát triển hơn hẳn Miền
Bắc Cộng Sản và các quốc gia lân bang
Với lá Thư này, tôi tóm lược bài viết dài 15
trang với tựa “Những Sự Thật Cần Phải Biết” của tác giả Đặng
Chí Hùng (Danlambao), tự nhận là bản thân sinh ra và lớn lên giữa xã hội
toàn trị của Đảng Cộng Sản. Những năm sau năm 1975, đã nhận ra sự thật
hoàn toàn trái ngược với những gì mà nhóm lãnh đạo cộng sản Việt Nam giáo dục
trong học đường và tuyên truyền trong xã hội. Sự Thật mà tác
giả trình bày trong nội dung, là Sự Thật của Việt Nam Cộng Hòa (Nam
Việt Nam), Sự Thật của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Bắc Việt
Nam) + Sự Thật của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (toàn
cõi Việt Nam).
Tôi xin phép tác giả, vì bài quá dài nên tôi
phải tóm lược đến 3 lần để rút ngắn lại theo số trang của lá Thư, tôi có thêm
vài nhóm chữ và hình cho rõ nghĩa, nhưng vẫn giữ nội dung của bài viết. Xin cám
ơn.
*
Đôi lời của tác giả trước khi vào bài. Thưa các bạn, tôi là một người trẻ tuổi, chưa một lần biết đến ngôi trường
của Việt Nam Cộng Hòa, cũng chưa từng được sống dưới chế độ tự do đó. Tuy
nhiên, qua nhiều sách báo, tài liệu, và nhân chứng sống, cộng với những gì mắt
thấy tai nghe, và sự suy nghĩ của mình, tôi nhận thấy một điều: “Đó
là một chế độ khác hẳn với những lời tuyên truyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam”.
Và tác giả vào bài với một câu tự hỏi: “Nếu Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ thối
nát như Đảng đã tuyên truyền, thì tại sao hằng mấy triệu người Miền Nam chạy ra
hải ngoại vẫn nuối tiếc chế độ đó? Và hằng triệu người miền Bắc sau năm 1975
vào sống chung với những triệu người miền Nam, đều khâm phục người Miền Nam rất
chân thành và nhân nghĩa? Vậy, Việt Nam Cộng Hòa phải là chế độ phục vụ
người dân mới thu hút được lòng người”.
Đó cũng là lý do tôi viết bài này, để chứng
minh những sự thật về một nhà nước tự do dân chủ Việt Nam Cộng Hòa, đã bị chính
sách tuyên truyền dối trá của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) chúng ta mạt sát,
trong mục đích cuốn người dân xã hội chủ nghĩa vào cuộc chiến xâm lược Miền Nam
cho cộng sản Nga cộng sản Tàu. Và tôi xin nhắn gởi:
Đến những người yêu
mến Việt Nam Cộng Hòa, dù đã từng sống hay chỉ biết qua sách vở, lời khẳng định
của tôi là các bạn yêu mến không hề nhầm lẫn.
Đến những người bị
lừa dối hy sinh cho ĐCSVN -nhất là thế hệ cha ông của tôi- là lời chân tình để
giúp các bạn thật sự nhận ra bản chất của ĐCSVN, và ông hồ chí minh đã lừa dối
họ bao lâu nay.
Đến những người còn
vì miếng ăn mà tiếp tục dối trá với dân tộc, thì hãy tỉnh lại đi vì sự thật đã
phơi bày tất cả rồi. Đừng tự lừa dối mình và lừa dối nhân dân nữa, hãy để cho
lương tâm con người được sống với sự thật.
Việt Nam Cộng Hòa với chế độ tự do, Việt Nam Cộng Sản
chúng ta với chế độ độc tài.
Trong bài “Sự thật về đại thắng mùa xuân
1975”, tôi đã chứng minh thất bại của Việt Nam Cộng Hòa không hèn
kém như cộng sản chúng ta bịa đặt, mà họ bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi.
Nhưng cũng nên biết rằng, vào thời gian ấy, Hoa Kỳ vừa tự cứu mình về uy tín
chính trị, vừa tránh lún sâu vào chiến tranh Việt Nam. Và tôi khẳng định
là Hoa Kỳ không hề xâm lăng Việt Nam, mà ĐCSVN tuyên truyền để
lừa bịp lòng yêu nước của nhân dân ta.
Tại sao tôi khẳng định điều này:
Dù bất cứ ai cũng có thể thấy quân đội Hoa Kỳ đến Việt
Nam Cộng Hòa, họ không chiếm một tấc đất hay một hòn đảo của miền Nam, mà trái
lại họ giúp xây dựng miền Nam nói chung, và Sài Gòn nói riêng. Một Sài Gòn tự
do và phồn vinh mà trước năm 1975 Á Châu tôn vinh là Hòn Ngọc Viễn Đông, ngay cả
Singapore hay Hong Kong lúc ấy còn đứng sau Sài Gòn.
Năm 1961, khi Việt Nam Cộng Hòa ký Hiệp Ước quân sự
với Hoa Kỳ, thì Hoa Kỳ chỉ đưa vào miền Nam các Cố Vấn và một ít quân để bảo vệ
các cơ sở của họ. Nhiệm vụ chính là giúp Việt Nam Cộng Hòa phát triển xã hội.
Năm 1965, Hoa Kỳ đưa quân vào miền Nam vì sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964 giữa Hoa
Kỳ với miền Bắc chúng ta, để giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại cuộc chiến mà
chúng ta bắt đầu từ năm 1960, và ngày càng leo thang trên lãnh thổ của họ.
Vậy là, chính chúng ta xâm lược Việt
Nam Cộng Hòa chớ đâu phải Hoa Kỳ, vì Việt Nam Cộng Hòa là một quốc
gia, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chúng ta là một quốc gia, quân của quốc gia
chúng ta tấn công họ là xâm lược chớ gì nữa. Rồi cộng sản chúng ta vu khống Hoa
Kỳ là xâm lược để kích động chiến tranh theo lệnh cộng sản Nga, cộng sản Tàu.
Trong khi đó Trung Cộng đã chiếm quần đảo Hoàng Sa
và quần đảo Trường Sa hồi năm 1958 chỉ bằng một tuyên bố của Quốc Hội của họ,
ngay sau đó là Công Hàm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng
công nhận sự chiếm đóng đó của Trung Cộng. Sau năm 1975, lãnh đạo ĐCSVN lại
giao hằng trăm cây số biên giới ở Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc, đến Vịnh Bắc Bộ,
rồi Boxit Tây Nguyên cho Trung Cộng.
Vậy là, kẻ xâm lược Việt Nam chính là Trung
Cộng mà họ không tốn một viên đạn, cũng không mất một mạng người, họ
chỉ trao cho lãnh đạo Việt Nam ôm chặt “16 chữ vàng và 4 tốt “, và lúc nào nhóm
lãnh đạo chúng ta cũng “tri ân sâu nặng” họ.
Trong bộ môn lịch sử chương trình lớp 12 của
chúng ta, có bài học nặng về tuyên truyền: “Mặt Trận Giải Phóng Miền
Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “đấu tranh chống quân xâm lược Mỹ
và chánh quyền tay sai, nhằm giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước”.
Hãy nghe người Liên Xô nói về việc Hoa Kỳ đưa
quân vào Việt Nam, để thấy người anh cả của ĐCSVN biết rõ Hoa Kỳ không phải vào
Việt Nam “xâm lược” như chính sách tuyên truyền của ĐCSVN. Tài liệu của Liên Xô
đăng trong quyển sách “Một Bước Đi Lớn” -do nhóm tác giả đã từng hoạt
động trong tổ chức tình báo KGB- và nhà xuất bản quân đội Liên Bang Nga ấn
hành năm 1999, nói về hoạt động tình báo của Liên Xô, ở trang
128:
“Mỹ không xâm lược Việt Nam như
Pháp thực dân làm vào nửa cuối thế kỷ 19, mà Mỹ muốn Việt Nam trở thành một
trong những tiền đồn bảo vệ chủ nghĩa tư bản ở Á Châu, ngăn chận Bắc Triều Tiên
và Trung Hoa…”
Thật ra Trung Cộng muốn Hoa Kỳ đổ quân vào Việt
Nam để tạo cái cớ Hoa Kỳ xâm lược Việt Nam, từ đó họ ra lệnh cho ông hồ và
ĐCSVN thực hiện chiến tranh. Trong quyển sách “Mao: The Unknown
Story” của tác giả Jung Chang và Jon Halliday phát
hành năm 2005, trang 470 có đoạn: “Có một nơi
gần Trung Quốc, nơi đó có người Hoa Kỳ, và đó là Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm
1963, quốc gia này có khoảng 15.000 cố vấn quân sự Hoa Kỳ.
Thêm một đồng minh của Việt Nam Cộng Sản chúng
ta khẳng định Hoa Kỳ không hề xâm lược Việt Nam, như cách mà
chúng ta tuyên truyền lừa bịp dối trá. Trong cuốn sách có tựa “Đối Nghịch” của
tác giả J. Leroy xuất bản tại Pháp năm 2000, ông
là đảng viên Đảng Cộng Sản Pháp. Nội dung phân tách và dẫn chứng về chiến tranh
Việt Nam, cho thấy sự đối nghịch cao điểm về ý thức hệ. Trang 187 có đoạn:
“Một cuộc chiến tại Việt Nam là điều mà Hoa
Kỳ không mong muốn, họ đến với Việt Nam khác hẳn chúng ta hồi thế kỷ trước.
Nhưng họ phải đổ quân vào, vì họ không muốn Liên Xô bành trướng tư tưởng của
Mác – Lê Nin…”
Tác giả J. Leroy rất
trung thực khi đánh giá Hoa Kỳ không xâm lược Việt Nam, mà họ chỉ vào Việt Nam
trong tình thế bắt buộc chống lại sự bành trướng tư tưởng đỏ của Liên Xô.
Với 3 tác giả người Liên
Xô, người Trung Cộng, và người Pháp nêu
trên, đều nhận định Hoa Kỳ không phải là kẻ xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, thì
quân đội và viên chức hành chánh của Việt Nam Cộng Hòa đâu có phải là “ngụy
quân, ngụy quyền”, mà chúng ta gọi họ như vậy. Chỉ vì cộng sản chúng ta nhồi
nhét vào đầu người dân, để cuốn họ vào chiến tranh xâm lược Việt Nam Cộng Hòa.
Trong khi chế độ dân chủ non trẻ của miền Nam giáo dục những thế hệ với tư tưởng
và ý niệm tốt đẹp về xã hội Miền Nam.
Từ năm 1960 đến 1975, tổ chức của Miền Nam rất
chuẩn mực của một đất nước văn minh với Tổng Thống và Lưỡng Viện Quốc Hội đều
do dân chọn bầu đúng nghĩa. Tự do báo chí thật sự với hơn 50 tờ báo tư nhân các
loại tại Sài Gòn. Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập ngoại giao
với 87 quốc gia trên thế giới, và 6 quốc gia ở cấp bán chánh thức.
Miền Nam từ trước đến năm 1975, có hàng chục đảng
phái, tổ chức và hoạt động chính trị bình thường. Trong khi Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa, rồi đến Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta, trong suốt mấy chục
năm qua chỉ có một đảng duy nhất là Đảng Cộng Sản. Làm sao chúng ta dám nói là
chế độ tự do.
Một góc nhìn. Miền Nam tôn trọng tự do đến mức
những đồng chí của chúng ta sống với họ, và biểu tình chống họ ngay trên lãnh
thổ của họ, mà họ không bắt bớ gì cả. Điều này trái ngược hẳn với chúng ta, khi
nhân dân biểu tình chống Trung Cộng xâm lược thì Công An chúng ta đàn áp và bắt
giam lập tức.
Một góc nhìn khác. Nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn với những bản nhạc phản chiến vẫn được phép lưu truyền tại miền
Nam. Ngay cả bài hát “Màu Tím Hoa Sim” của tác giả Hữu Loan -một
nhà thơ nổi tiếng của Miền Bắc chúng ta- vẫn được ca hát tại miền Nam như bất cứ
bản nhạc nào của miền Nam.
Trong khi đó tại miền Bắc chúng ta đến 1975,
và sau năm 1975 trên cả nước, những bản nhạc với nội dung có chút lãng mạn là bị
đảng cộng sản chúng ta triệt để cấm đoán, vì lo ngại nó sẽ hủy hoại chính sách
tuyên truyền của chúng ta về hận thù Miền Nam.
Đến 42 nạn nhân là nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ,
và trí thức của miền Bắc chúng ta, bị chúng ta trừng phạt trong vụ án “Nhân
Văn” và “Giai Phẩm” năm 1955-1956. Hai tạp chí này đều do Phan
Khôi làm chủ nhiệm, và Trần Duy là thư ký tòa soạn.
Trong cuốn sách nghiên cứu khá sâu sắc về quốc
tế cộng sản “Chủ Thuyết Của Chúng Ta” của tác giả A. Schenalder -một
đảng viên Đảng Cộng Sản Cộng Hòa Dân Chủ Đức- ấn hành tại Đông Đức năm 1981,
trang 189 có đoạn: “Nếu theo tự do như Việt Nam Cộng Hòa, thì
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sẽ bị đánh mất chủ thuyết của mình…”
Nói như Bà Dương Thu Hương, một
nữ văn sĩ miền Bắc chúng ta theo đoàn quân xâm lược vào Sài Gòn hồi cuối tháng
4/1975, thì: “Chế độ tại Miền Nam mới là chế độ của nền văn minh. Và thật
chua chát khi nền văn minh đã thua một chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ và lầm lẫn
của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc Việt Nam phạm
phải…”
Và chính ông Võ Văn Kiệt -cựu
Thủ Tướng Việt Nam sau năm 1975- đã thốt lên rằng: “Ngày 30/4/1975 là
ngày mà Việt Nam Cộng Hòa chánh thức mất đi trên danh nghĩa, nhưng vẫn tồn tại
trong lòng mỗi người yêu dân chủ, tự do. “Đó là ngày của triệu người
buồn.”
Kinh tế Việt Nam Cộng Hòa hơn hẳn kinh tế Việt
Nam Cộng Sản chúng ta.
Việt Nam Cộng Hòa giai đoạn 1954-1963 được viện
trợ từ Hoa Kỳ, đã nhanh chóng khôi phục kinh tế, trong đó có chính sách “Cải
Cách Điền Địa”. Giai đoạn 1963-1975, Miền Nam lại thực hiện chính sách “Người
Cày Có Ruộng” mang lại nỗi vui mừng cho người dân nông thôn, vì họ được làm chủ
đất thật sự.
Trong khi Việt Nam Cộng Sản
chúng ta thực hiện chính sách “Cải Cách Ruộng Đất” với Luật ban hành ngày
19/12/1953, lại là thảm họa đối với 172.008 người dân tại 3.341 xã thuộc 15 tỉnh
phía bắc miền Trung, và toàn miền Bắc từ 1953 đến 1956. Theo luật, người dân tại
mỗi xã, bị xếp vào 5 thành phần: Địa Chủ. Phú Nông. Trung Nông. Bần Nông. Cố
Nông. Và thành phần địa chủ bị giết chết theo tỷ lệ 5% người dân tại mỗi
xã. Nếu thành phần Địa Chủ không đủ 5%, thì đôn thành phần Phú Nông
lên cho đủ 5% để giết.
Trên báo Sự Thật số 134 ra ngày 1/6/1950, đăng
bức thư ông Hồ gửi thiếu nhi toàn quốc, có đoạn: “Sống ở các nước tư bản,
cha mẹ là người lao động bị bóc lột, thì trẻ con cũng bị bóc lột, phải chịu cực
khổ”. Điều này cho thấy Đảng Cộng Sản bịa đặt rồi tuyên truyền, vì sự thật
là trong xã hội miền Nam, người dân chẳng những không bị bóc lột, mà trái lại mọi
người lớn bé đều được chánh phủ họ chăm sóc.
Tài liệu trên trang Wikipedia, cho thấy nền
kinh tế Việt Nam Cộng Hòa như sau: “Việt Nam Cộng Hòa đã thực hiện chiến lược
kỹ nghệ hóa để giảm bớt hàng nhập cảng. Cơ quan thuế vụ đã bảo vệ ngành kỹ nghệ
nhẹ. Nền kỹ nghệ Miền Nam bắt đầu với những nhà máy:
– Nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên Hòa, cung
ứng được 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy.
– Hai xưởng dệt Vinatexco và Vimytex với sản suất
13.200.000 thước vải mỗi năm.
– Nhà máy thủy tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm.
– Hai nhà máy xi măng -ở Hà Tiên và Thủ Đức- với
năng suất 540.000 tấn mỗi năm.
– Đập thủy điện Đa Nhim, hoàn thành năm 1961.
Thêm một thế mạnh đặc biệt của Việt Nam Cộng
Hòa là thành phần trí thức được đào tạo kỹ lưỡng, và họ làm việc tận tâm. Về mặt
này, miền Nam vượt xa các lân bang cùng thời như Thailand, Malaysia, Indonesia,
Singapore. Theo thống kê cho thấy, 3 trong số 4 Kỹ Sư trong toàn vùng khi đó,
là công dân Việt Nam Cộng Hòa. Họ quản trị và điều hành những nhà máy bên trên,
và:
– Khu Kỹ Nghệ Biên Hòa. Khu Kỹ Nghệ Phong
Dinh. Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt. Tổng Cục Dầu Hỏa Sài Gòn.
https://vietnamthoibao.org/wp-content/uploads/2023/04/Trung-Tam-Hat-Nhan-Da-Lat.jpg
Trung tâm nguyên tử năng Đà Lạt
Năm 1973, họ bắt đầu với kỹ nghệ dầu hỏa. Sau
cuộc đấu thầu khai thác dầu hỏa ngoài khơi thềm lục địa, miền Nam cấp giấy phép
cho sáu tổ hợp công ty dầu lửa khai thác 13 địa điểm trong một khu vực 82.000
cây số vuông, khoảng 16% của thềm lục địa. Tháng 10/1974, hãng Mobil khoan mỏ Bạch
Hổ tìm được dầu dưới độ sâu gần 3 cây số, và ứớc tính vào cuối 1975 sẽ có ít nhất
20 giàn khoan.
Sau năm 1975, các mỏ dầu này do Liên Doanh
Vietsopetro của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa chúng ta quản trị và khai thác.
Từ năm 1973, Việt Nam Cộng Hòa sử dụng 11 dàn
máy tính IBM 360/40 tại Bộ Quốc Phòng và Bộ Giáo Dục, máy IBM 360/50 tại Bộ Tổng
Tham Mưu. Lúc đó, trong vùng Đông Nam Á chỉ có Singapore mới có vỏn vẹn 1 máy
IBM 360/40.
Máy tính IBM tại Nam Việt Nam trước năm 1975
Hãy xem tác giả Hà Cẩn -Viện
Văn Học Trung Cộng- trong quyển sách “Mao Chủ Tịch Của Tôi” xuất bản
năm 1997 và tái bản năm 2000, trang 222 có đoạn: “Miền Nam Việt Nam có nền
kinh tế phát triển, đó là điều bất lợi cho chúng ta…”
Trong cuốn sách tạm dịch ra tiếng Việt là “Liên
Xô – Trung Quốc -Việt Nam, Vấn Đề Chưa Được Biết”, của tác giả người Nga,
xuất bản năm 1995. Tác giả Ruslan Kobachenko -đảng viên Đảng Cộng
Sản Liên Xô- cũng là nhà giáo kiêm nhà nghiên cứu lịch sử Châu Á, từng giảng dạy
tại đại học Minsk-Nga, trang 197 có đoạn như sau:
“So với Miền Nam, thì đồng chí Miền Bắc của
chúng ta thua kém nhiều về kinh tế. Chúng ta đã nhận ra điều này như là một yếu
điểm, cần phải được lãnh đạo Miền Bắc sửa chữa, mà đứng đầu là chủ tịch hồ chí
minh. Nhưng thật khó mà làm điều này, vì kinh tế Miền Bắc rất lạc hậu và rặp theo
mô hình của Trung Quốc”.
Theo sách “Lịch sử Kinh tế Việt Nam”
1945-2000, viết về giai đoạn 1955-1975, xuất bản tại Hà Nội năm
2004 thì:“Cho đến 1973, nông dân miền Bắc sản xuất gần 4 triệu tấn
gạo, chưa đủ dùng cho nhân dân, vẫn phải nhận viện trợ bột mì và bo-bo từ Trung
Quốc và Liên Xô. Miền Bắc chúng ta đến đầu 1972, điện thoại chỉ có trong cơ
quan nhà nước, toàn miền Bắc chỉ có 2 đài phát thanh với hệ thống “loa phường”
dày đặc, và chưa biết truyền hình là gì cả.”
Về thu nhập bình quân. Theo tài liệu kinh tế
thì GDP” bình quân đầu người ở miền Nam vào thời trước 1975 là 190 mỹ kim. Thu
nhập này tuy chưa cao mấy thời đó, nhưng cao hơn các nước Thái Lan, Bangladesh,
Ấn Độ, và Pakistan.
Nhìn lại chúng ta 36
năm sau năm 1975 (năm 2011), GDP bình quân đầu người của Việt Nam xã hội chủ nghĩa
là khoảng 1.100 mỹ kim, nhưng thua xa Thái Lan (khoảng 4000 mỹ kim). Từ sau khi
“thống nhất đất nước”, thì những gì mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa chúng ta đang
có, đều là lạc hậu.
-------------------------
Tin Bài Liên Quan:
1. BBC – Trường Sa đã đỏ lửa từ
mùa Hè 1974
2. VNTB
– Tổng thống Trần Văn Hương mẫu người quốc gia tiêu biểu (*)
3. VNTB – Bầu cử Quốc Hội
Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa
4. VNTB –
Thư số 132a gởi Người Lính Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
========
Sự Thật ( Phần 2): Nền giáo dục và y tế ưu việt dưới thời Việt
Nam Cộng Hòa
Phạm Bá Hoa
https://vietnamthoibao.org/vntb-nen-giao-duc-va-y-te-uu-viet-duoi-thoi-viet-nam-cong-hoa/
(VNTB)
– Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa áp dụng triết lý giáo dục “nhân bản – dân tộc –
khai phóng”
Giáo dục
Việt Nam Cộng Hòa dạy làm người, giáo dục Việt Nam Cộng Sản dạy theo đảng.
Giáo dục
Việt Nam Cộng Hòa áp dụng triết lý giáo dục “nhân bản – dân tộc – khai phóng”. Hiến
Pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục: “Những học sinh
sinh viên có khả năng theo đuổi học vấn mà không có phương tiện, sẽ được chánh
phủ nâng đỡ để tiếp tục hết chương trình. Học sinh học trường công, miễn
phí hoàn toàn”.
Theo tài
liệu ghi trong quyển sách “Giáo Dục Việt Nam” do nhà xuất bản Giáo Dục ấn
hành năm 2001, nói về giáo dục của miền Nam trước năm 1975, thì năm học
1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa với số học sinh và sinh viên chiếm 20% dân số:
–
3.101.560 học sinh tiểu học.
–
1.091.779 học sinh trung học.
– 101.454
sinh viên đại học (chưa tính số sinh viên tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh để
phục vụ trong ngành hành chánh).
Năm 1958,
thời Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng Hòa tổ chức
Đại Hội Giáo Dục Quốc Gia lần I tại Sài Gòn, với sự tham dự của nhiều phụ huynh
học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chánh quyền, các tổ
chức dân sự, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học,
từ phổ thông đến kỹ thuật. Với triết lý giáo dục “nhân bản” (humanistic), “dân
tộc” (nationalistic), và “khai phóng” được chánh thức hóa trong
Đại Hội qua bài giảng của ông Bộ Trưởng:
“Giáo
Dục Việt Nam là giáo dục Nhân Bản. Chủ trương “con người làm gốc”, cuộc sống
của con người làm căn bản, con người là một cứu cánh chớ không phải phương tiện
hay công cụ phục vụ cho bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. Triết
lý nhân bản, chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận
việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị
hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản,
mọi người có giá trị như nhau, và đều có quyền được hưởng những cơ hội như nhau
về giáo dục.
Giáo
Dục Việt Nam là giáo dục Dân Tộc. Giáo dục tôn trọng giá trị truyền thống
của dân tộc trong mọi sinh hoạt liên hệ tới gia đình, nghề nghiệp, và quốc gia.
Giáo dục phải bảo tồn và phát huy được những tinh hoa, những truyền thống tốt đẹp
của văn hóa dân tộc. Dân tộc tính trong văn hóa, cần phải được các thế hệ biết
đến, bảo tồn và phát huy, để không bị mất đi hay tan biến trong những nền văn
hóa khác.
Giáo
Dục Việt Nam là giáo dục Khai Phóng. Truyền thống dân tộc không nhất thiết
phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng,
tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận
tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào
việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội hòa nhập vào văn minh thế
giới.”
Trong khi
đó, trên lãnh thổ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chúng ta, học sinh bị nhồi nhét tư
tưởng Mỹ “xâm lược” mà thực chất không phải vậy. “Bác Hồ yêu nước, cả đời vì nước”,
mà thực tế ngược lại, với bằng chứng sống “yêu nước là phải yêu đảng cộng sản“.
Những bài
thơ của ông Tố Hữu với những câu như “Giết, giết nữa…” lại được hệ thống trường
học trên đất Bắc gieo vào đầu con trẻ ý tưởng giết người từ tuổi ấu thơ.
Tại Cộng
Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng ta ngày nay, người dân mới nhận thấy tuyên
truyền của đảng cộng sản chúng ta là những chuyện không thật, nhằm đưa đến một
ý thức lệch lạc để người dân làm theo ý đảng.
Giáo Sư Đại
Học Yale Hoa Kỳ -Arthur W. Galston- sang thăm Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
chúng ta từ ngày 7 đến ngày 28/6/1975, sau đó có bản tường trình của Giáo Sư
đăng trên tạp chí Science ngày 29/8/1975, với chủ đề mà các nhà lãnh đạo miền Bắc
bận tâm là vấn đề thống nhất hai miền Nam Bắc, như sau:
“Việc thống
nhất trong lãnh vực khoa học và giáo dục có lẽ sẽ có nhiều khó khăn, vì hai miền
đã phát triển theo hai chiều hướng ngược nhau. Nhưng cho dù khó khăn, các nhà
lãnh đạo miền Bắc đã công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với nhiều đặc điểm của nền
khoa học và giáo dục ở miền Nam. Vì vậy, họ đang thảo luận sôi nổi về ý tưởng
này khi thống nhất hai miền Nam Bắc”.
Theo ông
Galston, các nhà lãnh đạo miền Bắc, được nhắc đến trong bài là Nguyễn
Văn Hiệu -Viện Trưởng Viện Khoa Học Việt Nam- và Phạm Văn Đồng -Thủ Tướng
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- đặc biệt quan tâm đến hệ thống giáo dục, và nhấn mạnh
đến các ngành kỹ thuật và điện tử, cùng hệ thống các trường đại học cộng đồng hệ
hai năm đã được thiết lập ở miền Nam.
Cả đảng cộng
sản chúng ta cũng phải thừa nhận nền giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa chính là
cái gương cho chúng ta tự soi. Nhưng, với bản chất của đảng cộng sản, nói như vậy
nhưng không làm như vậy, vì chúng ta là chế độ độc tài.
Đây là lời
chứng của ông Mai Thái Lĩnh, cựu sinh viên Viện Đại Học Đà Lạt,
nguyên Phó Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Thành phố Đà Lạt dưới thời Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam chúng ta:
“Tôi là
con của một cán bộ Việt Minh, tham gia cách mạng tháng tám tại Lâm Đồng, sau đó
tập kết ra miền Bắc. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa lúc đó biết lý lịch của tôi,
nhưng vẫn không phân biệt đối xử, cho nên tôi vẫn học hành đến nơi đến chốn.
Tính chất tốt đẹp của nền giáo dục của miền Nam là điều tôi thừa nhận, vì vậy
suốt 14 năm phục vụ trong ngành giáo dục “xã hội chủ nghĩa” (1975-1989), tôi bị
người ta gắn cho đủ thứ nhãn hiệu, chụp cho nhiều thứ mũ, chỉ vì tôi nêu rõ những
ưu điểm của nền giáo dục cũ của Miền Nam cần phải học hỏi. Chính là do thừa
hưởng nền giáo dục đó của miền Nam mà tôi có được tính độc lập trong tư duy,
không bao giờ chịu nô lệ về tư tưởng...”
Đến nhà
phê bình văn học Thụy Khuê: (miền Bắc) “Trong thời gian chia đôi đất
nước, mặc dù với những tệ nạn của xã hội chiến tranh, miền Nam vẫn có một hệ thống
giáo dục đứng đắn. Trong chương trình giáo khoa, các giai đoạn lịch sử và văn học
đều được giảng dạy đầy đủ, không thiên hướng. Ở bậc trung học, học sinh gặt hái
những kiến thức đại cương về sử, về văn, và tới trình độ tú tài, thu thập những
khái niệm đầu tiên về triết học. Lên đại học, sinh viên văn khoa có dịp học hỏi
và đào sâu thêm về những trào lưu tư tưởng Đông Tây, đồng thời đọc và hiểu được
văn học ngoại quốc qua một nền dịch thuật đáng tin cậy.”
Nhạc sĩ Tô
Hải: “Trong lịch sử Việt Nam, chưa bao giờ trên đất nước này lại có một
xã hội giáo dục cho công dân đừng sống trung thực, mà phải biết nói dối.
Nói dối tỉnh bơ, nói dối không biết ngượng, nói dối càng giỏi càng đạt
nhiều thành tích. Cuộc Nói Dối Vĩ Đại nhất là cuộc chiến tranh giải phóng Miền
Nam khỏi tay đế quốc Mỹ Xâm Lược!
Nhà Giáo Thái
Hạo: “Nhà giáo chúng tôi không được đứng thẳng để làm người, làm sao dạy học
sinh làm người lương thiện được.. Bởi, giáo viên phải ngoan ngoãn im lặng làm
theo đảng, có ai đó trung thực thẳng thắn thì bị hành hạ, bị đuổi ra khỏi trường. Muốn
yên thân thì phải hèn…”
Ông Nguyễn
Khắc Mai, một thời là Vụ Trưởng Vụ Nghiên Cứu/ Ban Dân Vận trung
ương: “Hiện nay, tuy người ta không dám nói “chuyên chính vô sản” công
khai, nhưng trong lòng họ vẫn cho rằng cái chính quyền này, thể chế chính trị
này là “chuyên chính vô sản”. Chuyên chính vô sản nghĩa là gì? Nghĩa là một
triết lý như Lê Nin khẳng định: Nó bất chấp luật pháp. Nó không cần luật
pháp. Nó vượt qua luật pháp. Đấy là triết lý chuyên chính vô sản của Lê Nin”…..
Nhà văn Nguyên
Ngọc: “Căn bệnh giả dối là nặng nhất, chí tử nhất, và toàn diện
nhất”, đang hoành hành xã hội Việt Nam, khiến “người ta thật sự không còn tin
vào bất cứ điều gì nữa. Lãnh đạo đảng với lãnh đạo nhà nước, lại càng giả
dối hơn hết”.
Y Tế Việt
Nam Cộng Hòa hơn hẳn Y Tế Việt Nam Cộng Sản chúng ta.
Thêm một sự
thật mà chúng ta phải chấp nhận, là ngành Y Tế của Việt Nam Cộng Hòa cho đến
năm 1975 vẫn hơn hẳn ngành Yé Tế của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chúng
ta, dù sau mấy chục năm thống nhất đất nước. Trong khu vực Đông Nam Á, miền Nam
là quốc gia nhiều bệnh viện với trang bị máy móc dụng cụ tối tân. Và đặc biệt
là không có cảnh tượng hai bệnh nhân nằm một giường.
Xin các bạn
vào trang Wikipedia tìm đọc trang “Y Tế Việt Nam Cộng Hòa” sẽ thấy:
“Dịch vụ y
tế bắt đầu ở cấp xã. Mỗi Xã có Ủy Viên Y Tế và một nữ hộ sinh,
thường gọi là “cô đỡ” trông coi và giúp đỡ sản phụ ở thôn quê. Ủy viên y tế làm
việc dưới sự giám sát của Hội đồng Xã. Mỗi Quận có Chi Y Tế dưới
sự điều hành của cán sự y tế. Mỗi Tỉnh có một bệnh viện thuộc Ty Y Tế. Trưởng
Ty Y Tế là một Bác Sĩ, trách nhiệm chương trình y tế trong tỉnh. Giám Đốc
Bệnh Viện cũng là một Bác Sĩ Y Khoa. Bệnh nhân nhập viện vào các bệnh
viện công cộng miễn phí hoàn toàn. Tại Sài Gòn, có những bệnh viện công cộng
lớn, là: Bệnh Viện Chợ Rẫy, Bệnh Viện Vì Dân, Bệnh Viện Nhi Đồng, Bệnh Viện Từ
Dũ, ..v..v…
Tổng số bệnh
viện dân sự của Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1965 là 101 cơ sở với 25.000 giường.
Riêng thủ đô Sài Gòn có 11 bệnh viện công cộng cung cấp gần 5.000 giường. Một số
chuyên khoa có bệnh viện riêng, như: Bệnh viện Nhi đồng Sài Gòn 220 giường.
Khoa tâm thần có ba cơ sở chính: Bệnh viện Chợ Quán ở Sài Gòn, Bệnh viện Huế,
và Bệnh viện Nguyễn Văn Hoài ở Biên Hòa.
Y Tế tư
nhân có các phòng mạch, dưỡng đường, và bệnh viện. Vào giữa thập niên
1960, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 800 Bác Sĩ Y Khoa. Bệnh viện tư lớn phải kể đến Bệnh
Viện Grall và Bệnh Viện Saint Paul ở Sài Gòn, Bệnh Viện
Sùng Chính (200 giường) ở Chợ Lớn.”
Còn “thiên
đường” bánh vẽ của chúng ta gần 40 năm sau năm 1975 thì sao? Hãy đọc một bài viết
từ trang Baomoi.com trích bài trên báo Tuoitre Online:
“Chuyện 3
bệnh nhân 4 bệnh nhân nằm chung một giường đã có từ lâu lắm rồi, nhưng mãi đến
gần đây Bộ Trưởng Bộ Y Tế mới biết, khi nhìn thấy nỗi khổ của người bệnh. Người
dân luôn đặt ra câu hỏi rằng, tại sao các dự án nhà ở, khách sạn, sân golf… xây
cất rất nhanh, trong khi xoay xở mãi mới có ngân khoản cho công trình bệnh viện,
vì vậy mà công trình bệnh viện kéo dài thời gian mới xong. Nhìn lại các bệnh viện
lâu đời như: Bệnh Viện Nhi Đồng, Bệnh Viện Ung Bướu, Bệnh Viện Từ Dũ, .v.v.,
người ta khiếp sợ khi thấy cảnh bệnh nhân nằm chen chúc ngỗn ngang”.
Với các dẫn
chứng ở trên, tác giả kết luận rằng:
Thứ nhất.
Hoa Kỳ không xâm lược Việt Nam Cộng Hòa, mà họ giúp Việt Nam Cộng Hòa vừa chống
lại Việt Nam Cộng Sản chúng ta theo lệnh Cộng Sản Quốc Tế xâm chiếm họ, vừa
giúp quốc gia tự do non trẻ này phát triển toàn diện. Vì vậy, không thể gọi họ
là “ngụy quân ngụy quyền. Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta mới thật là ngụy
quân ngụy quyền vì là tay sai cho Cộng Sản Quốc Tế.
Thứ hai.
Phải công nhận triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa đào tạo những thế hệ
công dân đúng nghĩa, vì vậy mà Miền Nam đã có một xã hội mà mọi người sống với
nhau rất chân thành và nhân ái, cùng nhau xây dựng và phát triển quốc gia.
Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta với nền giáo dục dối trá, hình thành một
xã hội mà mọi người sống với nhau bằng dối trá, phải nghe lời đảng tuyên truyền,
và làm theo lệnh của Đảng.
Thứ ba. Dù
rằng tên Việt Nam Cộng Hòa trên bản đồ thế giới không còn nữa, nhưng con người
do giáo dục của họ đào tạo vẫn còn đó, đang ở hải ngoại và vẫn ở Việt Nam theo
cung cách sống đó. Trong khi Việt Nam Cộng Sản chúng ta vẫn phải trung thành với
đảng là điều căn bản tuyệt đối. Đó cũng là lời của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn
Linh phát biểu vào năm 1990, rằng: “Tôi cũng biết rằng, dựa vào
Trung Quốc sẽ mất nước, nhưng thà mất nước còn hơn mất đảng”.
Câu cuối
cùng của tác giả Đặng Chí Hùng: “Như một lời tri ân những công dân
yêu nước Việt Nam Cộng Hòa, từ đáy lòng của một công dân trẻ sống trong chế độ
độc tài cộng sản”.
Kết
luận.
Qua phần kết
luận của tác giả Đặng Chí Hùng, tôi thấy đã đủ nên tôi không có ý kiến gì thêm,
mà tôi muốn nói với Các Anh rằng, xã hội Việt Nam ngày nay có nhiều nhà cao cửa
rộng, nhưng xây cất hỗn loạn làm mất cảnh quang của đô thị, đường sá nhiều hơn
nhưng mau sụt lún sạt lở và cầu sập, xe cộ cũng nhiều hơn nhưng chạy hỗn loạn
trên đường phố, và con người có ăn có mặc đẹp đẽ hơn thời bần cùng với tem phiếu,
nhưng không gìn giữ nét văn hoá văn minh lịch sự.
Nói chung,
sự phát triển thời Việt Cộng là phát triển theo quyền lực riêng của đảng viên,
của lãnh đạo các cấp muốn làm gì thì làm, trong khi lòng nhân ái bên
trong mỗi con người chẳng những không phát triển mà ngày càng nhỏ lại, nhỏ
đến mức hầu như không còn chỗ chứa “sự thật, tình người,… thậm chí đến lời xin
lỗi hay tiếng nói cám ơn của người lịch sự khi tiếp xúc với nhau cũng cạn kiệt”.
Vậy, Các
Anh hãy đứng lên, cùng đứng lên, dân tộc sẽ đứng lên cạnh Các Anh, cùng giành lại
Quyền Làm Người của mình. Các Anh không đứng lên, sẽ không bao giờ có quốc
gia nào đến Việt Nam giành lại Quyền Làm Người giùm Các Anh đâu.
Và Các Anh
phải hiểu rằng, “Dân Chủ Tự Do không phải là quà tặng, mà chính dân tộc Việt
Nam phải tranh đấu, và Các Anh là thành phần nòng cốt trong cuộc tranh đấu
này”, trong khi Cộng Đồng chúng tôi tị nạn Việt Cộng tại hải ngoại có nhiều điều
kiện thuận lợi, với nhiều cách vận động những quốc gia phát triển giúp Các Anh
và đồng bào làm nên lịch sử.
---------------------
Tin Bài
Liên Quan:
VNTB – Làm cho giáo dân
mình ngu muội để “trị”?
VNTB – Công
Hàm 257/HC-2016 của Việt Nam gởi Liên Hiệp Quốc
VNTB – Sinh viên
khốn đốn với chuẩn đầu ra ngoại ngữ
No comments:
Post a Comment