Nhận
xét tổng quan về tiến trình dân chủ hóa đất nước từ hải ngoại
Đào Tăng Dực
17/04/2023
Là một người Việt quan tâm đến vận mệnh đất nước,
cũng như đã tham gia tiến trình dân chủ hóa từ hải ngoại ngay sau ngày 30 tháng
4 năm 1975, tôi hoàn toàn chia sẻ những băn khoăn của nhiều người Việt quốc gia
trên khắp thế giới, nhất là trong cộng đồng người Việt hải ngoại. Trước hết
chúng ta phải nhận diện và phân tích khách quan các trở lực, hầu nhận thức đúng
đắn công cuộc đấu tranh hơn. Dĩ nhiên đây là nhận thức của một cá nhân có khả
năng giới hạn, không phải lúc nào cũng đúng. Mong các bạn lượng thứ nếu có sai
sót.
I. Hiện tượng đình động và suy thoái:
Trước hết nhiều người Việt quốc gia thất vọng
và chán nản vì hiện tượng đình động và suy thoái phổ biến trong cộng đồng và
các tổ chức cũng như đảng phái không cộng sản tại hải ngoại:
1. Không phát triển nhân sự
2. Nhân sự lão hóa vì rất ít giới trẻ tham gia
3. Không duy trì được hạ tầng cơ sở của Tổ Chức
vì suy thoái trong các đơn vị địa phương
4. Đồng bào đóng góp tài chánh cho các tổ chức
đấu tranh giảm thiểu, trong khi đóng góp cho những công tác xã hội hay từ thiện
gia tăng
5. Niềm tin vào hiệu năng đấu tranh của các tổ
chức giảm thiểu trong khi vẫn nhận thức được thực tế suy thoái của CSVN
II. Nguyên nhân của đình động và suy
thoái:
Chúng ta phải nhìn trực diện vấn đề và công nhận
những giới hạn của người tỵ nạn sau năm 1975. Như tất cả những dân tộc vừa
thoát khỏi họa thực dân khác, trình độ nhận thức chính trị của người Việt quốc
gia còn tương đối giới hạn. Một vài khuyết điểm mà chính cá nhân tôi cũng phần
nào vi phạm có thể tạm ghi như sau:
1. Thiếu lý tưởng: Phần lớn người tỵ nạn từ miền Nam Việt Nam thật sự
không có lý tưởng tự do dân chủ. Họ chỉ là những người dân Việt bình thường muốn
an cư lạc nghiệp và có một đời sống ấm no. Ý thức về tự do dân chủ tại miền Nam
Việt Nam dưới thời đệ nhất và đệ nhị Cộng hòa còn tương đối phôi thai.
2. Thiếu dấn thân: Một thiểu số quân cán chính và giới trí thức có ý thức
tự do dân chủ cao hơn nhưng sự dấn thân rất giới hạn. Họ có thể trở nên rất
thành công tại hải ngoại nhưng sự đóng góp cho tiến trình dân chủ hóa rất giới
hạn.
3. Thiếu khả năng khống chế bản ngã cá nhân: Khuyết điểm này đưa đến sự
chia rẽ và tranh chấp trầm trọng trong cộng đồng và các tổ chức chính trị hải
ngoại.
4. Không có thế hệ kế thừa: Một thiểu số rất nhỏ dấn thân tranh đấu, tham
gia các tổ chức đảng phái không CS nhưng sự tham gia chỉ giới hạn ở thế hệ của
chính họ, không lan tỏa đến thế hệ con cái của họ. Từ đó hiện tượng lão hóa
trong hàng ngũ các tổ chức đấu tranh.
5. Nhu cầu một cấu trúc tư tưởng chính trị phi ý thức hệ: Sự vắng bóng một
cấu trúc tư tưởng đấu tranh nghiêm chỉnh, quy tụ được tổng lực đấu tranh và tạo
ra niềm tin trong cộng đồng và các tổ chức.
6. Tính gian dối và lừa gạt trong hàng ngũ một số tổ chức quốc gia hủy
hoại niềm tin: Tác động tích cực hủy hoại niềm tin của một số tổ chức đấu tranh
mang tính gian dối và lừa gạt đưa đến sự băng hoại niềm tin trong quần chúng hải
ngoại.
Tác động hủy hoại niềm tin này là một yếu tố lớn
lao làm suy giảm khả năng tranh đấu của toàn thể người Việt trong và ngoài nước.
Sách lược rất khôn ngoan của CSVN minh thị chủ
trương tố cáo và lên án những tổ chức chống cộng bất xứng, làm lợi nhất cho CS,
vì họ biết rằng khi họ tố cáo các tổ chức này thì một cách gián tiếp CSVN đã
nâng cao uy tín của tổ chức đó trong một cộng đồng chia rẽ và mất niềm tin. Khi
những tổ chức bất xứng đó củng cố chỗ đứng trong cộng đồng thì vị trí độc tôn của
CSVN tại quê nhà càng vững chãi hơn.
Những tổ chức và thực thể CSVN không hề nhắc đến
như Đài Phát Thanh Đáp Lời Sông Núi và những chính đảng có quá trình đấu tranh
chống Thực Dân Pháp và chống cộng như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt, Tân Đại
Việt …thì CSVN không bao giờ nhắc đến hoặc lên án, vì CSVN sợ hãi những thực thể
và tổ chức ấy nhiều nhất.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2023/04/1-20.jpeg
Ảnh: Giáo sư Trần Trọng Đạt đọc diễn văn khai mạc Đại hội Đại Việt Quốc
dân Đảng (hệ phái Phạm Đăng Cảnh) lần 7, tại Little Saigon năm 2012. Nguồn: RFA
7. Tình yêu tổ quốc chưa đầy đủ:
Cuộc đấu tranh dân chủ hóa đất nước quá dài
nhưng lòng yêu nước Việt Nam của chúng ta chưa đầy đủ.
Khi một thành viên tham gia một tổ chức đấu
tranh dân chủ hóa Việt Nam thì điều kiện tiên quyết phải là yêu tổ quốc Việt
Nam trên hết. Nếu cuộc đấu tranh chỉ dài bằng công cuộc đánh đuổi quân nhà Minh
dành độc lập của Lê Lợi, thì không thành vấn đề. Tuy nhiên cuộc đấu tranh của
chúng ta dài gấp 5 (đối với người miền Nam) hoặc gấp 7 (đối với người miền Bắc)
thì phát sinh nhiều vấn nạn.
Lệ Lợi đã kiên trì 10 năm mới thành công,
nhưng công cuộc đấu tranh của chúng ta đòi hỏi nhiều hơn vậy. Một số người phải
buông bỏ và tìm con đường tiến thân trong xã hội hoặc chính trị sở tại, hoặc có
người rút lui, ẩn thân nơi niềm tin tôn giáo thụ động, thay vì tiếp tục công cuộc
đấu tranh.
8. Chính sách đổi mới “vừa đánh vừa xoa” của CSVN:
Đảng CSVN khôn ngoan đổi mới, cải tổ kinh tế
theo kinh tế thị trường, nới rộng quyền tự do đi lại và đem lại sự dễ thở cũng
như phát triển kinh tế vừa phải xoa dịu lòng dân. Họ cũng khuyến khích Việt Kiều
hải ngoại về thăm nhà, du hí và góp vốn phát triển đất nước. Mặt khác họ thẳng
tay đàn áp mọi tiếng nói đối lập và ngăn chặn, không chấp nhận bất cứ lực lượng
chính trị không cộng sản nào hoạt động trong nước. Thâm độc hơn nữa, họ sẵn
sàng chấp nhận một vài trí thức lẻ tẻ phản biện làm màu, nhưng lại đàn áp tàn
nhẫn những cá nhân tham gia những tổ chức chống cộng. Sách lược này của họ rất
thành công, giảm thiểu tiềm năng các tổ chức đấu tranh có cơ sở tại hải ngoại lẫn
trong nước.
9. Chính sách cấm nhập cảnh Việt Nam của CSVN hoặc đàn áp thân nhân tại
quốc nội:
Nhiều thành phần người Việt tại hải ngoại
không tham gia đấu tranh vì bị CSVN cấm nhập cảnh và đàn áp hoặc sách nhiễu
thân nhân tại Việt Nam. Chính sách này đặt biệt ảnh hưởng đến những thanh niên
tuổi trẻ thích du lịch Việt Nam hoặc những thành viên có gia đình trong nước.
10. Quan trọng nhất là sự vắng bóng của một lực lượng chính trị đối trọng
với đảng CSVN
Đã nhiều thập niên qua, quần chúng trong lẫn
ngoài nước mong mỏi sự xuất hiện của một lực lượng chính trị đại diện cho người
Việt quốc gia trong nước lẫn hải ngoại, được quốc tế công nhận, hầu đối trọng với
CSVN. Tuy nhiên đến ngày hôm nay, vẫn chưa thấy xuất hiện và điều này củng cố sự
tuyệt vọng và mất niềm tin của một số người.
III. Bối cảnh đấu tranh chính trị
khách quan:
Trên đây là những yếu tố làm cho chúng ta nản
lòng. Tuy nhiên, thật sự chúng ta không nên mất niềm tin khi phân tích vận mệnh
của đất nước trong bối cảnh chính trị khách quan của thế kỷ 20 và 21.
A. Hội Đồng
các quốc gia bị cộng sản chiếm đóng (Captive Nations Council):
Đây là một thực thể chống cộng rất quan trọng
trước khi Liên bang Xô viết bị sụp đổ mà phần lớn chúng ta đều quên.
1. Vấn nạn nêu trên của chúng ta không phải là điều mới mẻ hoặc duy nhất
xảy ra cho chúng ta. Thật sự từ sau đệ nhị thế chiến (1945) có rất nhiều quốc
gia Đông Âu có những cộng đồng tỵ nạn CS và những tổ chức đấu tranh chống cộng
tương tự như chúng ta trong khuôn khổ của Captive Nations Council (Hội Đồng Các
Quốc Gia bị Cộng Sản Chiếm Đóng) bao gồm Ukraine, Lithuania, Estonia, Latvia,
Poland, Yugoslavia etc…
2. Họ cũng có những khó khăn tương tự chúng ta như sự lão hóa hàng ngũ đấu
tranh, tuổi trẻ không kế thừa hoài bão của họ, không thể phát triển nhân sự…
Tình trạng của họ còn tuyệt vọng hơn chúng ta vì họ và con cháu cùng chủng tộc
với các quốc gia Tây phương dân chủ nên họ bị đồng hóa nhanh chóng và dễ dàng
hơn chúng ta.
3. Họ cũng chờ đợi đằng đẵng từ năm 1917 (cho những nước trong Liên bang
Xô viết như Ukraine, Latvia, Lituania, Estonia) hoặc 1945 (như Balan, Đông Đức,
Rumania, Tiệp Khắc, Nam Tư) cho đến đầu năm 1990, khi họ trong cơn tuyệt vọng
thì bất ngờ LBXV sụp đổ sau 70 năm hoặc 45 năm chờ đợi.
4. Từ năm 1975 đến các năm 1980 khi làng sóng tỵ nạn VN cao trào, chính
chúng ta đã gia nhập vào hàng ngũ Captive Nations Council và nhiều lãnh đạo của
họ cho rằng chúng ta đã hồi sinh cho họ (vì lúc đó chúng ta còn vô cùng hăng
say, chưa bị một số tổ chức bất xứng lừa gạt và chưa bị thời gian xói mòn).
5. Tuy nhiên, tiến trình dân chủ hóa lúc đó tại LBXV và Đông Âu vẫn diễn
tiến, bất chấp niềm tuyệt vọng của các thành viên cộng đồng Captive Nations và
đến thập niên 90 thì CS tại LX và Đông Âu hoàn toàn sụp đổ. Rất nhiều thành
viên của họ hồi hương xây dựng đất nước và hầu như Captive Nations Council
không còn lý do hiện hữu nữa.
B. Sự thoái
hóa của CSVN và những yếu tố hủy diệt tập thể này:
1. Nếu thời gian làm chúng ta mệt mỏi tại hải ngoại, nhưng cũng chính thời
gian đó xói mòn nền tảng quyền lực của đảng CSVN gấp mười lần..
2. Nền tảng quyền lực của CSVN được xây dựng trên các cột trụ sau đây:
a. Niềm tin vào xã hội chủ nghĩa
b. Công an
c. Quân đội
d. Bưng bít thông tin
e. Sự chống lưng quân sự của CSTQ
3. Những yếu tố xoi mòn cột trụ của nền tảng quyền lực CSVN:
a. Hiện tượng tự diễn biến tự chuyển hóa trong
hàng ngũ cán bộ. Đây là một tử huyệt của đảng CSVN và hiện tượng này bất khả
vãn hồi.
b. Lý tưởng xã hội chủ nghĩa chỉ là một trò cười
ngay cả trong hàng ngũ đảng viên
c. Công an và quân đội bị thoái hóa
d. Xung đột quyền lợi giữa quân đội và công an
e. Mạng lưới thông tin toàn cầu và cuộc cách mạng
tin học đã vô hiệu hóa sách lược bưng bít thông tin của đảng CSVN
f. CSVN càng dựa vào CSTQ để chống lưng cho
mình bằng quân sự thì họ càng đi ngược lòng dân vì nhân dân Việt căm thù CSTQ
trong DNA của mình.
g. Sự ra đời của giới trí thức trẻ và cấp tiến
trong quốc nội với cái nhìn khai phóng và luôn hướng về Tây Phương. Có thể nói
rằng, yếu tố này hoàn toàn bất ngờ đối với giới đấu tranh hải ngoại và chưa được
chúng ta khai thác tích cực. Chúng ta đã đặt quá nhiều kỳ vọng vào hậu duệ của
chúng ta tại hải ngoại. Tuy nhiên giới trẻ tại hải ngoại phải đối diện với những
nhu cầu vật chất lớn lao của những xã hội công nghiệp và chỉ có một thiểu số hướng
về quốc nội. Thật ra giới đấu tranh trẻ tuổi trong nước mới là tương lai của đất
nước Việt Nam. Nếu chúng ta tiếp cận nhiều trên mạng xã hội, chúng ta sẽ nhận
ra sự thật này.
4. Yếu tố thời gian không những bất lợi cho những người Việt tự do, dấn
thân tranh đấu cho tiến trình dân chủ hóa đất nước, mà thời gian còn tác hại
nhiều hơn cho sự sống còn của đảng CSVN như một định chế lỗi thời.
IV. Chúng ta phải làm gì?
A. Trên bình diện tư duy (conceptual levels):
1. Nhu cầu củng cố niềm tin vào lẽ tất thắng của tiến trình dân chủ hóa:
Khi chúng ta thường xuyên tiếp xúc với những thông tin toàn cầu qua mạng lưới
toàn cầu, chúng ta sẽ ý thức rằng các chế độc độc tài, từ Phát Xít, quân phiệt,
đến Quân Chủ Chuyên Chế, đến cộng sản, đôi khi có thể bộc phát ngắn hạn như tại
Tháí Lan, Iran, LB Nga, nhưng thật sự đang thoái trào. Bước đi của quan điểm
dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên thật sự bất khả vãng hồi. Thử xét lại
số quốc gia còn độc tài tại Nam Mỹ, Á Châu Thái Bình Dương, Đông Nam Á và Đông
Á, trừ CSTQ và CS Bắc Hàn chúng ta sẽ thấy giảm thiểu rõ rệt. Độc tài CSVN cũng
phải theoquy luật này, dù cống gắng vùng vẫy vô vọng.
2. Nhu cầu một cấu trúc tư tưởng chính trị phi ý thức hệ: Muốn thực sự củng
cố lại niềm tin chúng ta phải biết sau khi lật đổ chế độ cộng sản, chúng ta phải
thiết lập một trật tự chính trị như thế nào để thay thế. May mắn thay, cộng đồng
người Việt hải ngoại, sau nhiều thập niên sinh sống trong những nền dân chủ
chân chính, không những am hiểu mà còn thở và sống thật trong cấu trúc chính trị
dân chủ này, từ mô hình dân chủ tổng thống chế tại Hoa Kỳ, đến mô hình dân chủ
quốc hội chế tại Úc hay Canda, hoặc mô hình hỗn hợp như tại Pháp và Nam Hàn, mà
không cần nương tựa vào bất cứ một ý thức hệ hoang tưởng nào cả.
Trên bình diện này, sau nhiều thập niên đã có
nhiều tư tưởng gia người Việt hải ngoại viết rất nhiều về tiến trình dân chủ
hóa Việt Nam. Cá nhân tôi cũng đã viết các cuốn sách như sau hầu dề xuất một trật
tự chính trị phi ý thức hệ cho Việt Nam trong tương lai.
– On the struggle for democracy in Vietnam
(Buttefly books XB, 1994)
– Việt Nam Dân Chủ Tranh Đấu Luận (1997, Việt
Luận XB, Tác giả tái bản 2015)
– Dự thảo hiến pháp Việt Nam trên quan điểm
dân chủ hiến định, pháp trị và đa nguyên (song ngữ, 2017, Lực Lượng Cứu Quốc
XB)
– Phê Bình song ngữ toàn diện hiến pháp 2013 của
Việt Nam (song ngữ, 2014, Lực Lượng Cứu Quốc XB)
– Cẩm nang song ngữ thành lập hội đoàn trong bối
cảnh xã hội dân sự tại Việt Nam (song ngữ, 2016, Lực Lượng Cứu Quốc XB)
3. Ý thứ đúng đắn về sự vận hành của lịch sử:
Chúng ta phải học hỏi bài học của các Captive
Nations, sự sụp đổ của LBXV và các nước CS Đông Âu. Lịch sử cũng sẽ vận hành
tương tự tại Việt Nam. Tiến trình dân chủ hóa tuy tiệm tiến nhưng bất khả vãn hồi.
Tuy nhìn bề mặt, các lực lượng quốc gia yếu kém nhưng kỳ thực chúng ta đang đứng
bên lề phải của lịch sử. CSVN tuy có vẻ mạnh và bất bại, nhưng họ đang đứng bên
lề trái của lịch sử, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào như LBXV vậy.
4. Ý thức sâu sắc rằng cuộc chiến quốc cộng là một cuộc đọ sức về sự
kiên trì:
Người cộng sản đang đứng bên lề trái của lịch
sử, trên bờ hủy diệt và họ ý thức điều đó. Sách lược của họ từ lâu đã không còn
là xây dựng xã hội chủ nghĩa, mà chính là duy trì quyền lực hầu tẩu tán của cải
trong nước hoặc ra hải ngoại cho các thế hệ con cháu và càng lâu dài càng tốt.
Sách lược của chúng ta phải là duy trì cuộc chiến và càng rút ngắn tiến trình
dân chủ hóa càng tốt. Chúng ta không thể chết trước họ. Nếu chúng ta tư duy
đúng và hành động đúng, chúng ta chắc chắn sẽ ném họ vào thùng phân thối tha của
lịch sử sớm hơn họ mong đợi.
B. Trên bình diện hoạt động (operational levels):
1. Sự phi thường của những con người bình thường làm việc đúng phương
pháp:
Tóm lại, nếu ý thức được bước đi của lịch sử
như trên và đủ sự kiên trì thì những con người bình thường, làm việc đúng
phương pháp, trong cộng đồng hay một tổ chức ý thức được quy luật đấu tranh, sẽ
đạt được những thành quả phi thường và đạp đổ đảng CSVN. Chúng ta chỉ cần bình
tỉnh, kiên trì, làm việc bình thường trong phạm vi khả năng bình thường của những
thành viên bình thường là đủ.
2. Công tác Liên Minh:
Như nêu trên, một trong những khuyết điểm lớn
của chúng ta là sự vắng bóng của một lực lượng chính trị đủ mạnh và đủ uy tín để
đối trọng với CSVN hầu cộng đồng quốc tế có thể yểm trơ cho tiến trình dân chủ
hóa.
Chính vì thế, các tổ chức người Việt quốc gia
cần dẹp bỏ bất đồng, hoàn tất một Liên Minh chính trị trong lẫn ngoài nước.
Công tác Liên Minh không những giải quyết phần lớn những bế tắc của chúng ta về
nhân sự, đồng thời cũng là một công tác chiến lược.
Cuộc chiến Nga- Ukraine đã thức tỉnh các chính
phủ Tây phương trước hiểm họa độc tài, trong cuộc tương tranh giữa mô hình dân
chủ và mô hình nhà nước toàn trị. Các chính phủ Tây phương nhận thấy sách lược
chính trị thụ động trước các chế độ độc tài hàm chứa nhiều nguy hiểm. Chính vì
thế tích cực yểm trợ cho các lực lượng dân chủ, hầu lật đổ các chế độ độc tài sẽ
là khuynh hướng tương lai của thế giới tự do. Hầu như cuộc chiến Ukraine và
Liên bang Nga sẽ đem lại một môi trường thuận tiện hơn cho các lực lượng dân chủ
hóa trên toàn thế giới, chống độc tài, trong đó có chúng ta.
No comments:
Post a Comment