Lịch
sử sẽ viết gì về ngày 30 tháng 4
26/04/2023
https://www.voatiengviet.com/a/lich-su-se-viet-gi-ve-ngay-30-thang-4/7065610.html
Người học lịch sử sau này sẽ tự hỏi tại sao chế độ
đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau ở các nước Đông Âu và Nga, để dân Việt Nam
được sống tự do sớm hơn, có cơ hội phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn?
https://gdb.voanews.com/CB70B6F1-9469-45EE-8CC9-1F06243A9988_w1023_r1_s.jpg
Một bài học kinh nghiệm mà người Việt Nam năm 2075 có thể nghĩ ra là đừng
bao giờ chấp nhận sống dưới một chế độ độc tài. Nhất là một chế độ dựa trên một
hệ thống tư tưởng giáo điều, hủ lậu, cố chấp.
Ký giả này đã nhiều lần tự hỏi một cuốn lịch sử
Việt Nam in năm 2075 sẽ nói gì về ngày 30 tháng Tư trước đó 100 năm?
Nhà viết sử sẽ ghi nhận 30 tháng Tư năm 1975
là ngày cuộc nội chiến đã chấm dứt giết chết hai triệu người Việt; sau đó ba, bốn
trăm ngàn người Việt đã vùi xác trên Biển Đông khi tìm đường chạy trốn một chế
độ độc tài khắc nghiệt. Sách có thể ghi chú rằng dân số cả nước lúc đó khoảng
35 triệu.
Các sử gia sẽ so sánh: Cuộc Trịnh Nguyễn phân
tranh vào thế kỷ 17, 18 là do hai dòng họ các tướng quân tranh quyền, chiến
tranh kéo dài đến vài trăm năm. Cuộc nội chiến thế kỷ 20 không lâu như lần trước,
chỉ có 16 năm, từ tháng Năm năm 1959, khi toán quân Bắc Việt đầu tiên theo đường
Trường Sơn xâm nhập miền Nam. Nhưng số người chết cao gấp mấy chục lần.
Chắc các nhà viết sử sẽ phải nhìn rộng hơn để
tìm hiểu cái gì gây nên cuộc nội chiến thứ nhì này? Tìm đến gốc thì đó là một
phần trong lịch sử của cả loài người, cái gọi là “Chiến tranh Lạnh” giữa hai khối
tư bản và cộng sản. Gốc rễ bắt đầu là phương thức kinh tế tư bản phát triển vào
thế kỷ 18 ở Âu châu, đưa tới một phản ứng là lý thuyết Mác xít. Từ đó, có cuộc
cách mạng năm 1917 thành lập một chế độ cộng sản ở nước Nga. Rồi thế giới chia
hai, nhiều quốc gia cũng bị cắt đôi theo hai ý thức hệ.
Trong lịch sử Việt Nam thì cuộc nội chiến chấm
dứt năm 1975 chỉ là một đoạn trong một cuộc tranh chấp lâu dài hơn giữa hai chủ
trương lập quốc sau khi thoát nạn thực dân. Một bên là những người muốn đưa nước
ta vào làm một thành phần, một đội quân đi hàng đầu trong mặt trận quốc tế do
Liên Xô lãnh đạo. Bên kia là những người chủ trương lấy dân tộc làm mục đích
chính yếu, liên kết với các nước chống lại Nga Xô. Một bên muốn thiết lập chế độ
chuyên chính của đảng cộng sản, tổ chức kinh tế theo lối hoạch định tập trung.
Bên kia muốn tùy nghi học hỏi theo kinh nghiệm các chế độ chính trị tự do dân
chủ, với hệ thống kinh tế thị trường, cũng gọi là kinh tế tư bản, có thể tùy
nghi lựa chọn vì ở mỗi nước mỗi khác.
Nhưng không phải bất cứ một nước Á và Phi châu
nào cũng trở thành bãi chiến trường cho hai khối cộng sản và tư bản tranh hùng
giết hàng triệu người, như ở Việt Nam. Ấn Độ không, Thái Lan không, các cựu thuộc
địa như Phi Luật Tân, Malaysia, Indonesia, vân vân, cũng không lâm cảnh tương
tàn bi thảm như nước mình. Những nước đã bị chia đôi như Đức, Hàn Quốc sau năm
1954, cũng không bị cảnh nội chiến kéo dài như ở Việt Nam. Có phải các quốc gia
này tình cờ, gặp may mắn hay chăng? Hay là giới lãnh đạo ở các nước đó khôn
ngoan hơn người Việt?
Vì vậy Việt Nam là một trường hợp đặc biệt, và
rất đáng thương. Sự kiện đầu tiên đẫn tới cuộc nội chiến là ông Hồ Chí Minh lập
đảng Cộng Sản Việt Nam, nhắm mục đích đưa người Việt vào chủ nghĩa cộng sản, một
tín ngưỡng duy vật. Ông theo đường lối Stalin bên Maskva muốn dùng phong trào Cộng
Sản Quốc tế mở rộng ảnh hưởng của Nga ra khắp thế giới.
Lúc đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời (sau bị
Stalin bắt đổi tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương), nước Việt Nam đang bị người
Pháp cai trị và bóc lột. Người Việt Nam đã nổi lên chống Pháp suốt từ cuối thế
kỷ 19. Tất cả mọi người Việt Nam yêu nước đều chống Pháp. Tất cả đều mong đuổi
người Pháp đi, xây dựng một nước Việt Nam độc lập. Những chiến sĩ bị người Pháp
hành quyết trong năm đó là 13 liệt sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Các nhà cách mạng
đều muốn nước Việt Nam sau khi độc lập sẽ theo một chế độ dân chủ, tự do giống
như thể chế của nước Pháp sau các cuộc cách mạng 1789 và nước Trung Hoa từ năm
1911.
Ông Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Việt Nam nghĩ
khác. Họ nêu chủ trương rõ rệt là sau khi được độc lập thì sẽ thiết lập ở nước
ta một chế độ theo kiểu của Stalin gọi là “vô sản chuyên chính.” Họ nhắm biến
Việt Nam thành một phần của mặt trận vô sản thế giới chống chủ nghĩa tư bản
toàn cầu. Theo ông Stalin, các khái niệm về quốc gia, về tổ quốc là các tư tưởng
lạc hậu.
Các người nghiên cứu có thể thấy rõ ý nguyện của
Hồ Chí Minh trong báo Thanh Niên do ông xuất bản ở Quảng Châu.
Ngày 18 tháng Mười năm 1925 báo này in trên tiêu đề khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế
giới, hãy đoàn kết lại!” Đó là kết luận của bản Tuyên ngôn Cộng Sản, do hai nhà
triết học Đức, Karl Marx và Friedrich Engels viết vào tháng Hai năm 1848. Câu
này vẫn còn trên bia mộ của Karl Marx ở nghĩa trang Highgate, London.
Ngày 20 tháng 12 năm 1926
ông Hồ viết trên báo Thanh Niên: “Cái danh từ tổ quốc là do các
chính trị gia đặt ra để đè đầu nhân dân ... để buộc những người vô sản phải cầm
vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và quyền lợi của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng
có tổ quốc, cũng chẳng có biên giới.” Không có quốc gia, không có tổ quốc, đó
là quan điểm rõ rệt của ông Hồ Chí Minh.
Đảng Cộng sản ra đời năm 1930 đặt cho phong
trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam trước một ngã rẽ: Phải lựa chọn giữa khuynh
hướng quốc gia, dân tộc và một chủ nghĩa quốc tế.
Ông Hồ Chí Minh đã chọn đường lối quốc tế, sau
khi “hãnh diện đã được giác ngộ” ở Pháp, rồi được huấn luyện các kỹ thuật nghề
gián điệp, tuyên truyền, ở Maskva. Nhiều nhà cách mạng Việt Nam không đồng ý, họ
chỉ nhắm mục tiêu giành độc lập dân tộc.
Từ đó, ở nước ta có hai xu hướng chính trị đối
nghịch, quốc gia và quốc tế, mối xung đột càng ngày càng nặng nề. Khi thế giới
chia ra hai khối theo ý thức hệ tư bản và cộng sản, Việt Nam cũng chia làm hai,
giống ở Đức và Hàn Quốc. Vì vậy nước ta trở thành chiến địa cho hai thế lực quốc
tế, làm nơi thí nghiệm các loại vũ khí của Nga và Mỹ.
Các nước Indonesia, Mã
Lai, Phi Luật Tân không lâm cảnh tương tàn vì họ không có những đảng cộng sản
trung kiên và tàn bạo như ở Việt Nam. Những nhà cách mạng xu hướng
quốc gia ở các nước này không bị Cộng Sản sát hại trước khi bắt đầu cuộc tranh
đấu vũ trang đòi độc lập. Ở Việt Nam thì Đảng Cộng Sản lo thanh toán tất cả những
lãnh tụ quốc gia có uy tín, như Trương Tử Anh, Lý Đông A, Huỳnh Phú Sổ, vân vân
trước khi đánh nhau với Pháp. Hồ Chí Minh cũng theo đúng chỉ đạo của Stalin,
sát hại những chiến sĩ Đệ Tứ Quốc Tế như Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm, Tạ Thu
Thâu. Đảng Cộng sản thành công
vì họ dám vứt bỏ đạo lý, bất chấp các quy tắc pháp luật, nói lời gian trá không
ngượng miệng, giết người không ghê tay.
Các nhà viết sử sau này có thể ghi nhận 30
tháng Tư năm 1975 cũng là ngày bắt đầu giai đoạn suy yếu của chủ nghĩa Cộng Sản
ở Việt Nam. Khi chiến tranh chấm dứt, người dân có dịp so sánh hai chế độ ở miền
Nam và Bắc. Nhiều nhà trí thức nhìn thấy những dấu vết của một xã hội tự do
tương đối ở miền Nam, dễ thở hơn so với miền Bắc. Đảng Cộng Sản để lộ bộ mặt thật,
là một guồng máy cai trị bằng công an, độc tài, tham nhũng, bất lực trước vấn đề
hiện đại hóa đất nước. Cộng Sản Việt Nam khó biện minh cho các chính sách
chuyên chế, tàn bạo như cũ, phải thay đổi.
Đến những năm 1980 thì đảng
Cộng Sản Việt Nam quay đầu ngược lại, cũng chập chững đi theo kinh tế tư bản
như khi họ bắt đầu phát triển hồi thế kỷ 19. Cảnh sụp đổ của các nước cộng sản ở
Âu châu càng giúp người Việt thấy rõ những nhược điểm của guồng máy cai trị mà
ông Hồ Chí Minh đã gây dựng lên theo kiểu mẫu ông học ở Nga xô.
Người học lịch sử sau này sẽ tự hỏi tại sao chế
độ đó không sụp đổ nhanh hơn, theo sau ở các nước Đông Âu và Nga, để dân Việt
Nam được sống tự do sớm hơn, có cơ hội phát triển kinh tế và văn hóa nhanh hơn?
Vì một guồng máy chuyên chính, độc quyền rất khó thay đổi. Những người nắm quyền
trong tay sẽ không bao giờ muốn bị giảm bớt, đừng nói đến bị mất quyền. Hệ thống
công an được nuôi dưỡng để bảo vệ quyền hành cho các đảng viên, họ nói thẳng rằng
“Đảng Còn thì Mình Còn.” Hệ thống kiểm soát các nguồn thông tin khiến người dân chỉ còn biết
lo nhu cầu “cơm áo gạo tiền,” không nghĩ tới ước vọng nào cao hơn. Nếu nới lỏng
hai gọng cùm kiểm soát này, dân Việt nếm mùi rồi đòi thêm tự do thì các đảng
viên sẽ mất hết ưu quyền, không thể ngồi trên đầu dân mãi được.
Đến năm 2075 người Việt đọc lịch sử nước mình
sẽ thấy Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều cơ hội, thật đáng tiếc. Giữa thế kỷ 19 khi bắt
đầu tiếp xúc với Tây phương, nếu chính quyền nhà Nguyễn biết canh tân đất nước,
thì chắc nước mình đã khá, nếu không tiến nhanh bằng Nhật Bản thì cũng phải
theo kịp Thái Lan. Vào cuối thế kỷ thứ 20 nếu chế độ cai trị thay đổi toàn diện
và nhanh chóng sau năm 1990 thì chắc nước Việt Nam không đến nỗi thua kém các
nước lân bang như Mã Lai, Cam Bốt, Phi Luật Tân. Nếu Việt Nam Cộng Hòa vẫn tồn
tại thì bây giờ cũng có thể tiến gần bằng Đại Hàn Dân Quốc hay Đài Loan. Sẽ
không đến nỗi người dân hãnh diện kiếm được tiền nhờ làm công nhân lắp ráp
trong cơ xưởng của Sam Sung hay Foxconn, mà khi họ cần đến một cây đinh ốc mình
cũng không cung cấp được.
Một bài học kinh nghiệm mà người Việt Nam năm 2075 có thể nghĩ ra là đừng
bao giờ chấp nhận sống dưới một chế độ độc tài. Nhất là một chế độ dựa trên một
hệ thống tư tưởng giáo điều, hủ lậu, cố chấp, mà các vua quan cộng sản còn tham
những gấp vạn lần vua quan thời phong kiến.
No comments:
Post a Comment