Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết
Thúc Thế Nào?
Cao Tuấn
POSTED ON MARCH
23, 2023
https://dcvonline.net/2023/03/23/chien-tranh-nga-ukraine-se-ket-thuc-the-nao/
Tóm tắt, sẽ đến lúc những bên lâm chiến ngộ ra
rằng nên ngưng chiến vì đánh đến thời điểm này là vừa đủ, cố nữa cũng không hơn
gì hoặc lợi bất cập hại. Ngưng chiến để thương thuyết. Thương thuyết đồng
nghĩa với tương nhượng. Đồng nghĩa với cho hoà bình một cơ may.
Phần thứ nhất: Kịch Bản
Cuộc chiến của người Ukraine chống Nga xâm
lăng là cuộc chiến tranh vệ quốc có chính nghĩa rất khó phủ nhận. Ngay cả
đối với những người muốn bênh vực hay ủng hộ nước Nga của ông Tổng Thống
Vladimir Putin.
Cuộc xâm lăng
toàn diện của Tổng thống Vladimir Putin vào nước láng giềng đã biến đổi cả hai
quốc gia kể từ đó. Max Butterworth / NBC
Chính nghĩa tất thắng? Đúng vậy, theo
quan điểm đạo lý. Không hẳn, nếu nhìn vào lịch sử các cuộc chiến tranh hoặc
vào “chính trị thực tế”.
Cuộc chiến tranh Phần Lan chống một triệu quân
Liên Xô xâm lăng 1939-1940 là một thí dụ gần nhất. Chính nghĩa của Phần
Lan đầy đủ, minh bạch — một nước nhỏ hiền hoà bị một nước lớn vô cớ xâm lược. Quân
đội Phần Lan ngày ấy, không kém gì quân đội Ukraine bây giờ, khôn ngoan và
anh dũng — đánh bại quân Liên Xô nhiều lần trước sự thán phục của cả thế
giới. Tuy nhiên cuối cùng vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, Phần Lan
phải chịu thất trận và chịu mất một phần lãnh thổ cho Liên Xô.
Chính nghĩa, như thế, dù có tầm quan trọng chiến
lược, chỉ là một yếu tố — cần nhưng chưa đủ – để thắng một cuộc chiến tranh.
Để trả lời câu hỏi chủ yếu “chiến tranh
Nga-Ukraine sẽ kết thúc thế nào? “ thử xem xét một số kịch bản khác nhau và bàn
về mức độ khả hữu của mỗi kịch bản.
Kịch bản 1: Chiến tranh kết thúc với Nga toàn thắng, đè bẹp
Ukraine trên chiến trường, chính quyền Ukraine đầu hàng và bị thay thế bởi một
chính quyền bù nhìn thân Nga.
Bước qua năm thứ hai của cuộc chiến, kịch bản
này có mức độ khả hữu rất thấp.
https://www.visualcapitalist.com/wp-content/uploads/2022/12/Ukraine-Death-Toll-jan2023.jpg
Sô thương vong của Ukraine tháng 2-2022-thang 1-2023. Nguồn: OHCHR
Lý do:
·
Ukraine có lãnh đạo chính
trị xuất sắc, nổi bật là Tổng Thống Zelensky tài năng, khôn ngoan và rất phong
cách. Trước công luận thế giới, chính nghĩa của Ukraine “chống Nga xâm lược”
áp đảo hẳn tuyên truyền của Nga về “chiến dịch quân sự đặc biệt chống Mỹ và các
nước NATO đang xử dụng Ukraine để bao vây, chèn ép, phá hoại nước Nga trong
sách lược làm tan rã nước Nga — như đã làm tan rã Liên Xô trước đây”.
·
Dân Ukraine rất đoàn kết
chống xâm lược. Xâm lược càng tàn bạo, căm thù càng cao, quyết tâm càng mạnh.
·
Quân đội Ukraine quả cảm,
càng đánh càng tinh nhuệ.
·
Ukraine được các nước
trong khối NATO chi viện rất nhiều về đủ mọi mặt. Đặc biệt là Mỹ đã cung cấp trên
dưới 80 tỉ đô la quân viện và kinh viện chỉ trong năm đầu tiên của cuộc chiến
— một con số phá kỷ lục. Kế đó là Anh, Ba Lan, Canada, Hoà Lan, Na
Uy, Đan Mạch, các nước vùng Baltic …cũng giúp tận tình.
·
Mạnh như Liên Xô, như Mỹ
mà không khuất phục được nước Afghanistan 40 triệu dân thì Nga, dù có leo thang
tổng tấn công tràn ngập Ukraine (có kích thước tương đương Afghanistan), dù chiếm
được các thành phố kể cả thủ đô Kiev, sẽ không bình định nổi Ukraine, sẽ bị sa
lầy với chiến tranh du kích của người Ukraine.
Kịch bản 2: Putin,
tác nhân chính — hoạch định, phát động, điều khiển cuộc chiến tranh —
bị ám sát hay bị lật đổ, chiến tranh Nga-Ukraine kết thúc.
Kịch bản này cũng có mức độ khả hữu không đáng
kể.
Ám sát hay lật đổ Putin cũng khó như ám sát
hay lật đổ Tập Cận Bình hay Kim Jong Un. Putin, Tập, Kim đều là nhưng lãnh tụ độc
tài cai trị bằng bàn tay sắt cùng lúc ban phát quyền lợi hậu hĩ cho các thuộc hạ
trung thành được tuyển chọn kỹ, nắm vững tình hình nội bộ, không để lộ sơ hở.
Riêng Putin — xuất thân tình báo cao cấp
KGB, thâm hiểm, mưu mẹo, phất cờ dân tộc chủ nghĩa, khai thác mặc cảm tự tôn, tự
ti, các ẩn ức của dân Nga — đã làm độc tài, độc tôn gần 1/4 thế kỷ sau
khi diệt trừ hết mọi đối thủ. Triển vọng Putin đột nhiên biến mất
trên chính trường nước Nga là ảo vọng.
Mặt khác, Putin có thể đang là một hình ảnh xấu
xí trên thế giới nhưng có thể rất khác ở bên trong nước Nga, ngược hẳn lại với
trường hợp của Gorbachev – được ca tụng ở các nước Tây Phương như một vĩ nhân,
lại bị ghét bỏ ở Nga. Gorbachev bị dân Nga, công bằng hay không, quy trách
nhiệm đã làm đế quốc Liên Xô tan vỡ, quy trách nhiệm đã làm cho nước Nga tang
thương, lụn bại cả chục năm sau đó – một nước Nga dưới sự lãnh đạo của… Boris
Yeltsin! Thay vì tặng huy chương “quán quân dân chủ” hay “quán quân
hoà bình” cho Gorbachev thì dân Nga gắn mề đay cho Putin vì “đã vực dậy nước
Nga của họ từ đống tro tàn”. Thực tế này, sai đúng đến đâu, vẫn là một thực
tế phải ghi nhận.
Kịch bản 3: Cuộc
chiến kết thúc với Ukraine đại thắng trên chiến trường, lấy lại toàn bộ lãnh thổ
bị xâm chiếm kể cả Crimea, Nga đại bại phải bồi thường thiệt hại như Ukraine
đòi hỏi.
Kịch bản này cũng có mức khả hữu thấp. Nga
sẽ không đại bại. Ukraine sẽ không đại thắng. Và không có bồi thường
chiến tranh.
Lý do:
·
Nga có lợi thế và tận dụng
lợi thế của một cường quốc có vũ khí nguyên tử vĩ đại, lợi hại bằng hoặc hơn Mỹ. Đánh
nhau với bất cứ nước nào, với lợi thế này, chung cục thì Nga hoặc thắng, hoặc
hoà chứ rất khó bại, trừ khi tự ý buông tay, ngửa cổ cho địch thủ chặt đầu
mình.
·
Điều này, vào ngày
22/02/2023 vừa qua tại thủ đô của đồng minh Ba Lan, ngay sau chuyến viếng thăm
Ukraine bất ngờ, đã được Tổng Thống Mỹ Biden xác nhận một cách gián tiếp nhưng
lại rõ ràng đến mức không giải thích khác được. Lời phát biểu của Biden
ngày này, nơi này, được báo chí thế giới đồng loạt đăng tải, nghe qua có vẻ
đanh thép nhưng thực ra lại rất… “khiêm tốn” nếu không nói là “yếu
xìu”: “Ukraine will never be a victory for Russia — never.” (“Nga sẽ không
bao giờ thắng ở Ukraine — Không bao giờ.”)
·
Thông điệp của Mỹ gửi cho
Nhật vào cuối thế chiến thứ hai: “Đầu hàng vô điều kiện hoặc bị tiêu diệt!” Nếu
nhớ, người ta phải tự hỏi tại sao Biden không tuyên bố, ít nhất, một lời minh bạch
chẳng hạn như: “Nga chắc chắn sẽ bị đánh bại hoàn toàn ở Ukraine. Không thể
khác được!”
Tại sao không nói? Phải chăng, “vừa đánh, vừa run” hay “vừa đánh, vừa hồi
hộp”? Phải chăng đánh mà không dám thắng? Phải chăng “thứ nhất
sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ bần cùng cố thây?”
·
Mỹ và Nga có quyền lợi “địa
chính trị” trái ngược nhau ở Âu Châu nói chung và Ukraine nói riêng. Cuộc
chiến Nga-Ukraine cũng là cuộc chiến Nga-NATO, cốt lõi là cuộc chiến Nga-Mỹ bất
kể 2 nước có trực tiếp giao chiến hay không. Nga leo thang tấn công
Ukraine đến đâu, Mỹ leo thang yểm trợ Ukraine ứng phó đến đó nhưng lại cẩn thận…trói
tay Ukraine để yên tâm không làm Nga tức giận, mất mặt hay thất vọng đến mức
phát khùng mà ấn nút phóng bom nguyên tử.
Nga biết thế, càng làm già, càng dậm doạ, càng
mặc sức leo thang, mặc sức đánh Ukraine túi bụi. Nga tự tung, tự tác trên
khắp lãnh thổ Ukraine — nay đánh chỗ này, mai đánh chỗ kia, muốn đến thì đến,
muốn đi thì đi. Tự do mang xe tăng uy hiếp Kiev. Tự do bố trí hàng ngàn hoả
tiễn có tầm bắn vài trăm cây số hay hàng ngàn cây số, đặt sâu trong lãnh thổ
Nga để ngày đêm bắn phá các mục tiêu ở khắp Ukraine. Tự do mang phi cơ bỏ bom bất
cứ nơi nào…Và …tự do dùng vũ khí nguyên tử chiến thuật để tiêu diệt các sư đoàn
của Ukraine, một quốc gia chưa chính thức là thành viên NATO – trong trường hợp
Ukraine phản công quá mạnh và Nga bị nguy ngập trên chiến trường.
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2023/03/Russia_Economy2023.jpg
Nền kinh tế Nga chưa sụp đổ vì những lệnh trừng phạt
của phương Tây, nhưng Nga đã phải gánh chịu hậu quả. Theo IMF, GDP của nước này
được dự đoán sẽ giảm 3,4% vào năm 2022. Nguồn:
IMF and Moscow Exchange
Graphic: Jiachuan Wu / NBC News
Cung cấp viện trợ khổng lồ cho Ukraine nhưng Mỹ
từ chối cung cấp cho Ukraine đủ số lượng xe tăng có phẩm chất tốt, phi cơ tầm
xa, pháo binh tầm xa, hoả tiễn tầm xa mà Zelensky khẩn thiết yêu cầu… Thực tế
có nghĩa là Ukraine bị “cấm” trả đũa tương xứng, bị “cấm” đánh qua biên giới, bị
“cấm” tiến quân vào Moskva, bị “cấm” bắn phá các căn cứ hoả tiễn, phi trường nằm
trong đất Nga nơi xuất phát các cuộc tấn công có tính cách khủng bố của Nga, bị
“cấm” đụng đến Belarus, một quốc gia “khách hàng” đang tự nguyện làm “bệ phóng”
cho Nga. Bị “cấm” rất nhiều thứ… Những giới hạn hay cấm đoán này cũng có
nghĩa là Ukraine, chỉ tự chủ về chiến thuật, hoàn toàn lệ thuộc Mỹ về chiến lược. Mà
chiến lược của Mỹ phải phục vụ an ninh nước Mỹ trước hết !
Ukraine hôm nay chẳng khác Việt Nam Cộng Hoà
năm xưa bị Mỹ “cấm” tiến binh ra Bắc trong khi phe Cộng Sản cứ tuỳ nghi hàng
hàng lớp lớp đổ quân vào Nam. Chiến đấu tự vệ mà bị trói tay một cách
bất công như thế thì chỉ có thua hay hoà, chứ làm sao thắng cả cuộc chiến tranh
đến mức bắt buộc kẻ xâm lược phải bồi thường thiệt hại!
Kịch bản 4: Cuộc
chiến kết thúc bằng thoả ước đình chiến như (trường hợp chiến tranh Triều Tiên
(1950-1953) ) hoặc hiệp định hoà bình như trường hợp chiến tranh Pháp-Việt
(1945-1954). Cuộc chiến kết thúc khi mà cả Nga và Mỹ đều ý thức rằng tiếp
tục chiến tranh là vô ích và chỉ có lợi cho…Tầu.
Kịch bản này có mức độ khả hữu cao nhất. Tuy
nhiên nó sẽ trải qua một quá trình hình thành tiệm tiến – đồng nghĩa chiến
tranh có thể còn kéo dài thêm một vài năm với những diễn biến, nguy hiểm
đáng sợ. Xin lý giải như sau:
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2023/03/Russia_Ukraine2023.jpg
Ukraine-Nga: Biên giới dao động, chiến trường thay đổi. Nguồn: Institute for the Study of War and American Enterprise
Institute’s Critical Threats Project
Graphic: Jiachuan Wu / NBC News
1. Tranh chấp giữa 2 cường
quốc nguyên tử cuối cùng chỉ có 2 cách giải quyết: dàn xếp tương nhượng hoặc
hoặc chiến tranh nguyên tử đồng nghĩa với tự sát tập thể. Không muốn chết
thì phải hoà.
2. Qua năm thứ hai, cuộc chiến
khốc liệt, đẫm máu hơn nhưng ngang ngửa, dằng co. Nga không đè bẹp được Ukraine
có Mỹ và đồng minh Âu Châu chống lưng. Ukraine cũng không trục xuất được
Nga ra khỏi lãnh thổ.
Ukraine chịu thiệt hại nhiều nhất. Viện trợ của
các nước NATO gồm cả Mỹ dù lớn lao vẫn chỉ bù đắp được một phần rất nhỏ những
tàn phá khủng khiếp, những đảo lộn đời sống kinh tế xã hội, những tổn thất nhân
mạng. Kế đến là Nga, cuộc phiêu lưu đắt giá với hàng trăm ngàn thương vong
trên chiến trường, cơ man khí tài quân sự bị phá huỷ, với trừng phạt,
cấm vận làm cho điêu đứng. Mỹ và các đồng minh ngoài tổn phí viện trợ hàng
trăm tỉ đô la cũng phải chịu hệ luỵ của cuộc chiến tranh — lạm phát, người tị nạn,
kinh tế đình trệ, dân bất mãn, mất kiên nhẫn bỏ phiếu những kẻ chủ hoà…
Thế mà, chưa bên nào thực sự muốn ngưng chiến. Cả
Nga, Ukraine, Mỹ, các nước NATO Âu Châu đều… chưa sẵn sàng. Bởi vì
còn sức, bởi vì còn hăng, còn nuôi hy vọng đạt mục tiêu bắt đối phương phải
chấp nhận đòi hỏi của mình, bởi vì còn muốn dậy cho đối thủ một bài học, còn muốn
nhận thêm…sự kính nể.
3. Nếu Nga và Mỹ cùng
thực sự muốn hoà vào lúc này thì không nước nào ngăn cản được. Cuộc chiến
sẽ giảm cường độ. Không có Mỹ, NATO sẽ như rắn mất đầu. Không có viện
trợ Mỹ, Ukraine nếu muốn tiếp tục chiến tranh sẽ phải chuyển qua đánh du kích
trường kỳ vô hạn định.
4. Chiến tranh Nga-Ukraine
dù do Nga khởi xướng vẫn phải nhìn như là một phần của ván cờ chiến lược toàn cầu
— không phải tay đôi mà tay ba: Mỹ, Tầu, Nga. Ba chiến lược gia quan trọng
nhất thế giới hiện nay tất nhiên là Joe Biden, Tập Cận Bình, Vladimir
Putin. Kết quả của ván cờ có thể là một trật tự thế giới mới khác hẳn với
trật tự thế giới hiện nay.
5. Sáng kiến hoà bình 12 điểm
công bố mới đây của Tầu là tuyên truyền, hoả mù, không có thực tâm. Sách
lược CĂN BẢN của Tầu là “Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” kết hợp với “toạ
sơn quan hổ đấu” — đợi cọp chết, cọp bị thương thì xuống núi ra tay làm nốt
phần còn lại rồi lột lấy da. Áp dụng trong thực tế Tầu sẽ tiến, thoái,
gia, giảm thích nghi miễn là lật đổ được Mỹ để làm bá chủ hay làm Thế Giới Đệ
Nhất Siêu Cường.
6. Putin, Biden phải biết
hay đoán biết Tập nghĩ gì, tính gì, làm gì. Tuy nhiên, mũi tên đã bắn đi,
mũi tên đã bắn lại, mỗi bên đều có chiến lược riêng của mình… Khởi động chiến tranh
thì dễ, kết thúc thì khó.
Thời gian đều có thể là kẻ thù của các bên lâm
chiến – bộc lộ những điểm yếu. Thời gian có thể không đứng phía
Nga. Không đứng về phía Mỹ. Không đứng về phía Ukraine.
7. Chiến lược của Mỹ là làm
cho Nga kiệt quệ phải bỏ cuộc nhưng tới nay Nga chưa kiệt quệ. Một, hai
năm nữa có lẽ chưa thành vấn đề. Độc tài, độc quyền và nắm vững tình hình
nội bộ, Putin có khả năng huy động nhân lực, tài nguyên dễ dàng hơn hơn Biden rất
nhiều.
Putin đã ném vào chiến trường 5, 6 trăm ngàn
quân, đã “nướng” cả 5, 7 chục ngàn hay cả trăm ngàn quân nhưng vẫn còn dưới tay
khoảng 15 hay 20 triệu thanh niên Nga trong tuổi nghĩa vụ quân sự để tuỳ nghi xử
dụng trong tổng số 144 triệu dân.
Kẻ “bần cùng cố thây” thực ra là Bắc Hàn của
Kim Jong Un chứ không phải Nga . Xung đột Nga với Mỹ chỉ nên ví von “chén
sành đụng chén kiểu” là cùng. Bị trừng phạt, cấm vận, phong toả, tẩy chay,
kinh tế của Nga có gặp khó khăn nhưng không sụp đổ hay chưa sụp đổ. Dự trữ
ngoại tệ trị giá mấy trăm tỉ đô la vẫn còn đó. Kết quả của chuẩn bị và quản trị
khá tốt từ nhiều năm trước. Đồng tiền “Rúp” của Nga vẫn tương đối ổn định cũng
là một chỉ dấu phản ảnh thực trạng sức chịu đựng của Nga. Chủ yếu là nhờ
bán vũ khí, khoáng sản, nhất là dầu hoả và hơi đốt. Âu Châu cấm vận thì
Nga bán cho Á Châu, Phi Châu. Tiền vẫn vào như nước. Lợi tức thâu được
không kém gì thời kỳ trước chiến tranh.
Nga cũng không hoàn toàn cô độc dù bị 141 quốc
gia tại Liên Hiệp Quốc mới bỏ phiếu lên án trắng trợn xâm lược
Ukraine. Nga vẫn có 38 nước ủng hộ gồm 6 nước công khai bỏ phiếu và 32 nước
“bán công khai” bỏ phiếu…vắng mặt. Trong số này đáng lưu ý là Tầu, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Iran,
South Africa, Việt Nam, Bắc Hàn, Belarus, Syria, Cuba, Nicaragua, Mongolia,
Algeria. Đáng lưu ý nhất, dĩ nhiên là nước Tầu của
Tập Cận Bình – siêu cường số 2 và cơ xưởng sản xuất của thế giới.
Hiện thời thế trận của Nga trông còn vững. Tuy
nhiên nếu chiến tranh mở rộng, kéo dài, hết tiền, hết đạn, hết gạo, yếu sức,
hụt hơi thì sẽ phải nghĩ đến việc cầu cứu Tầu. Tầu tất nhiên không để Mỹ
thắng Nga một cách dễ dàng. Tầu tất nhiên cũng không cứu Nga vô điều kiện.
Từ tuyên bố miệng “đối tác vô giới hạn” đến hiệp
ước đồng minh chính thức của hai nước Tầu – Nga sẽ có tác dụng chia đôi thế
giới như thời kỳ thời chiến tranh lạnh hay gian ngay trước thế chiến 1 và thế
chiến 2. Một bên Dân Chủ Tư Bản. Một bên Độc Tài Cộng Sản hay Độc
Tài cựu Cộng Sản.
Nhưng trước hết giữa Tầu – Nga không thể có hợp
tác bình đẳng. Làm sao có bình đẳng giữa một quốc gia có dân số gấp
mười và qui mô kinh tế cũng gấp 10 quốc gia kia? Lại chung biên giới? Cùng
có óc đế quốc tham lam? Ân oán lịch sử chồng chất còn chưa giải quyết?
Cái nguy cơ của Nga là “tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa”. Chưa
chiếm được Ukraine có thể đã mất Ngoại Mông, Siberia, Vladivostok. Nga sẽ
phải chịu lệ thuộc Tầu, phải chịu phận đàn em, phải làm con nợ, phải gán nợ, mất
đất, mất nhà, phải chìa tay ăn xin, phải chịu cảnh thay bậc đổi ngôi — rất
trớ trêu: “Trời làm một sự lăng nhăng, ông biến ra thằng, thằng biến ra ông!”
Nga có muốn thế không? Có muốn ký hiệp ước
ràng buộc làm “đồng minh vô giới hạn” với Tầu như Ý với Đức làm thành phe
Trục trong thế chiến 2?
Mỹ có muốn Nga như thế không? Mỹ có muốn
Nga “gán” vài ngàn hoả tiễn liên lục địa có gắn đầu đạn hạt nhân cho Tầu để nhận
lại gạo, mì, thịt, cá, đường, sữa, thuốc men, quần áo lạnh, đạn pháo binh, súng
AK, đại liên, xe tăng, phi cơ… những thứ mà Nga đã cạn kiệt đúng vào lúc ngân
khố đã trống rỗng?
8. Tổng Sản Lượng GDP của Nga bằng 7% của Mỹ không
có nghĩa trong chiến tranh Mỹ mạnh hơn Nga 14 lần (và mạnh hơn… Afghanistan
(Taliban) hay Bắc Hàn (Kim Jong Un) mấy trăm lần). Chiến tranh là một nghệ
thuật. GDP cũng là một yếu tố quan trọng phải tính đến trong nghệ thuật chiến
tranh nhưng không phải là yếu tố quan trọng nhất.
Điều đáng quan tâm hơn ở đây là chính trị nội
bộ của nước Mỹ. Một nước Mỹ dân chủ bất toàn. Mỹ là Siêu Cường nhưng không
có khả năng thích hợp cho những cuộc chiến lâu dài.
Hệ thống lưỡng đảng và cung cách tranh cử để nắm
quyền với bất cứ giá nào làm nước Mỹ phân hoá quá đáng. Như căn bệnh trầm
kha, càng ngày càng nặng hơn. Đối lập mà như thù địch, trên chính trường và
trong xã hội. Kẻ làm, người phá. Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Rất
khó tập trung và vận dụng sức mạnh. Rất khó có một chính sách dài hạn trước
sau như một. Rất bất công đặt đồng minh chiến tranh như Ukraine trong tình
trạng thường trực bất an.
Hiện thời, chưa có dấu hiệu chính quyền Mỹ của
Tổng Thống Biden sẽ bỏ rơi Ukraine như chính Biden đã đôi lần bỏ rơi các đồng
minh khác của nước Mỹ trong cuộc đời làm chính trị của mình. Tuy vậy, đang
ở tuổi 80, giữa nhiệm kỳ Tổng Thống 4 năm, với mức độ ủng hộ quanh quẩn 40% của
dân Mỹ, Biden không được coi là một Tổng Thống mạnh mặc dù ứng phó khá tốt
với cuộc chiến ở Ukraine — cho đến nay.
Dân Mỹ, nói chung, dù đã ngán ngẫm cả Joe
Biden và cựu tổng thống Donald Trump, 76 tuổi thuộc đảng Cộng Hoà, vẫn rất
có thể, 20 tháng nữa, lại phải chọn 1 trong 2 ông già “gần đất xa trời” này
trong ngày tổng tuyển cử 5/11/2024 để giao phó sinh mệnh của nước Mỹ (và
sinh mệnh của các nước quá lệ thuộc Mỹ và quá tin Mỹ).
Biden và Trump là… “kỳ phùng địch thủ” nên đều
có cơ may được tái cử làm Tổng Thống, theo các thăm dò mới nhất — trong bối
cảnh 2 đảng Dân Chủ, Cộng Hoà tiếp tục ngang ngửa. Một tin tức đáng lưu ý
là Trump, bắt đầu vận động tranh cử, vừa cho nổ trái bom: “bảo đảm” sẽ giải
quyết chiến tranh Nga-Ukraine trong vòng 24 tiếng đồng hồ!
VIDEO : Ukrainian drones attack Sevastopol port where
Russian ships are stationed
Máy bay không người lái Ukraine tấn công hải cảng
Sevastopol, một căn cử Hải quân Nga. Nguồn: Kanal13
https://www.youtube.com/watch?v=A5l0XcoQ0Kk&t=9s
Một hứa hẹn hấp dẫn với cử tri người Mỹ chán
chuyện chiến tranh — xa xôi, tốn phí, thích… “America first” và chưa quên
“mối thân tình rất đặc biệt và có phần bí hiểm” giữa Trump và Putin.
Riêng người Ukraine tất nhiên phải tự hỏi: Còn
tin tưởng được nước Mỹ đến đâu? Liệu Ukraine có bị tặng không hay bị bán rẻ
cho Nga? Ukraine sẽ phải chuẩn bị thế nào từ bây giờ hay cứ để “nước đến
chân mới nhẩy”?
Tóm tắt, sẽ đến lúc những bên lâm chiến ngộ ra
rằng nên ngưng chiến vì đánh đến thời điểm này là vừa đủ, cố nữa cũng không hơn
gì hoặc lợi bất cập hại. Ngưng chiến để thương thuyết. Thương thuyết đồng
nghĩa với tương nhượng. Đồng nghĩa với cho hoà bình một cơ may.
(tháng 3/2023)
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ
DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi.
DCVOnnline hiệu đính và trình bầy.
*****
Chiến Tranh Nga-Ukraine Sẽ Kết
Thúc Thế Nào? (2)
Cao Tuấn
POSTED ON APRIL 3, 2023
https://dcvonline.net/2023/04/03/chien-tranh-nga-ukraine-se-ket-thuc-the-nao-2/
Nói một
cách khác, trên toàn thế giới, Tầu là địch thủ chính của Mỹ, không phải Nga.
Thách đố lớn nhất của Mỹ nằm ở Châu Á, không phải Châu Âu. Đối với Mỹ, trận đấu
Đài Loan ở Châu Á phải coi là “điểm”, chiến trường Ukraine ở Châu Âu chỉ nên
coi là diện”
Phần thứ hai: Cuộc chiến tại Ukraine nhìn trong
chính trị của “thế chân vạc”
Như đã nói ở phần thứ nhất, để hiểu đầy đủ chiến tranh Nga-Ukraine, cần
phải đặt nó trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược của 3 đại cường quốc là Mỹ,
Tàu, Nga. Vậy, cái bối cảnh ấy gồm những điểm đáng lưu ý nào?
.
“Siêu” nhưng không “siêu”
Mỹ, Tàu, Nga là 3 cường quốc quân sự hàng đầu
thế giới, vượt xa các nước khác. Mỹ là siêu cường. Tầu là siêu cường. Hai nước
mạnh gần như toàn diện. Nga không phải là siêu cường nhưng Nga “siêu” về kho vũ
khí nguyên tử lợi hại; “siêu” về sản xuất và xuất cảng các loại vũ khí chiến
tranh; “siêu” về kỹ thuật thám hiểm không gian; “siêu” về diện tích lãnh thổ, rộng
gần gấp đôi toàn thể Âu Châu; “siêu” về năng lượng dầu hoả và khí đốt; “siêu” về
tài nguyên thiên nhiên – vàng, bạc, sắt, đồng, chì, kẽm, uranium, than đá, đất,
nước; “siêu” vì là đang là quốc gia Âu Châu “hung hăng” nhất trên lục địa này;
“siêu” về hào quang là hậu thân của Liên Xô – có bộ binh mạnh nhất trong thế
chiến 2, đã đánh bại đế quốc Nhật và nhất là đánh bại Đức Quốc Xã ; “siêu” về vị
thế là một trong 5 thành viên thường trực có quyền phủ quyết của Hội Đồng Bảo
An Liên Hiệp Quốc.
https://dcvonline.net/wp-content/uploads/2023/04/my-nga-tau.jpg
““Cái bẫy Thucydides” cho rằng khi một cường quốc
toàn cầu sẵn sàng thay thế một cường quốc khác, thì chiến tranh là điều không thể
tránh khỏi. Dù Trung Hoa đang dần bắt kịp Mỹ trong cuộc cạnh tranh toàn cầu
nhưng một cuộc chiến tổng lực khó có thể xảy ra.” Stanislaw Koziej.
Đồ thị trình bầy mối quan hệ giữa Trung Hoa, Nga và Mỹ. Có ba trục chính đối với
cuộc cạnh tranh quyền lực lớn hiện đang diễn ra: quan hệ giữa Mỹ và Nga, giữa Mỹ
và Trung Hoac và giữa Nga với Trung Hoa. © macpixxel cho nhóm chuyên gia cố vấn
GIS.
Mặt khác, Nga chỉ có 144 triệu dân so với 335
triệu của Mỹ, 1420 triệu của Tầu. Tổng sản lượng GDP chỉ bằng 7% của Mỹ và 10%
của Tầu tính theo hối suất chính thức (cao hơn một chút nếu tính theo mãi lực).
Kinh tế của Nga trì trệ vì năng suất yếu, dân số giảm sút mỗi năm, sinh suất thấp
hơn tử suất. Mức sống vào loại thấp nhất ở Âu Châu. Với những giới hạn này, Nga
không có (vì không thể có) tham vọng làm bá chủ hay đệ nhất siêu cường như Mỹ
hay Tầu mà Nga còn khó tiếp tục đứng độc lập trong thế chân vạc như hiện tại.
“Đông hoà Tôn Quyền, Bắc cự Tào Tháo” không phải
là độc quyền chiến lược của Tập Cận Bình
Trong tương lai, Nga có thể “phải” chọn ký hiệp
ước chính thức làm đồng minh chiến lược của Tầu giúp Tầu lật đổ Mỹ và lên ngôi
đệ nhất siêu cường với “rất nhiều quyền lợi” và “tột đỉnh vinh quang”.
Nếu Mỹ chấp nhận thoả mãn một số đòi hỏi tối
thiểu của Nga, Nga cũng có thể chọn làm đồng minh chiến lược của Mỹ giúp Mỹ chặn
không cho Tầu vươn lên nữa, đồng nghĩa giúp Mỹ duy trì nguyên trạng “Pax
Americana”. “Trong chính trị quốc tế không có bạn muôn đời, không có kể thù
muôn kiếp mà chỉ có quyền lợi của quốc gia” và quyền lợi của …lãnh tụ !
Nếu Nga ký hiệp ước đồng minh quân sự dứt
khoát đứng hẳn về một bên, Tầu hay Mỹ, thế giới sẽ không còn “chân vạc”, chỉ có
“lưỡng cực”. Thế “lưỡng cực” có thể dẫn đến “nhất cực” nếu liên minh Tàu-Nga thắng
Mỹ hoặc liên minh Mỹ-Nga buộc Tầu phải chịu bó tay.
Lẽ tất nhiên, Nga sẽ cố duy trì “thế chân vạc”
– cho đến khi không thể duy trì được nữa – để có “triều đình riêng một góc trời”
và để khỏi rơi vào tình cảnh khốn quẫn “chồn, thỏ hết, chó săn chết” hay “được
chim bẻ ná, được cá quăng nơm”.
“Diện” và “Điểm”
Mặc dù bị Tầu thách thức và cạnh tranh rất
mạnh, Mỹ vẫn còn là đệ nhất siêu cường của thế giới. Cả Âu Châu và Á Châu đều cực
kỳ quan trọng cho vị thế này của Mỹ. “Mất” châu nào trước cũng làm Mỹ suy sụp.
Suy sụp rất nhanh vì “mất” châu này sẽ nhất thiết làm “mất” luôn cả châu kia.
Tại Âu Châu, đối thủ chính của Nga là Mỹ và đối
thủ chính của Mỹ là Nga. Tuy nhiên Nga tự biết không đủ sức nên chiến lược của
Nga không nhằm “hất” Mỹ khỏi Âu Châu. Nga chỉ đang tranh một chỗ đứng mà Nga
nghĩ mình “xứng đáng” tại lục địa này. Sự khuấy động có phần hung hãn của Nga ở
Âu Châu cũng không nhằm phục hồi đế quốc Cộng Sản Xô Viết, một mục tiêu đã lỗi
thời và vượt quá tầm tay, mà là những biến đổi của sách lược lấy “công” làm “thủ”
trong tình cảnh “bất tiến, tắc thoái” của Nga – sau khi Liên Xô tan vỡ. Nước
Nga hay Liên Bang Nga, một mảnh vỡ lớn còn lại của Liên Xô, nếu không thật cứng
cả đối nội và đối ngoại cũng sẽ vỡ thêm lần nữa thành những mảnh nhỏ hơn. Đó là
nguy cơ có thật đối với Nga dù nhìn khách quan hay nhìn theo quan điểm của
Putin. Tuy nhiên, cứng quá sẽ gặp phản ứng. Như “gieo gió thì gặt bão” – như nước
Nga đang gặp “bão” ở Ukraine. Như chỗ đứng “xứng đáng” mà Nga muốn áp đặt tại
Âu Châu đã và đang bị những đối thủ của Nga chống lại.
Tại Á Châu, đối thủ chính của Mỹ là Tầu và đối
thủ chính của Tầu là Mỹ. Khác với Nga, Tầu có tham vọng vĩ đại hơn rất nhiều. Tầu
ở thế công không phải thế thủ. Mặc dù bề ngoài mục tiêu của Tầu có vẻ khiêm tốn
và chính đáng: “thâu hồi Đài Loan để giải quyết chuyện tranh chấp nội bộ nước
Tàu, chấm dứt nội chiến, thống nhất tổ quốc”. Tuy nhiên ai cũng thấy kết quả sẽ
không dừng ở đấy. Một khi Đài Loan và Hoa Lục hợp nhất thành một khối, thế trận
ở Á Châu hoàn toàn đảo lộn. Vô cùng lợi cho Tàu. Vô cùng hại cho Mỹ.
Sự quan trọng của Đài Loan không chỉ là một hải
đảo 36 ngàn cây số vuông, 24 triệu dân, thịnh vượng, tiên tiến mà còn ở vị trí
chiến lược nằm án ngữ hải đạo huyết mạch nối liền Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Vị
trí chiến lược này của Đài Loan có giá trị được nhân lên gấp nhiều lần sau khi
Tầu đã hoàn tất việc độc chiếm và quân sự hoá gần như toàn bộ biển Đông bất chấp
sự phản đối vô vọng của Mỹ, đồng minh của Mỹ và hầu hết các nước trên thế giới.
Đài Loan giống như một Hàng Không Mẫu Hạm khổng
lồ, không bao giờ chìm, lợi hại gấp mấy chục lần tất cả các Hàng Không Mẫu Hạm
của Mỹ gộp lại.
Nguồn: Nikkei Asia
“Mất” Đài Loan, sẽ đặt Nhật và Nam Hàn – đồng
minh quan trọng nhất của Mỹ tại Á Châu, nơi Mỹ có căn cứ quân sự – trong tình
trạng bị uy hiếp nghiêm trọng.
Con đường giao thương tiếp tế sinh tử trên biển
cho 2 nước này có thể bị Tầu phong toả bất cứ lúc nào, cắt đứt dễ dàng như trở
bàn tay. Thiếu dầu, thiếu khí đốt, thiếu phân bón, thiếu thực phẩm, thiếu gạo,
thiếu nguyên liệu … gần 180 triệu người Nhật, người Nam Hàn lúc ấy sẽ phải chọn
giữa chết rét, chết đói và kéo cờ trắng.
Mất Đài Loan là Mỹ mất Đông Bắc Á. Sự hiện diện
vốn đã yếu ớt của Mỹ ở Đông Nam Á cũng cáo chung rất sớm.
Lấy Đài Loan như vậy, đối với Tàu, không phải
chỉ để thống nhất đất nước như tuyên truyền và kích động người dân mà chính là
nhằm trục xuất Mỹ ra khỏi Á Châu rồi thừa thắng xông lên thay thế Mỹ làm đệ nhất
siêu cường hay bá chủ thế giới.
Nói một cách khác, trên toàn thế giới, Tầu là
địch thủ chính của Mỹ, không phải Nga. Thách đố lớn nhất của Mỹ nằm ở Châu Á,
không phải Châu Âu. Đối với Mỹ, trận đấu Đài Loan ở Châu Á phải coi là “điểm”,
chiến trường Ukraine ở Châu Âu chỉ nên coi là “diện”.
Địa Lợi là then chốt
Đương đầu với Tầu trên toàn cầu, Mỹ, nói
chung, có một số lợi thế – nhiều đồng minh, nhiều căn cứ, nhiều hàng không mẫu
hạm ( tầu sân bay ), nhiều bom nguyên tử và tạm thời có thể in
tiền đô la xài khắp thế giới, etc., nên vẫn được coi là siêu cường số 1, nhưng
riêng ở Đông Á (gồm cả Đông Bắc Á và Đông Nam Á) thì Mỹ lại ở thế yếu vì không
thể tập trung đủ lực lượng quân sự để đối phó với một địch thủ rất mạnh và có
chiến lược tận dụng yếu tố địa lợi, tức là “gần nhà” với khả năng
huy động nhân, vật lực gần như vô giới hạn. Đài Loan là đấu trường tại một vùng
địa lợi do Tầu chủ động chọn lựa vì tầm quan trọng chiến lược để, nếu thắng, sẽ
mở ra một cuộc diện hoàn toàn mới có lợi cho Tầu. Nếu thắng, Tầu sẽ ở trong “thế
chẻ tre” như Nhật sau trận Pearl Harbour, như Liên Xô sau Stalingrad.
Mỹ có thừa đầu đạn hạch tâm, thừa bom nguyên tử
để tiêu diệt toàn bộ nước Tầu 19 lần. Tầu chỉ có đủ hạch tâm, nguyên tử đủ để
tiêu diệt toàn bộ nước Mỹ 1 lần. Nhưng 19 lần hay 1 lần, trong trường hợp này,
khác nhau thế nào? Ưu thế mà không hẳn là ưu thế.
Đồng minh trong “bộ tứ Kim Cương” (Quad)
của Mỹ chỉ có Nhật và Úc là “đáng tin cậy” còn Ấn Độ thì “khả nghi”. Đáng tiếc,
Nhật, Úc đều không phải là cường quốc quân sự. Nhật ngày nay không phải Nhật
trong thế chiến thứ hai, cả về tinh thần lẫn sự chuẩn bị chiến tranh. Ấn Độ có
vũ khí nguyên tử tạm đủ cho mục đích “gián chỉ” nhưng trong chiến tranh quy ước
Ấn Độ ở dưới thấp, Tầu ở trên cao (Tây Tạng) nên Ấn Độ sợ chiến tranh với Tầu
hơn là Tầu sợ chiến tranh với Ấn Độ. Đại quân của Ấn Độ vừa không có kinh nghiệm
vừa không có khả năng “vạn lý trường chinh” vượt Hy Mã Lạp Sơn tiến vào sâu vào
đất Tàu. Thêm nữa, người Ấn, theo đạo Bà La Môn(1), tin vào nhân quả,
luân hồi không thích đánh nhau(2), chưa kể Tầu đã chuẩn bị sẵn cho
Pakistan ngáng chân Ấn Độ. Khi “hữu sự”, nhiều phần là Ấn Độ giữ thái độ “vô
can”.
Khối AUKUS (Australia, UK, US) phảng phất lá
bài chủng tộc Anglo-Saxon nhưng New Zealand, Canada(3) lại chọn đứng
ngoài. AUKUS vừa trùng hợp với các tổ chức đồng minh khác của Mỹ vừa gây thêm
chia rẽ nội bộ các nước đồng minh nên sẽ không có nhiều ảnh hưởng. Trường hợp
Pháp mới đây phản đối Úc huỷ bỏ hợp đồng chế tạo 12 tầu ngầm của Pháp để mua tầu
ngầm nguyên tử do Anh, Mỹ phối hợp cung cấp là một thí dụ.
Nguồn: Brooking.edu, Tanvi
Madan Monday, October 5, 2020
Các nước Anh, Pháp, Đức nói riêng, các nước
NATO Âu Châu nói chung cũng không có trọng lượng đáng kể ở vùng Đông Á. Chỉ
đoàn kết miệng với Mỹ trong việc đối phó với sự bành trướng của Tàu. Khác Mỹ,
vì lý do lịch sử, địa lý, tương quan lực lượng và cả thành kiến, các nước này cảm
thấy mối nguy Nga gần gũi và hiển nhiên hơn mối nguy Tầu chưa kể bị Tầu dùng tiền
hay các lợi ích kinh tế để mua chuộc và phân hoá. Chiến thuật “đi đêm” hay “đối
tác song phương” với từng nước Âu Châu xem ra khá hiệu quả với Tàu.
Kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, chiến
tranh Việt Nam, chiến tranh Iraq, chiến tranh Afghanistan… cho thấy Mỹ, trên lý
thuyết, có khá nhiều đồng minh nhưng thực tế là Mỹ luôn luôn phải đảm đương 90%
hay 95% gánh nặng của các cuộc chiến tranh mà Mỹ dẫn đầu.
Nếu xung đột quân sự Mỹ-Tầu bùng nổ, Mỹ
cũng chỉ có thể trông cậy vào… Mỹ, khó có thể trông cậy vào các ông “thợ vịn” đồng
minh – bất kể Âu hay Á.
Như vậy vấn đề là Mỹ còn đủ mạnh hay không? Nhất
là một nửa nước Mỹ lại cầu mong nửa kia bị thua kẻ thù của nước Mỹ cho …bõ ghét
hoặc cho “phe ta” thừa dịp “mượn gió bẻ măng” lên nắm chính quyền.
Ai “thượng phong” và ai “hạ phong”?
Nếu chiến tranh quy ước xẩy ra ở Đông Á, hoả lực
của Tầu, sau nhiều năm “canh tân”, “hiện đại hoá”, “thao quang dưỡng hối”, có
thể không kém gì Mỹ hoặc giả sử còn kém hơn Mỹ một chút về phẩm chất nhưng lại
hơn hẳn Mỹ về số lượng.
Mỹ, từ lâu, được xem là có ưu thế về Hải Quân
và Không Quân nhưng Lục Quân không địch lại bộ binh đông như kiến của Tầu.
Trong chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) Mỹ và 15 nước Đồng Minh như Anh, Pháp,
Canada, Turkey, Netherland, Australia, Thái Lan, Phi Luật Tân, Bỉ, Hy Lạp… đã
kinh nghiệm xương máu về chiến thuật “biển người” của Tàu. Sau 3 năm chinh chiến,
chính Mỹ đã đưa đề nghị ngưng bắn để thương thuyết chứ không phải nước Tầu “khố
rách áo ôm” của những ngày xa xưa ấy.
Tầu mất một triệu quân chẳng hề hấn gì, Mỹ mất
100 ngàn quân thì Tổng Thống Mỹ bay chức. Trong chiến tranh, Dân Chủ thất thế
trước Độc Tài ở điểm chiến lược này.
Nếu bây giờ chiến tranh Mỹ-Tầu bùng nổ và mở rộng
thì ngay cả (giả sử) các nước Đông Nam Á đều chọn đứng về phía Mỹ, Mỹ cũng chỉ
có thể miễn cưỡng bảo vệ được các quốc gia hải đảo như Phi Luật Tân, Nam Dương,
Brunei nhưng chỉ có thể chống mắt đứng nhìn quân Tầu tràn ngập 7 nước Đông Nam
Á còn lại là Việt Nam, Miến Điện, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Lào, Cao Miên.
Các nước này đều quá yếu so với Tầu về mọi phương diện và là một cái gánh quá nặng
cho Mỹ cưu mang. Đông Nam Á, nơi cư trú của hơn 40 triệu “Hoa Kiều Hải Ngoại”
đang kiểm soát 80% kinh tế toàn vùng, đúng là sân sau của Tầu trong khi cách xa
Mỹ nửa vòng trái đất. Tầu có thể đưa 3 triệu quân đến chiến trường trong vòng 1
tháng, Mỹ cần 2 năm. Nước xa không cứu được lửa gần!
10 năm, 15 năm trước đụng độ Hải Quân, Không
Quân với Tầu chắc chắn Mỹ thắng, bây giờ thì không chắc chắn nữa, nhất là đụng
độ trong vùng tranh chấp Đài Loan nơi Mỹ đã mất hết các căn cứ quân sự lân cận
trong vùng như Cam Ranh, Long Bình, Pattaya, Utapao, Clark, Subic Bay…sau khi
chiến tranh Việt Nam kết thúc. Lực lượng đồn trú của Mỹ tại Nhật và Nam Hàn
không đủ để đối phó với thế trận của Tầu ngoài ra chính những căn cứ này cũng
có thể bị uy hiếp vì nằm trong tầm bắn của hoả tiễn tầm trung của Tàu.
Tầu đã quân sự hoá biển Đông với một tốc độ
chóng mặt, công khai, chẳng còn thấy cần cải chính khi bị tố cáo – lấp biển làm
thêm đảo nhân tạo, xây phi trường cho chiến đấu cơ, lập vùng nhận dạng phòng
không, thiết lập các dàn hoả tiễn, đối hạm, phòng không, các căn cứ hải quân,
căn cứ tầu ngầm, cơ sở quân sự, hành chánh đủ loại, tuần tiễu, tuần tra đêm
ngày, trên trời dưới nước…phối hợp các căn cứ này với các căn cứ ở đảo Hải Nam,
các căn cứ trên đất liền dọc duyên hải Trung Hoa suốt từ Mãn Châu xuống Quảng
Đông làm thành một hệ thống quân sự chặt chẽ, chằng chịt, liên hoàn. Một thế trận
lợi hại cho cuộc thư hùng quyết định ai sẽ là đệ nhất siêu cường hay bá chủ thế
giới đã được đảng cộng sản Tầu chuẩn bị cẩn thận trong mấy chục năm từ thuở “ẩn
mình chờ thời” cho đến khi “đối thủ biết được ý định thực của ta thì đã muộn”.
Hình : https://s3.amazonaws.com/uploads.fas.org/2020/09/PACOM_Map.jpg
Cơn bão đỏ: Dự báo quân sự của Trung Hoa
INDO-PACOM
— Nguồn: Hans Kristensen • Ngày 15 tháng 9 năm 2020,
Federation of American Scientists, FAS.org.
Mang lực lượng từ xa đến, đối với Mỹ, có rất
nhiều vấn đề. Chẳng hạn vì thiếu căn cứ, Mỹ phải trông vào hơn
chục Hàng Không Mẫu Hạm (HKMH). Nhưng dù tối tân đến đâu các HKMH này cũng có
kích thước quá lớn và di chuyển quá chậm nên dễ làm mục tiêu cho các loại tên lửa
đạn đạo, hoả tiễn di chuyển bằng vận tốc âm thanh, hướng dẫn bằng radar hay vệ
tinh và gắn khối chất nổ khổng lồ. Chẳng hạn như các loại hoả tiễn Đông Phong
DF-21, DF-26 của Tầu có tầm bắn xa hàng ngàn cây số đã được trình diễn trong cuộc
diễn binh vĩ đại ở Bắc Kinh năm 2015. Câu hỏi quan trọng là: Tầu đã sản xuất được
bao nhiêu hoả tiễn như thế? Và độ chính xác thế nào? Nếu Mỹ không biết hay chưa
biết thì Mỹ có định mang các Hàng Không Mẫu Hạm trị giá từ 10 đến 20 tỉ đô la đến
eo biển Đài Loan để thử sức với những hoả tiễn của Tầu chỉ có giá một vài triệu
hay không?(4)
Nếu không, làm sao bảo vệ Đài Loan và các đồng minh trong vùng?
Lực lượng hoả tiễn đối không và đối hạm cùng
các dàn cao xạ dầy đặc của Tầu đợi B52 của Mỹ xuất hiện còn được phối hợp với
2, 3 ngàn phi cơ xung kích sẵn sàng cất cánh từ các phi trường gần biển kể cả
những phi trường tân lập trên các đảo nhân tạo ở biển Đông và phối hợp cả với
những đội tầu ngầm quanh quẩn trong vùng…
Sự bố trí quân sự của Tầu tại biển Đông và miền
duyên hải Trung Hoa nói chung chuẩn bị cho cả 2 trường hợp.
Trường hợp 1 (tốt nhất) không cần bắn một phát
súng: Mỹ thấy thế trận quân sự của Tầu bầy ra Mỹ không phá nổi, đành phải rút lực
lượng, có ký giấy hay không. Bất Chiến Tự Nhiên Thành của Tôn Tử !
Trường hợp 2: chiến tranh bùng nổ, Tầu thắng,
Mỹ triệt thoái quân sự khỏi Á Châu, có ký giấy hay không.
Dĩ nhiên đối với Tầu trường hợp 1 tốt hơn hẳn,
không sứt mẻ, lại không bị rủi ro chiến tranh nguyên tử và có thể nó chính là
phương án mà Tầu đang thực hiện “chậm rãi nhưng chắc chắn” để “bức hàng” cả Đài
Loan và Mỹ.
Mỹ tất nhiên cũng rất muốn “bất chiến tự nhiên
thành” giống như Tầu – Win Without Fighting hay “ta không cần đánh mà người chịu
khuất” — nhưng Mỹ bị giới hạn và bất lợi rất nhiều mặt nên ngay cả một thế trận
“trung bình”, “coi được” mà các chiến lược gia của Mỹ đang cố gắng sắp xếp một
cách lúng túng như “Quad”, như “Aukus”, như “Five eyes” để đối phó với thế trận
của Tầu có thể cũng không hiện thực – trừ khi có một “sáng kiến chiến lược” với
tầm cỡ… “Kissinger bí mật đi Tầu năm 1971” thì mới mong Tập Cận Bình phải chịu
bó tay.
(Tháng 4/2023)
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng lại
bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Bài do tác giả gởi.
DCVOnnline hiệu đính, trình bầy và phụ chú.
(1) Theo điều tra dân số
năm 2011, 79,8% dân số Ấn Độ theo đạo Hindu (Ấn Độ giáo), 14,2% theo đạo Hồi,
2,3% theo đạo Cơ đốc, 1,7% theo đạo Sikh, 0,7% theo đạo Phật và 0,4% theo đạo
Giai Na. Zoroastrianism (đạo thờ lửa), Sanamahism (đạo đa thần và đặt theo tên
của Lainingthou Sanamahi, một trong những vị thần quan trọng nhất của tín
ngưỡng Meitei) và Do Thái giáo cũng có một lịch sử lâu đời ở Ấn Độ, cả hai có
hàng ngàn tín đồ. Ấn Độ có dân số lớn nhất của những người theo Zoroastrianism
(đạo thờ lửa) và đạo Bahá’í (một tôn giáo có khoảng 5-7 triệu tín đồ ở khắp mọi
nơi) trên thế giới. (Nguồn: Smith, Peter (2008). An Introduction to the
Baha’i Faith. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN
978-0-521-86251-6. Trang 94)
(2) Không kể đến rất
nhiều cuộc chiến đã xẩy ra từ thời Cổ đại đến thời Trung cổ và hiện đại (c.
1850s to 1947 CE), Ấn Độ thời tiền hiện đại (từ thế kỷ 16 đến giữa thế kỷ 19
CN) có khoảng gần 70 cuộc chiến tranh kể cả nội chiến và với chiến tranh lân
bang và những nước châu Âu như Đế quốc Portugese, và Đế quốc Ba tư ở Trung
Đông.
(3) Canada: Thỏa
thuận AUKUS công bố vào giữa cuộc bầu cử liên bang Canada năm 2021. Chính khách
đối lập đã đả kích Thủ tướng Justin Trudeau về việc Canada bị đặt đứng
ngoài hiệp ước, và Trudeau đã trả lời, “Đây là một thỏa thuận về tàu ngầm
hạch tâm, thứ mà Canada hiện chưa hoặc không biết đến khi nào mới cần có như Úc.”
Lãnh đạo phe đối lập chính thức Erin O’Toole tuyên bố rằng ông sẽ tìm cách gia
nhập liên minh nếu được bầu làm thủ tướng.
New Zealand: vào
ngày 16 tháng 9 năm 2021, Thủ tướng New Zealand Jacinda Ardern đã tuyên bố
nhắc lại lập trường của New Zealand là không tàu ngầm nguyên tử nào được phép
hoạt động trong vùng biển của New Zealand, đồng thời tuyên bố rằng họ không được
3 nước trong AUKUS nói chuyện về hiệp ước và rằng bà ấy cũng không đợi AUKUS đến
nói chuyện. Ardern cho biết lãnh đạo của ba quốc gia AUKUS “hiểu rất rõ”
chính sách phi hạch tâm của New Zealand và đã “hiểu rõ quan điểm của chúng
tôi về việc thành lập các tàu ngầm chạy bằng năng lượng nguyên tử”.
(4) Hải quân Hoa Kỳ
hoàn toàn tin tưởng vào khả năng bay của chiến đấu cơ và khả năng chiến đấu của
HKMH trong vùng được gọi là nơi có vũ khí chống đến gần/chống xâm nhập khu vực
(A2/AD) bảo vệ…. Theo quan điểm của Ban lãnh đạo Hải quân Hoa Kỳ, A2/AD—như
cách gọi hiện nay—đã hiện hữu từ buổi bình minh của chiến tranh khi con người
nguyên thủy chiến đấu bằng đá và giáo mác. Theo thời gian, kỹ thuật A2/AD đã
phát triển với tầm và mức sát thương ngày càng lớn hơn. Đá và giáo mác cuối
cùng nhường chỗ cho cung tên, súng hỏa mai và đại bác. Do đó, sự ra đời của hỏa
tiễn đạn đạo và hành trình tầm xa chống chiến hạm đơn giản chỉ là một bước tiến
kỹ thuật khác của A2/AD.
Chỉ huy trưởng Hành quân Hải quân Mỹ, Đô đốc John Richardson, đã lập luận rằng
sự phát triển vũ khí tầm xa của những quốc gia thù địch như Nga và Trung Hoa
không phải là phần tử quan trọng nhất của những cuộc hải chiến. Ông cũng thách
thức quan điểm cho rằng cái gọi là khu vực A2/AD là một khu vực ngăn cách không
thể xâm nhập hay chỉ có thể xâm nhập ở mức nguy hiểm tối đa. Richardson không đồng
ý với việc đơn giản hóa quá mức những tình trạng phức tạp và luôn là độc nhất
trong cái gọi là khu vực A2/AD, đồng thời kết luận rằng Hải quân Hoa Kỳ sẵn
sàng đi đến bất cứ nơi nào họ cần đến, vào bất kỳ lúc nào và ở lại đó lâu nhất
có thể. (Nguồn: “China Naval Modernization: Implications
for U.S. Navy Capabilities — Background and Issues for Congress”, RL33153,
Updated December 1, 2022 Congressional Research Service,
https://crsreports.congress.gov, RL33153, Appendix B. U.S. Navy’s Ability to
Counter Chinese ASBMs and Hypersonic Weapons, trang 57-62.)
No comments:
Post a Comment