Tại sao phương Tây do dự về một chiến thắng rõ ràng
của Ukraine?
Bauxite
Việt Nam dịch
Posted on 18/12/2022 by Boxit VN
https://boxitvn.online/?p=82607
https://drive.google.com/uc?id=124iwfqNGbW4jyo9-3LhG6ti8TJbyhpiu
Tổng
thống Hoa Kỳ George H. W. Bush và nhà
lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev bắt tay sau khi tổ chức một cuộc họp báo ở Moscow vào ngày 31 tháng 7
năm 1991. REUTERS/RICK WILKING
Sau đó, vào tháng 8 năm 1991, Tổng thống
George H.W. Bush đã đến Kyiv để khuyên người Ukraine không tuyên bố hình thành
nhà nước độc lập. Chỉ vài tuần trước khi Ukraine tuyên bố độc lập và chỉ vài
tháng trước khi Liên Xô tan rã, Bush đã lo lắng về sự sụp đổ của chính quyền Xô
Viết. Những lo lắng như vậy nay được lặp lại bởi các nhà lãnh đạo phương Tây
khác, bao gồm Thủ tướng Đức Helmut Kohl và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher. Họ
sợ rằng nếu không có sự kiểm soát liên tục của Moscow đối với đế chế của mình,
tương lai của đất nước này sẽ bị chi phối bởi chủ nghĩa dân tộc, xung đột sắc tộc
và vũ khí hạt nhân sẽ rơi vào tay những kẻ vô trách nhiệm. Những nhà lãnh đạo phương Tây này, với tất cả
những thành tựu của họ trong việc xoay xở để kết thúc Chiến tranh Lạnh, đã đi
sai hướng của lịch sử đối với câu hỏi cơ bản về quyền tự quyết của các dân tộc
bị Moscow giam cầm. May mắn thay, Ukraine và
các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ khác hiện đã độc lập đã không nghe lời họ.
Ngày nay, chúng ta đang chứng kiến những nỗi sợ
hãi tương tự ở các thủ đô phương Tây. Với chế độ của Tổng thống Nga Vladimir
Putin đang trong vòng xoáy đi xuống do cuộc chiến thảm khốc của Điện Kremlin chống
lại Ukraine, sự sụp đổ của chế độ Nga và thậm chí cả sự tan rã có thể xảy ra của
nước Nga đã trở thành nguyên nhân chính gây lo ngại. Sự ủng hộ của công dân Nga
đối với cuộc chiến đã giảm đi, sự chỉ trích trong nước gia tăng bất chấp sự đàn
áp khắc nghiệt, và hàng trăm nghìn người đàn ông Nga đã rời khỏi đất nước kể từ
khi Putin tuyên bố động viên một phần vào cuối tháng 9.
Một lần nữa, phương Tây
do dự về cách thức đúng đắn để quản lý những căng thẳng này và có thể sẽ mắc phải
sai lầm tương tự như năm 1991. Một số nhà lãnh đạo phương Tây đã tỏ ra lo sợ về
một chiến thắng của Ukraine trong cuộc chiến chống lại Nga đang diễn ra – một
viễn cảnh mà nhiều người khó có thể nói ra. Kết quả là xuất hiện một loạt các
tuyên bố lập lờ để tránh né vấn đề kết thúc cuộc chiến. Thay vì sử dụng những
ngôn từ rõ ràng về chiến thắng của Ukraine, các nhà lãnh đạo phương Tây lại tập
trung vào việc phủ nhận thành công mà ông Putin đang tìm kiếm. Thủ tướng Đức
Olaf Scholz đi xa nhất cũng chỉ đến chỗ tuyên bố rằng Putin “không thể thắng”.
Tổng thống Pháp Emmanuel Macron, người đã không bỏ lỡ cơ hội nào để tuyên bố mong
muốn đàm phán với Putin, thậm chí còn gợi ý rằng bất kỳ sự chấm dứt nào đối với
cuộc chiến tranh diệt chủng của Điện Kremlin đều không được làm bẽ mặt nhà lãnh
đạo Nga.
Do đó, nhìn sâu vào sự đoàn kết phi thường
xuyên Đại Tây Dương trong việc phản đối cuộc chiến xâm lược Ukraine của Nga, sẽ
thấy có sự khác nhau rất lớn giữa mối quan tâm của các nước láng giềng sát cạnh
Nga và mối quan tâm của các quốc gia xa hơn về phía tây. Washington,
Berlin và Paris đang bận tâm với nỗi sợ hãi về sự leo thang chiến
tranh và khả năng khi Putin bị dồn vào chân tường sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân. Họ
đã từ chối cung cấp vũ khí tấn công mà Ukraine cần để giành chiến thắng trong
cuộc chiến. Chẳng hạn, Hoa Kỳ chỉ quyết định cung cấp cho Ukraine các Hệ
thống tên lửa pháo binh cơ động cao tiên tiến bắt đầu từ tháng 6. Nhưng như đã
được báo cáo rộng rãi trong tuần này, họ đã bí mật cài đặt các tính năng ngăn
chặn việc sử dụng chúng với các tên lửa tầm xa và do đó ngăn chặn khả năng tấn
công của Ukraine vào các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Nga. Đức, bất chấp áp lực
từ Ukraine và một số đồng minh NATO, đã liên tục từ chối cung cấp xe tăng chiến
đấu Leopard (hoặc thậm chí từ chối cho phép các nước khác cung cấp loại xe tăng
này), loại xe tăng vốn sẽ rất hữu ích để Ukraine giải phóng các vùng lãnh thổ bị
chiếm đóng.
Bất kỳ cái nhìn nào về lịch sử của các đế chế đều
cho thấy rằng chỉ một thất bại rõ ràng mới có thể buộc người Nga phải thay đổi
suy nghĩ.
Các quốc gia vùng Baltic và Ba Lan không sợ bất kỳ sự leo
thang thực tế hay tưởng tượng nào bằng sợ sự chiến thắng của Nga. Do đó, họ đã cung cấp cho Kiev nhiều viện trợ quân sự nhất có thể, vượt
xa nhiều quốc gia khác khi được đo lường tương đối so với quy mô nền kinh tế của
họ. Và họ đã thể hiện rõ sự thất vọng của mình trước sự thái độ lo lắng bối rối
quá rõ ràng của phương Tây. Theo
các quốc gia này, việc phương Tây không nhất quán và liên tục thay đổi giới hạn
đối với các loại vũ khí mà phương Tây sẽ cung cấp sẽ kéo dài chiến tranh một
cách không cần thiết, làm tăng số người chết và số thương vong của dân thường
Ukraine, đồng thời làm tăng khả năng Putin có thể lật ngược tình thế của cuộc
chiến. Putin đã không rời khỏi mục tiêu mà ông ta đã tuyên bố là tiêu diệt tư
cách nhà nước Ukraine. Các thành viên NATO ở gần Nga cho rằng chỉ có thể đẩy
lùi ông ta bằng vũ lực — càng sớm càng tốt.
Thật mỉa mai là người Tây Âu lại sợ leo thang
chiến tranh hơn là các nước ở gần Nga, mặc dầu các nước ở gần Nga sẽ bị ảnh hưởng
trực tiếp bởi bất kỳ sự leo thang nào của chiến tranh. Ngoài dòng người tị nạn,
trên thực tế, chiến tranh đã lan đến lãnh thổ của họ khi trong một trong nhiều
cuộc tấn công của Nga vào cơ sở hạ tầng dân sự của Ukraine, một tên lửa phòng
không của Ukraine đã rơi xuống lãnh thổ Ba Lan và giết chết hai người vào ngày
15 tháng 11. Người Ba Lan coi vụ việc là bằng chứng cho thấy Ukraine cần viện
trợ quân sự của phương Tây nhiều hơn chứ không phải ít hơn. Nếu Nga sử dụng vũ
khí hạt nhân, hoặc nhiều khả năng hơn là tấn công một nhà máy điện hạt nhân của
Ukraine, bụi phóng xạ hạt nhân sẽ đến các nước láng giềng đó trước tiên. Họ
cũng sẽ phải đối mặt với gánh nặng lớn nhất của bất kỳ làn sóng người tị nạn
Ukraine mới nào—nhưng họ sẵn lòng và sẵn sàng tiếp nhận những người tị nạn.
Việc trở
thành đối tượng của các chính sách đế quốc của Nga từ những năm 1700 cho đến
ngày nay đã dạy cho các nước vùng Baltic và Ba Lan sợ hãi sức mạnh của Nga nhiều
hơn là sợ sự yếu đuối—và sợ chiến thắng tiềm năng của Nga ở Ukraine nhiều hơn
là sợ Nga thất bại. Chỉ riêng thế kỷ 20 đã
chứng kiến ba biến động lớn ở châu Âu, mỗi biến động đều có những hậu quả mang
tính sống còn đối với ba quốc gia vùng Baltic và Ba Lan. Các quốc gia này đã
giành được độc lập sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hai lần bị Liên Xô chiếm
đóng trong và sau Thế chiến thứ hai, và chỉ tái độc lập khỏi Moscow khi kết
thúc Chiến tranh Lạnh. Ngày 24 tháng 2 – ngày bắt đầu cuộc xâm lược Ukraine lần
thứ hai của Nga kể từ năm 2014 – là một thời khắc định mệnh khác như vậy. Ở một
số thủ đô phương Tây, bản năng ban đầu là chấp nhận những gì họ coi là thất bại
không thể tránh khỏi của Ukraine và không gửi vũ khí để không kéo dài cuộc xung
đột. Ngược lại, bản năng tức thời của các quốc gia vùng Baltic và Ba Lan là làm
mọi thứ có thể để hỗ trợ Ukraine và ngăn chặn Nga chiến thắng.
Không giống như các chính
phủ phương Tây, các quốc gia Baltic và Ba Lan đã rất chú ý đến những gì Putin
và giới tinh hoa Nga thực sự nói, bao gồm cả ý định được tuyên bố rõ ràng của họ
về việc tái lập phạm vi kiểm soát đế quốc của Moscow. Cuộc xâm lược mở ra hai viễn cảnh: Hoặc Nga áp đặt lại ảnh hưởng của
mình một cách thô bạo đối với các nước láng giềng, bắt đầu với Ukraine và tiếp
tục với các quốc gia khác mà nước này kiểm soát trước đây; hoặc Ukraine tái khẳng
định quyền tự do của mình và cuối cùng gia nhập cộng đồng châu Âu-Đại Tây Dương
với tư cách là thành viên chính thức, như các nước Baltic và các thành viên cũ
của khối Xô Viết đã làm được. Bất cứ điều gì giữa hai khả năng đó – chẳng hạn
như một lệnh ngừng bắn để đóng băng cuộc xung đột – sẽ cho phép Putin hoặc người
kế nhiệm của ông tái vũ trang, tiếp tế và tiếp tục cuộc chiến. Để Ukraine đảm
bảo được tự do, Nga phải bị đánh bại rõ ràng ở Ukraine.
Điều đó không có nghĩa là không nên coi trọng
những lo ngại liên quan đến vũ khí hạt nhân của Nga. Quản lý mối đe dọa đòi hỏi
phải kết hợp giữa sự thận trọng và sự kiên quyết từ phương Tây. Tuy nhiên, do
phương Tây quá thận trọng, Nga đã khéo léo xoay sở để tận dụng một cách thông
minh những lo ngại về sự tận thế hạt nhân để duy trì những hạn chế mà phương
Tây tự áp đặt đối với việc gửi vũ khí hạng nặng và tầm xa hơn cho Ukraine. Rất
may, phương Tây hiện đang học lại khả năng răn đe, bao gồm cả việc gửi thông điệp
rõ ràng tới Nga về những hậu quả tàn khốc mà nước này sẽ phải gánh chịu nếu tiếp
tục thực hiện các mối đe dọa hạt nhân của mình. Chính vì lợi ích của sự ổn định
toàn cầu mà Điện Kremlin không thành công trong việc sử dụng đòn tấn công hạt
nhân để giành chiến thắng ở Ukraine. Hơn nữa, việc Nga sử dụng vũ khí hạt nhân
mang lại rủi ro lớn cho Putin và do đó rất khó xảy ra. Thật không may, Nga sử dụng lực lượng thông thường
để chiếm đóng các vùng lãnh thổ ở các nước láng giềng là một thực tế tàn khốc.
Mátxcơva
khó có thể sớm từ bỏ các mưu đồ đế quốc của mình đối với các nước láng giềng, và bất kỳ
cái nhìn nào về lịch sử của các đế chế đều cho thấy rằng chỉ một thất bại rõ
ràng mới có thể buộc Nga phải thay đổi suy nghĩ. Ý tưởng rằng Nga chỉ an toàn nếu nước này thống trị các nước láng giềng
nhỏ hơn và kiểm soát một phạm vi ảnh hưởng đã ăn sâu vào tư tưởng của người Nga
hàng thế kỷ. Không một nước láng giềng nhỏ hơn nào của Nga có thể xoay xở để đạt
được các mối quan hệ thân thiện thực sự với Nga. Ngay cả Phần Lan, quốc gia đã
cố gắng mọi cách ngoại trừ việc để bị chiếm đóng, cũng đã phải từ bỏ và đang
trên đường gia nhập NATO. Rất có thể, nhà lãnh đạo tiếp theo của Nga sẽ xuất hiện
từ bên trong hệ thống hiện tại do lực lượng an ninh thống trị—và đại diện cho
các giá trị và thế giới quan tương tự hiện đang được thấy ở Ukraine. Sự tan rã
của Nga dường như ít có khả năng xảy ra hơn nhiều so với sự tiếp tục của chế độ
cai trị tập trung, chuyên quyền và áp bức.
Bất chấp thực tế đã rõ rành rành, một số nhà
lãnh đạo phương Tây vẫn nuôi hy vọng quay trở lại một phiên bản nguyên trạng cũ
với Nga. Như Scholz, khi ông chần chừ do dự về việc viện trợ quân sự cho
Ukraine, hy vọng rằng “chúng ta có thể quay trở lại một trật tự hòa bình đã hoạt
động hiệu quả và làm cho nó an toàn trở lại”. Các nước láng giềng của Nga không
khỏi thắc mắc “trật tự đã hoạt động” của Scholz có thể có ý nghĩa gì. Trong Chiến
tranh Lạnh, phần lớn Trung và Đông Âu đã bị chiếm đóng. Vào những năm 1990, Nga
đã kích động chiến tranh và đóng băng xung đột ở các quốc gia hậu Xô Viết nhằm
kiểm soát các quốc gia này. Nga xâm lược Gruzia vào năm 2008 và đánh chiếm Ukraine
từ năm 2014. Các chính phủ phương Tây đã đưa ra một số tuyên bố ngoại giao và
các biện pháp trừng phạt nhỏ nhưng tán thành phạm vi ảnh hưởng của Nga bằng
cách ngăn chặn nguyện vọng gia nhập Liên minh châu Âu và NATO của Ukraine và
Gruzia. Sự thận trọng này được thúc đẩy bởi mong muốn giảm căng thẳng và đảm bảo
sự ổn định nhưng cuối cùng lại khuyến khích Nga áp đặt “trật tự có hiệu quả” bằng
vũ lực.
Ngày nay, phần ổn định nhất trong khu vực lân
cận của Nga là những quốc gia đã gia nhập NATO và EU theo lựa chọn và nỗ lực của
riêng họ để thoát khỏi sự thống trị của Moscow. Ukraine đã bắt tay vào con đường
tương tự và được hỗ trợ bởi hơn 80 phần trăm công dân của mình. Vào những năm
1990, các quốc gia vùng Baltic đã phải vượt qua sự nghi ngờ mạnh mẽ ở các thủ
đô phương Tây về việc liệu có khôn ngoan không khi mở rộng EU và NATO cho bất kỳ
nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ nào. Một số nhà quan sát phương Tây tiếp tục lặp
lại tuyên bố của Điện Kremlin rằng việc mở rộng NATO là nguyên nhân dẫn đến sự
hung hăng ngày càng tăng của Nga. Tuy nhiên, các nước láng giềng của Nga biết rất
rõ rằng NATO đã không gây ra chủ nghĩa đế quốc hiếu chiến của Nga, thứ đã tồn tại
hàng thế kỷ trước khi liên minh này ra đời. Ngược lại, việc mở rộng NATO hóa ra
lại là phương tiện thành công nhất để kiềm chế nó. Khi bị ngăn cản bởi một lực
lượng vượt trội, Nga sẽ lùi bước.
Lòng dũng cảm và quyết tâm bảo vệ nền độc lập của
người dân Ukraine là cơ hội lịch sử để Mỹ và châu Âu giáng một đòn quyết định
vào chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc độc hại của Nga. Nhưng cho đến nay, các cường
quốc lớn của phương Tây vẫn do dự trong việc làm hết sức mình để ủng hộ
Ukraine. Ukraine, được các nước Baltic và Ba Lan ủng hộ mạnh mẽ, khẳng định rằng
Nga phải bị phản công, cô lập và trừng phạt cho đến khi nước này rút quân hoàn
toàn khỏi Ukraine, bồi thường thiệt hại chiến tranh và đưa những người Nga bị
buộc tội phạm tội ác chiến tranh ra xét xử. Đây sẽ là một quá trình lâu dài,
đòi hỏi sự thay đổi trong suy nghĩ của phương Tây, nhưng không thể tránh khỏi nếu
muốn sửa chữa những sai lầm trong quá khứ trong việc xử lý hành vi gây hấn của
Nga.
Cuối
cùng, một Ukraine tự do và dân chủ, an toàn trong biên giới của mình và hoàn
toàn hội nhập vào cộng đồng xuyên Đại Tây Dương, sẽ là cơ hội tốt nhất có thể
cho một sự chuyển đổi sâu sắc bên trong nước Nga. Chính kết quả đó – điều mà
phương Tây nên hiểu rõ – một ngày nào đó có thể mở ra một kỷ nguyên hậu đế quốc
thực sự hòa bình trong quan hệ của Nga với các nước láng giềng.
K.R.
Kristi Raik là
giám đốc Viện Chính sách Đối ngoại Estonia tại Trung tâm Quốc phòng và An ninh.
Twitter: @KristiRaik
.
Don't
Be Afraid of a Russian Collapse
Why is the West so hesitant about a clear Ukrainian
victory?
By Kristi Raik, the
director of the Estonian Foreign Policy Institute at the International Centre
for Defence and Security.
Foreign Policy, December 8, 2022, 1:11 PM
No comments:
Post a Comment