Olaf Scholz, thủ tướng Đức - Foreign Affairs
Đỗ Kim Thêm dịch
13/12/2022
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/12/1-29-1024x576.jpg
Olaf Scholz, Thủ tướng Chính phủ Cộng Hoà Liên Bang Đức, trong một diễn văn truyền
hình. Nguồn: Markus Schreiber/ AP
Thế giới đang đối mặt với một bước ngoặt của
thời đại: một sự thay đổi kiến tạo cho thời đại. Cuộc chiến tranh xâm
lược của Nga chống Ukraine đã kết thúc một kỷ nguyên. Các cường quốc mới đã hoặc
tái xuất hiện, bao gồm một Trung Quốc hùng mạnh về kinh tế và kiên quyết về
chính trị. Trong thế giới đa cực mới này, các quốc gia và mô hình chính phủ
khác nhau đang cạnh tranh về quyền lực và ảnh hưởng.
Về phần mình, Đức đang làm mọi thứ có thể để bảo
vệ và thúc đẩy một trật tự quốc tế dựa trên các nguyên tắc của Hiến chương Liên
Hiệp Quốc. Nền dân chủ, an ninh và thịnh vượng của Đức phụ thuộc vào sự ràng buộc
quyền lực đối với các quy tắc chung. Đó là lý do tại sao Đức có ý định trở
thành người bảo đảm cho nền an ninh châu Âu mà các đồng minh của chúng tôi mong
đợi rằng chúng tôi là một người xây dựng cầu nối trong Liên minh châu Âu và ủng
hộ các giải pháp đa phương cho các vấn đề toàn cầu. Đây là cách duy nhất để Đức
điều hướng thành công những rạn nứt địa chính trị của thời đại chúng ta.
Bước ngoặt của thời đại vượt ra ngoài cuộc chiến tại Ukraine và vấn đề an ninh châu Âu. Vấn
đề chủ yếu là làm thế nào chúng ta, người châu Âu và Liên minh châu Âu, có thể
vẫn là những tác nhân độc lập trong một thế giới ngày càng đa cực?
Đức và châu Âu có thể giúp bảo vệ cho trật tự
quốc tế dựa trên luật lệ mà không chịu khuất phục trước quan điểm định mệnh cho
rằng thế giới sẽ một lần nữa tách biệt thành các khối cạnh tranh. Lịch sử đất
nước của chúng tôi trao cho một trách nhiệm đặc biệt để chống lại các lực lượng
của chủ nghĩa phát xít, độc đoán và đế quốc. Đồng thời, kinh nghiệm của chúng
tôi về việc bị chia đôi trong một cuộc thử thách về ý thức hệ và địa chính trị
tạo cho chúng tôi một sự đánh giá đặc biệt về những rủi ro của một cuộc chiến
tranh lạnh mới.
KẾT THÚC MỘT KỶ NGUYÊN
Đối với phần lớn các nơi trên thế giới, ba thập
niên kể từ khi Bức màn sắt sụp đổ là thời kỳ hòa bình và thịnh vượng tương đối.
Những tiến bộ về công nghệ đã tạo ra một mức độ kết nối và hợp tác chưa từng
có. Thương mại quốc tế ngày càng phát triển, chuỗi sản xuất và giá trị trải rộng
trên toàn cầu, cùng sự trao đổi vô song về con người và kiến thức xuyên biên giới
đã đưa hơn một tỷ người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Điều quan trọng nhất là các
người dân can đảm trên toàn thế giới đã quét sạch các chế độ độc tài và độc đảng.
Lòng khao khát cho tự do, phẩm giá và dân chủ của họ đã thay đổi tiến trình lịch
sử. Hai cuộc thế chiến tàn khốc và nhiều đau khổ, phần lớn là do đất nước chúng
tôi gây ra, được theo sau bởi hơn bốn thập niên căng thẳng và đối đầu trong
bóng tối của sự hủy diệt bằng hạt nhân có thể xảy ra. Nhưng đến những năm 1990,
dường như một trật tự thế giới kiên cường hơn cuối cùng đã được thiết lập.
Đặc biệt là người Đức có thể lượng các được
phước lành của họ. Vào tháng 11 năm 1989, những người dân dũng cảm của Đông Đức
đã đánh sập Bức tường Berlin. Chỉ 11 tháng sau, đất nước đã thống nhất nhờ các
chính trị gia đầy viễn kiến và sự hỗ trợ từ các đối tác ở cả phương Tây
và Đông. Cuối cùng, như cựu Thủ tướng Đức Willy Brandt đã nói ngay sau
khi bức tường sụp đổ: “những gì thuộc về nhau có thể cùng nhau phát triển.“
Những lời này không chỉ áp dụng cho riêng nước
Đức mà còn cho nói chung cho cả châu Âu. Các cựu thành viên của Khối Hiệp ước
Warsaw đã chọn trở thành đồng minh trong khuôn khổ của Tổ chức Minh ước Bắc Đại
Tây Dương (NATO) và các thành viên của Liên Minh châu Âu. “Châu Âu toàn diện và
tự do”, trong công thức của George H.W. Bush, tổng thống Mỹ vào thời điểm đó,
dường như không còn là một hy vọng vô căn cứ. Trong kỷ nguyên mới này, Nga sẽ
trở thành đối tác của phương Tây hơn là đối thủ như Liên Xô trước đây là việc
khả thi. Do đó, hầu hết các nước châu Âu đã thu hẹp quân đội và cắt giảm ngân
sách quốc phòng. Đối với Đức, lý do rất đơn giản: Tại sao phải duy trì một lực
lượng phòng thủ lớn khoảng 500.000 binh sĩ trong khi tất cả những lân bang
hầu như là bạn bè hoặc đối tác?
Trọng tâm của chính sách an ninh và quốc phòng
của chúng tôi nhanh chóng chuyển sang các mối đe dọa cấp bách khác. Các cuộc
chiến Balkan và hậu quả của vụ tấn công 9/11 năm 2001, bao gồm các cuộc chiến ở
Afghanistan và Iraq, đã nâng cao tầm quan trọng của việc xử lý các cuộc khủng
hoảng khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, tình đoàn kết trong khối NATO vẫn còn
nguyên vẹn: vụ tấn công 9/11 đã dẫn đến quyết định đầu tiên làm kích hoạt Điều
5, điều khoản phòng thủ hỗ tương của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, và trong hai
thập niên, các lực lượng của khối NATO đã kề vai sát cánh ở Afghanistan để chiến
đấu chống bọn khủng bố.
Từ tiến trình mới của lịch sử, doanh giới Đức
đã rút ra kết luận cho riêng mình. Sự sụp đổ của Bức màn sắt và nền kinh tế
toàn cầu hội nhập hơn bao giờ hết đã mở ra những cơ hội và thị trường mới, đặc
biệt là ở các quốc gia thuộc khối Đông Âu cũ và còn ở các quốc gia khác có nền
kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc. Với nguồn năng lượng khổng lồ và các
nguyên liệu thô khác, Nga đã chứng tỏ là một nhà cung ứng đáng tin cậy trong thời
Chiến tranh Lạnh, và ít nhất là trong lúc đầu, Nga có vẻ nhạy bén nhận ra
để mở rộng mối quan hệ đối tác đầy hứa hẹn trong thời bình.
Tuy nhiên, giới lãnh đạo Nga đã trải nghiệm sự
tan rã của Liên Xô cũ và Khối Hiệp ước Warsaw và đưa ra kết luận khác biệt rõ rệt
so với các kết luận của các nhà lãnh đạo ở Berlin và các thủ đô khác trong châu
Âu. Thay vì coi việc lật đổ trong an bình của chế độ cộng sản là một cơ hội để
cho có tự do và dân chủ nhiều hơn, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã gọi đây là
“thảm họa địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX”. Sự hỗn loạn kinh tế và chính
trị ở các khu vực thuộc không gian hậu Xô Viết trong những năm 1990 chỉ làm trầm
trọng thêm cảm giác mất mát và đau khổ mà nhiều người dân Nga cho đến ngày nay
liên kết với sự kết thúc của Liên Xô.
Chính trong môi trường
đó, chủ nghĩa độc đoán và tham vọng đế quốc bắt đầu trỗi dậy. Năm 2007, Putin đã đưa ra một bài phát biểu gây hấn tại Hội nghị An
ninh Munich, xem trật tự quốc tế dựa trên luật lệ như một công cụ đơn thuần
trong sự thống trị của Mỹ. Năm sau, Nga phát động một cuộc chiến chống lại
Georgia. Năm 2014, Nga đã chiếm đóng và sáp nhập Crimea và gửi lực lượng
vào các khu vực Donbass, miền đông Ukraine, vi phạm trực tiếp luật quốc tế và
các cam kết thuộc hiệp ước của chính Moscow. Những năm sau đó, Điện Kremlin cắt
giảm các hiệp ước kiểm soát vũ khí và mở rộng khả năng quân sự, đầu độc và giết
hại các nhà bất đồng chính kiến Nga, đàn áp xã hội dân sự và thực hiện một cuộc
can thiệp quân sự tàn bạo để hỗ trợ chính quyền Assad ở Syria. Từng bước một,
nước Nga của Putin đã chọn một con đường đưa Nga ra xa khỏi châu Âu và một trật
tự hợp tác, hòa bình.
ĐẾ CHẾ PHẢN CÔNG
Trong tám năm sau khi sáp nhập bất hợp pháp
Crimea và bùng nổ xung đột ở miền đông Ukraine, Đức và các đối tác châu Âu và
quốc tế trong khối G-7 tập trung vào việc bảo vệ chủ quyền và độc lập chính trị
của Ukraine, ngăn chặn sự leo thang hơn nữa của Nga và khôi phục và giữ gìn hòa
bình ở châu Âu. Phương cách chọn lựa là kết hợp của áp lực chính trị và kinh tế
cùng với các biện pháp hạn chế đối với Nga bằng đối thoại. Cùng với Pháp, Đức
đã tham gia vào cái gọi là Định dạng Normandy dẫn đến các thỏa thuận Minsk và
tiến trình tương ứng với Minsk, kêu gọi Nga và Ukraine cam kết ngừng bắn và thực
hiện một số biện pháp khác. Bất chấp những thất bại và thiếu tin tưởng giữa
Moscow và Kyiv, Đức và Pháp vẫn duy trì tiến trình này. Nhưng một nước Nga theo
chủ nghĩa xét lại đã khiến cho việc ngoại giao không thành công.
Cuộc tấn công tàn bạo của Nga vào Ukraine vào
tháng 2 năm 2022 sau đó về cơ bản đã mở ra một thực tế mới: chủ nghĩa đế quốc đã quay trở lại châu Âu. Nga đang sử dụng một số phương pháp quân sự khủng khiếp nhất của thế
kỷ XX và gây ra những đau khổ không thể kể xiết ở Ukraine. Hàng chục nghìn binh
sĩ và dân thường Ukraine đã thiệt mạng; nhiều người khác đã bị thương hoặc chấn
thương. Hàng triệu công dân Ukraine đã phải bỏ nhà cửa, tìm nơi ẩn náu ở Ba Lan
và các nước châu Âu khác; một triệu người trong số họ đã đến Đức. Pháo binh,
tên lửa và bom của Nga đã biến nhà cửa, trường học và bệnh viện Ukraine thành đống
đổ nát. Mariupol, Irpin, Kherson, Izyum: những nơi này sẽ mãi mãi nhắc nhở cho
thế giới về các tội ác của Nga, và các thủ phạm phải được đưa ra trước công lý.
Nhưng tác động của cuộc chiến tranh Nga vượt
ra ngoài Ukraine. Khi Putin ra lệnh tấn công, ông đã phá vỡ một kiến trúc hòa
bình cho quốc tế và châu Âu mà đã mất nhiều thập niên để xây dựng. Dưới sự lãnh
đạo của Putin, Nga đã bất chấp ngay cả những nguyên tắc cơ bản nhất của luật
quốc tế như được quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc: từ bỏ sử dụng vũ lực
như một phương tiện của chính sách quốc tế và cam kết tôn trọng độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia. Nga hành sử như một cường
quốc đế quốc, hiện nay một lần nữa, đang tìm cách vẽ lại biên giới bằng vũ lực
và phân chia thế giới thành các khối và phạm vi ảnh hưởng.
MỘT CHÂU ÂU MẠNH HƠN
Thế giới không để cho Putin đi theo con đường
của mình; chủ nghĩa đế quốc của Nga phải được ngăn chặn. Vai trò quan trọng đối
với Đức trong thời điểm này là đẩy mạnh thành một trong những nước chính mang lại
an ninh ở châu Âu bằng cách đầu tư vào quân đội, củng cố ngành công nghiệp quốc
phòng châu Âu, tăng cường sự hiện diện quân sự ở cạnh sườn phía đông của khối
NATO, huấn luyện và trang bị cho các lực lượng vũ trang của Ukraine.
Vai trò mới của Đức sẽ đòi hỏi một nền văn hóa
chiến lược mới, và chiến lược an ninh quốc gia mà chính phủ của chúng tôi sẽ áp
dụng vài tháng nữa sẽ phản ánh thực tế này. Trong ba thập niên qua, các quyết định
liên quan đến nền an ninh của Đức và thiết bị của các lực lượng vũ trang của đất
nước đã được đưa ra trong bối cảnh một châu Âu trong hòa bình. Hiện nay, vấn đề
chỉ đạo sẽ là các mối đe dọa nào mà chúng ta và các đồng minh phải đối mặt ở
châu Âu, hầu hết trước mắt nhất là đến từ Nga. Các mối đe dọa bao gồm các cuộc
tấn công tiềm tàng vào lãnh thổ đồng minh, binh pháp chiến tranh trên mạng và
thậm chí là cơ hội tấn công từ xa bằng vũ khí hạt nhân, điều mà Putin đã không
đe doạ một cách tinh vi.
Mối quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương đang
và vẫn là quan trọng để đối mặt với những thách thức này. Tổng thống Hoa Kỳ Joe
Biden và chính quyền của ông đáng được ca ngợi trong việc xây dựng và đầu tư
cho các mối quan hệ đối tác và liên minh mạnh mẽ trên toàn cầu. Nhưng một mối
quan hệ đối tác xuyên Đại Tây Dương cân bằng và kiên cường cũng đòi hỏi Đức và
châu Âu phải đóng các vai trò tích cực. Một trong những quyết định đầu tiên mà
chính phủ chúng tôi đưa ra sau cuộc tấn công của Nga vào Ukraine là chỉ định một
quỹ đặc biệt khoảng 100 tỷ đô la để trang bị tốt hơn cho Bundeswehr, các lực lượng
vũ trang của chúng tôi. Thậm chí chúng tôi đã tu chỉnh hiến pháp để thành
lập quỹ này. Quyết định này đánh dấu sự thay đổi mạnh bạo nhất trong chính sách
an ninh của Đức kể từ khi
Bundeswehr được thành lập vào năm 1955. Quân
nhân của chúng tôi sẽ nhận được sự hỗ trợ chính trị, vật liệu và các khả năng
mà họ cần để bảo vệ đất nước và các đồng minh của chúng tôi. Mục tiêu là
Bundeswehr mà chúng tôi và các đồng minh của chúng tôi có thể tin tưởng. Để đạt
được điều đó, Đức sẽ đầu tư hai phần trăm tổng sản phẩm quốc nội vào quốc
phòng.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2022/12/1-30.jpg
Các quân nhân Đức thuộc Lực lượng Phòng chống của Khối NATO tại
Baumholder, Đức, tháng 11 năm 2022. Ảnh: Wolfgang Rattay / Reuter.
Những thay đổi này phản ánh một ý thức mới
trong xã hội Đức. Ngày nay, phần lớn người Đức đồng ý rằng đất nước cần một đội
quân có khả năng và sẵn sàng răn đe kẻ thù và tự vệ và bảo vệ các đồng minh. Đức
sát cánh cùng người Ukraine khi họ bảo vệ đất nước chống lại Nga xâm lược. Từ
năm 2014 đến 2020, Đức là nguồn đầu tư tư nhân và hỗ trợ chính phủ lớn nhất của
Ukraine. Và kể từ khi Nga bắt đầu xâm lược, Đức đã gia tăng hỗ trợ về tài chính
và nhân đạo cho Ukraine và đã giúp điều phối phản ứng quốc tế trong khi giữ chức
chủ tịch khối G-7.
Bước ngoặt theo thời đại cũng khiến cho chính phủ chúng tôi xét lại một nguyên tắc đã được
thiết lập vững chắc từ nhiều thập niên trong chính sách của Đức về việc xuất khẩu
các vũ khí. Ngày nay, lần đầu tiên trong lịch sử cận đại của Đức, chúng tôi
đang cung cấp vũ khí trong một cuộc chiến tranh giữa hai quốc gia. Trong cuộc
trao đổi với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, chúng tôi đã xác minh một
điều: Đức sẽ duy trì nỗ lực hỗ trợ cho Ukraine trong thời gian cần thiết. Điều
mà Ukraine cần nhất hiện nay là các hệ thống pháo binh và phòng không, và đó
chính xác là những gì Đức đang cung cấp, phối hợp chặt chẽ với các đồng minh và
đối tác của chúng tôi. Sự hỗ trợ của Đức cho Ukraine cũng bao gồm vũ khí chống
xe tăng, tàu bọc thép, súng phòng không và tên lửa, và hệ thống radar phản
công. Một phái bộ mới của Liên Âu sẽ cung cấp huấn luyện cho đến 15.000 binh sĩ
Ukraine, bao gồm tới 5.000, toàn bộ lữ đoàn, ở Đức. Trong khi đó, Cộng hòa Séc,
Hy Lạp, Slovakia và Slovenia đã chuyển giao hoặc đã cam kết chuyển giao khoảng
100 xe tăng chiến đấu chủ lực thời Liên Xô cho Ukraine; sau đó đến lượt mình, Đức
sẽ cung cấp cho các quốc gia đó những chiếc xe tăng Đức được tân trang lại. Bằng
cách này, Ukraine đang nhận được những xe tăng mà lực lượng Ukraine biết rõ và
có kinh nghiệm sử dụng và có thể dễ dàng tích hợp vào các kế hoạch hậu cần và bảo
trì hiện có của Ukraine.
Các hành động của khối NATO không được dẫn đến
một cuộc đối đầu trực tiếp với
Nga, nhưng liên minh này phải ngăn chặn một cách đáng tin cậy sự xâm lược
tiếp theo của Nga. Để đạt được mục tiêu đó, Đức đã tăng cường đáng kể sự hiện
diện của mình ở cạnh sườn phía đông của khối NATO, củng cố lực lượng chiến đấu
của khối NATO do Đức lãnh đạo ở Litva và chỉ định một lữ đoàn để đảm bảo an
ninh cho quốc gia đó. Đức cũng đang đóng góp quân đội cho lực lượng của khối
NATO ở Slovakia, và không quân Đức đang giúp giám sát và bảo vệ không phận ở
Estonia và Ba Lan. Trong khi đó, hải quân Đức đã tham gia vào các hoạt động răn
đe và phòng thủ của khối NATO ở biển Baltic. Đức cũng sẽ đóng góp một sư đoàn
thiết giáp, cũng như các vũ khí không quân và hải quân quan trọng (tất cả đều ở
trong tinh thần ứng chiến cao độ) cho Mô hình Lực lượng Mới của khối NATO, được
thiết kế để cải thiện khả năng của liên minh trong việc phản ứng nhanh chóng với
bất kỳ tình huống bất ngờ nào. Đức sẽ tiếp tục duy trì cam kết đối với các thỏa
thuận của khối NATO trong việc phân chia về hạt nhân, bao gồm cả việc mua máy
bay chiến đấu F-35 có hai khả năng sử dụng.
Thông điệp của chúng tôi gửi đến Moscow rất rõ
ràng: chúng tôi quyết tâm bảo vệ từng tất đất thuộc về lãnh thổ của khối NATO
trước bất kỳ sự xâm lược nào có thể xảy ra. Chúng tôi sẽ thực hiện các cam kết
long trọng của khối NATO rằng, một cuộc tấn công vào bất kỳ một đồng minh nào sẽ
được coi là tấn công vào toàn bộ liên minh. Chúng tôi cũng đã nói rõ với Nga rằng,
những lời tuyên bố gần đây của Nga liên quan đến vũ khí hạt nhân là liều lĩnh
và vô trách nhiệm. Khi chúng tôi thăm Bắc Kinh vào tháng 11, Chủ tịch Trung Quốc
Tập Cận Bình và chúng tôi đồng tình rằng, việc đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân
là không thể chấp nhận được và việc sử dụng những vũ khí khủng khiếp như vậy sẽ
vượt qua ranh giới đỏ mà nhân loại đã xác định một cách đúng đắn. Putin nên ghi
nhận những lời lẽ này.
Trong số nhiều tính toán sai lầm mà Putin đã
phạm phải là suy đoán rằng, cuộc xâm lược Ukraine sẽ làm căng thẳng mối quan hệ
giữa các đối thủ của ông. Trên thực tế, điều ngược lại đã xảy ra: Liên minh
châu Âu và Liên minh xuyên Đại Tây Dương đang mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Không
nơi nào điều này rõ ràng hơn trong các lệnh trừng phạt kinh tế chưa từng có mà
Nga đang phải đối phó. Rõ ràng là ngay từ đầu cuộc chiến, các biện pháp
trừng phạt này sẽ phải được áp dụng trong một thời gian dài, vì hiệu quả của
chúng tăng lên từ tuần này qua tuần khác. Putin cần hiểu rằng không một lệnh trừng
phạt nào sẽ được huỷ bỏ, Nga phải chấp nhận về các điều khoản của một hòa ước.
Tất cả các nhà lãnh đạo của các nước thuộc khối
G-7 đã ca ngợi Zelensky về sự sẵn sàng cho một nền hòa bình công chính, tôn trọng
toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Ukraine và bảo vệ khả năng tự vệ của Ukraine
trong tương lai. Phối hợp với các đối tác của chúng tôi, Đức sẵn sàng đạt được
các thỏa thuận để duy trì an ninh của Ukraine như một phần của giải pháp hòa
bình tiềm năng sau chiến tranh. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ không chấp nhận việc
sáp nhập bất hợp pháp lãnh thổ Ukraine, ngụy trang thô thiển bằng các cuộc
trưng cầu dân ý giả mạo. Để chấm dứt cuộc chiến này, Nga phải rút quân.
TỐT CHO KHÍ HẬU, XẤU CHO NGA
Cuộc chiến của Nga không
chỉ làm thống nhất Liên Âu, khối NATO và G-7 để phản đối sự xâm lược; nó cũng
đã xúc tác cho những thay đổi trong chính sách kinh tế và năng lượng sẽ gây tổn
hại cho Nga về lâu dài và thúc đẩy sự chuyển đổi quan trọng sang năng lượng sạch
đã được tiến hành. Ngay sau khi nhậm chức Thủ
tướng Đức vào tháng tháng 12 năm 2021, chúng tôi đã hỏi các cố vấn là liệu
chúng ta có kế hoạch thay thế không, nếu Nga quyết định ngừng cung cấp khí đốt
cho châu Âu. Câu trả lời là không, mặc dù chúng ta đã trở nên phụ thuộc việc
cung cấp khí đốt của Nga một cách nguy hiểm.
Ngay lập tức, chúng tôi bắt đầu chuẩn bị một kịch
bản cho tình huống xấu nhất. Trong những ngày trước cuộc xâm lược toàn diện của
Nga tại Ukraine, Đức đã đình chỉ chứng nhận đường ống Nord Stream 2, nó
được thiết lập để làm tăng đáng kể nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho châu Âu.
Vào tháng hai năm 2022, các kế hoạch đã được đưa ra để nhập khẩu khí đốt tự
nhiên hóa lỏng (LNG) từ thị trường toàn cầu bên ngoài châu Âu, và trong những
tháng tới, các cảng nổi đầu tiên để nhập LNG sẽ đi vào hoạt động trên bờ biển Đức.
Kịch bản tồi tệ nhất nhanh chóng thành hiện thực,
khi Putin quyết định sử dụng năng lượng thành vũ khí bằng cách cắt giảm nguồn
cung cấp cho Đức và các nơi khác còn lại của châu Âu. Nhưng Đức hiện đã hoàn
toàn loại bỏ việc nhập khẩu than của Nga và việc Liên Âu nhập khẩu dầu của Nga
sẽ sớm kết thúc. Chúng tôi đã học được bài học: An ninh của châu Âu phụ thuộc
vào việc đa dạng hóa các nhà cung cấp năng lượng và tuyến đường và đầu tư vào sự
độc lập về năng lượng. Vào tháng Chín, sự phá hoại của các đường ống Nord
Stream đã nhấn mạnh đến thông điệp này.
Để thu hẹp bất kỳ sự thiếu hụt năng lượng tiềm
ẩn nào ở Đức và châu Âu nói chung, chính phủ chúng tôi đang tạm thời đưa các
nhà máy nhiệt điện than trở lại mạng lưới điện và cho phép các nhà máy điện hạt
nhân của Đức hoạt động lâu hơn kế hoạch ban đầu. Chúng tôi cũng đã yêu cầu các
cơ sở tồn trữ khí thuộc sở hữu tư nhân đáp ứng từng bước mức cung ứng lượng tối
thiểu. Hiện nay, cơ sở vật chất của chúng tôi đã hoàn toàn đầy đủ, trong khi
vào thời điểm này năm ngoái, mức độ là thấp một cách bất thường. Đây là cơ sở tốt
để Đức và châu Âu vượt qua mùa đông mà không có tình trạng thiếu khí đốt.
Cuộc chiến của Nga đã
cho chúng ta thấy rằng, việc đạt được những mục tiêu đầy tham vọng này cũng là
cần thiết để bảo vệ tình trạng an ninh và độc lập của chúng ta cũng như của
châu Âu. Việc rời xa các nguồn năng lượng hóa thạch sẽ làm tăng nhu cầu về điện
và hydro xanh, và Đức đang chuẩn bị cho kết quả đó bằng cách tăng tốc ồ ạt việc
chuyển sang các năng lượng tái tạo như năng lượng gió và mặt trời. Mục tiêu của
chúng tôi rất rõ ràng: đến năm 2030, ít nhất 80% lượng điện mà người Đức sử dụng
sẽ được tạo ra bởi năng lượng tái tạo và đến năm 2045, Đức sẽ đạt được mức phát
thải khí với hiệu ứng nhà kính ròng bằng không, hay còn gọi là “tình trạng
trung lập với khí hậu”.
ÁC MỘNG KINH HOÀNG NHẤT CỦA PUTIN
Putin muốn chia châu Âu thành các vùng ảnh hưởng
và chia thế giới thành các khối của cường quốc và nước chư hầu. Thay vào đó, cuộc
chiến của ông chỉ phục vụ để thúc đẩy Liên Âu. Tại Hội đồng châu Âu vào tháng
sáu năm 2022, Liên Âu đã bảo đảm cho Ukraine và Moldova thành một quy chế của
“các quốc gia ứng viên” và tái khẳng định rằng tương lai của Georgia nằm trong
châu Âu. Chúng tôi cũng đồng ý rằng, việc gia nhập Liên Âu của tất cả sáu quốc
gia ở phía tây Balkan cuối cùng phải trở thành hiện thực, một mục tiêu mà cá
nhân chúng tôi cam kết. Đó là lý do tại sao chúng tôi đã làm hồi sinh lại cái gọi
là Tiến trình Berlin cho phía Tây Balkan, nhằm mục đích tăng cường hợp tác
trong khu vực, đưa các quốc gia và người dân đến gần nhau hơn và chuẩn bị cho hội
nhập trong Liên Âu.
Điều quan trọng là phải thừa nhận rằng, việc mở
rộng Liên Âu và thu nhận các thành viên mới sẽ rất khó khăn; không có gì tồi tệ
hơn việc mang lại cho hàng triệu người hy vọng sai lầm. Nhưng con đường đang rộng
mở và mục tiêu rất rõ ràng: một Liên Âu sẽ bao gồm hơn 500 triệu người dân tự
do, đại diện cho thị trường nội bộ lớn nhất trên thế giới, sẽ thiết lập các
tiêu chuẩn toàn cầu về thương mại, tăng trưởng, biến đổi khí hậu và bảo vệ môi
trường và sẽ tổ chức các viện nghiên cứu hàng đầu và các doanh nghiệp sáng tạo,
một gia đình của các nền dân chủ ổn định được hưởng phúc lợi xã hội và cơ
sở hạ tầng công cộng vô song.
Khi Liên Âu tiến tới mục tiêu đó, các đối thủ
của họ sẽ tiếp tục cố gắng thúc đẩy sự chia rẽ giữa các thành viên. Putin chưa
bao giờ chấp nhận Liên Âu là một tác nhân chính trị. Xét cho cùng, Liên Âu, một
liên minh của các quốc gia tự do, có chủ quyền, dân chủ dựa trên tinh thần trọng
pháp là phản đề của chế độ đạo tặc của đế quốc và chuyên chế .
Putin và những người khác sẽ cố gắng biến các
hệ thống dân chủ, cởi mở của chúng ta chống lại chúng ta, thông qua các chiến dịch
thông tin sai lệch và gây ảnh hưởng. Người dân châu Âu có nhiều quan điểm khác
nhau, và các nhà lãnh đạo chính trị châu Âu thảo luận và đôi khi tranh luận về
con đường đúng đắn phía trước, đặc biệt là trong những thách thức địa chính trị
và kinh tế. Nhưng những đặc điểm này của xã hội mở rộng của chúng ta là các
tính năng, không phải sai lầm; chúng là bản chất của việc tạo ra quyết định dân
chủ. Tuy nhiên, mục tiêu của chúng ta hiện nay là xiết chặt hàng ngũ trong các
lĩnh vực quan trọng, mà trong đó sự mất đoàn kết sẽ khiến châu Âu dễ bị tổn
thương hơn trước sự can thiệp của nước ngoài. Điều quan trọng đối với sứ mệnh
đó là sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn giữa Đức và Pháp, hai nước có cùng tầm
nhìn về một Liên Âu mạnh mẽ và có chủ quyền.
Nhìn rộng hơn, Liên Âu phải vượt qua những
xung đột cũ và tìm ra các giải pháp mới. Vấn đề di cư tại châu Âu và chính sách
tài khóa là những trường hợp điển hình. Mọi người sẽ tiếp tục đến châu Âu và
châu Âu cần người nhập cư, vì vậy Liên Âu phải đưa ra một chiến lược nhập cư thực
dụng và phù hợp với các giá trị. Điều này có nghĩa là giảm di cư bất thường và
đồng thời tăng cường các con đường hợp pháp để đến châu Âu, đặc biệt là đối với
những người lao động lành nghề mà thị trường lao động của chúng ta cần. Về
chính sách tài khóa, Liên Âu đã thành lập một quỹ phục hồi và chống trả cũng sẽ
giúp giải quyết những thách thức hiện tại do giá năng lượng cao gây ra. Trong
tiến trình tạo ra quyết định, Liên Âu cũng phải loại bỏ các chiến thuật ngăn chặn
đầy ích kỷ bằng cách loại bỏ khả năng phủ quyết một số biện pháp nhất định của
từng quốc gia. Khi Liên Âu mở rộng và trở thành một tác nhân địa chính trị, việc
ra quyết định nhanh chóng sẽ là chìa khóa thành công. Vì lý do đó, Đức đã đề xuất
lần lượt việc mở rộng việc thực hiện việc quyết định bằng cách bỏ phiếu đa số
trong các lĩnh vực hiện đang thuộc về quy tắc bầu nhất trí, chẳng hạn như chính
sách đối ngoại và thuế của Liên Âu.
Châu Âu cũng phải tiếp tục chịu trách nhiệm lớn
lao hơn về nền an ninh của chính mình và cần phối hợp và tích hợp các phương
sách để xây dựng khả năng quốc phòng. Ví dụ như quân đội của các quốc gia thành
viên Liên Âu vận hành quá nhiều hệ thống vũ khí khác nhau, điều này tạo ra sự
kém hiệu quả về thực tế và kinh tế. Để giải quyết những vấn đề này, Liên Âu phải
thay đổi các thủ tục hành chánh trong nội bộ, điều này sẽ đòi hỏi các quyết định
chính trị can đảm; các quốc gia thành viên Liên Âu, bao gồm cả Đức, sẽ phải
thay đổi các chính sách và quy định quốc gia về việc xuất khẩu các hệ thống
quân sự được sản xuất chung.
Một lĩnh vực mà châu Âu cần khẩn trương đạt được
tiến bộ là quốc phòng trong lĩnh vực không quân và không gian. Đó là lý do tại
sao Đức sẽ tăng cường phòng không trong những năm tới, như một phần của khuôn
khổ của khối NATO, bằng cách tiếp nhận các khả năng bổ sung. Chúng tôi đã
mở sáng kiến này cho các nước láng giềng châu Âu và kết quả là Sáng kiến Lá chắn
trong Bầu trời Châu Âu, mà 14 quốc gia châu Âu khác đã tham gia vào tháng mười
vừa qua. Phòng không phối hợp ở châu Âu sẽ hiệu quả và tiết kiệm chi phí hơn so
với việc tất cả chúng ta đơn phương hoạt động, và nó đưa ra một ví dụ nổi bật về
ý nghĩa của việc củng cố trụ cột châu Âu trong phạm vi của khối NATO.
Khối NATO là bảo đảm cuối cùng cho nền an ninh
của Châu Âu-Đại Tây Dương, và sức mạnh của nó sẽ chỉ tăng lên khi có thêm hai nền
dân chủ thịnh vượng là Phần Lan và Thụy Điển làm thành viên. Nhưng khối NATO
cũng trở nên mạnh mẽ hơn khi các thành viên châu Âu thực hiện các biện pháp độc
lập để hướng tới sự tương thích lớn hơn giữa các cấu trúc quốc phòng của họ nằm
trong khuôn khổ của Liên Âu.
TRUNG QUỐC VÀ CÁC THÁCH THỨC KHÁC
Cuộc chiến tranh xâm lược của Nga có thể đã
kích hoạt bước ngoặt của thời đại, nhưng sự thay đổi kiến tạo diễn
ra sâu sắc hơn. Lịch sử đã không kết thúc với Chiến tranh Lạnh, như một số người
dự đoán. Tuy nhiên, lịch sử cũng không tự tái diễn. Nhiều người cho rằng, chúng
ta đang trên bờ vực của một kỷ nguyên lưỡng cực trong trật tự quốc tế. Họ nhìn
thấy một cuộc chiến tranh lạnh mới đang đến, gần ló dạng, một cuộc chiến sẽ khiến
Hoa Kỳ chống lại Trung Quốc.
Chúng tôi không đồng quan điểm này. Thay
vào đó, chúng tôi tin rằng, những gì chúng ta đang chứng kiến là sự kết thúc của
một giai đoạn đặc biệt của toàn cầu hóa, một sự thay đổi lịch sử được đẩy
nhanh, nhưng không hoàn toàn là kết quả của những cú sốc bên ngoài như đại dịch
COVID-19 và cuộc chiến của Nga ở Ukraine. Trong giai đoạn đặc biệt đó, Bắc Mỹ
và Châu Âu đã trải qua 30 năm tăng trưởng ổn định, tỷ lệ việc làm cao và lạm
phát thấp, và Hoa Kỳ trở thành cường quốc quyết định của thế giới, một vai trò
mà Hoa Kỳ sẽ còn nắm giữ trong thế kỷ XXI.
Nhưng trong giai đoạn của toàn cầu hóa sau Chiến
tranh Lạnh, Trung Quốc cũng trở thành một tác nhân trên toàn cầu, như Trung Quốc
đã từng đóng trong các giai đoạn dài trước đó của lịch sử thế giới. Sự trỗi dậy
của Trung Quốc không biện minh cho việc cô lập của Bắc Kinh hay cũng không hạn
chế cho sự hợp tác. Nhưng sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc cũng không biện
minh cho những yêu sách về quyền bá chủ ở châu Á và các nơi khác. Không
có quốc gia nào là sân sau của bất kỳ quốc gia nào khác, và điều đó áp dụng cho
châu Âu cũng như đối với châu Á và mọi khu vực khác. Trong chuyến thăm Bắc Kinh
gần đây, chúng tôi đã bày tỏ sự ủng hộ vững chắc đối với trật tự quốc tế dựa
trên luật lệ, như được quy định trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc, cũng như cho
một nền thương mại cởi mở và công bằng. Phối hợp với các đối tác châu Âu, Đức sẽ
tiếp tục yêu cầu một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp châu Âu và Trung
Quốc. Trung Quốc thực hiện quá ít trong vấn đề này và đã có một bước ngoặt đáng
chú ý hướng tới tình trạng cô lập và tránh xa sự cởi mở.
Tại Bắc Kinh, chúng tôi cũng nêu lên những lo
ngại về tình trạng bất an ngày càng gia tăng ở Biển Đông và eo biển Đài Loan, đồng
thời đặt vấn đề về phương sách của Trung Quốc đối với nhân quyền và các
quyền tự do cá nhân. Tôn trọng các quyền và tự do cơ bản không bao giờ có thể
là “vấn đề nội bộ” đối với từng quốc gia vì mọi quốc gia thành viên Liên Hiệp
Quốc đều tuyên thệ sẽ duy trì chúng.
Trong khi đó, khi Trung Quốc và các quốc gia Bắc
Mỹ và Châu Âu thích nghi với thực tế đang thay đổi của giai đoạn mới của toàn cầu
hóa, nhiều quốc gia ở Châu Phi, Châu Á, Caribe và Châu Mỹ La tinh đã tạo điều
kiện cho sự tăng trưởng vượt bậc trong quá khứ bằng cách sản xuất hàng hóa và
nguyên liệu thô với chi phí thấp, giờ đây họ đang dần trở nên thịnh vượng hơn
và có nhu cầu riêng về tài nguyên, hàng hóa, dịch vụ. Các khu vực này có quyền
nắm bắt các cơ hội mà toàn cầu hóa mang lại và đòi hỏi một vai trò mạnh mẽ hơn
trong các vấn đề toàn cầu phù hợp với trọng lượng kinh tế và dân số ngày càng
tăng của họ. Điều đó không gây ra mối đe dọa nào cho người dân châu Âu hoặc Bắc
Mỹ. Ngược lại, chúng ta nên khuyến khích sự tham gia và hội nhập nhiều hơn của
các khu vực này vào trật tự quốc tế. Đây là cách tốt nhất để giữ cho chủ nghĩa
đa phương tồn tại trong một thế giới đa cực.
Đó là lý do tại sao Đức và Liên Âu đang đầu tư
vào các mối quan hệ đối tác mới và mở rộng các quan hệ đối tác hiện có với nhiều
quốc gia ở Châu Phi, Châu Á, Caribe và Châu Mỹ La tinh. Nhiều người trong số họ
có chung một đặc điểm cơ bản với chúng ta: họ cũng là những nền dân chủ. Điểm
chung này đóng một vai trò quan trọng, không phải vì chúng ta nhắm đến việc đưa
các nền dân chủ chống lại các quốc gia độc tài, điều này sẽ chỉ góp phần vào sự
phân đôi toàn cầu mới, mà bởi vì việc chia sẻ các giá trị và hệ thống dân chủ sẽ
giúp chúng ta xác định các ưu tiên chung và đạt được các mục tiêu chung trong
thực tế đa cực mới của thế kỷ XXI. Tất cả chúng ta có thể đã trở thành nhà tư bản
(ngoại trừ có thể là Bắc Triều Tiên và một số ít các quốc gia khác), để diễn giải
một lập luận mà nhà kinh tế Branko Milanovic đã đưa ra vài năm trước. Nhưng nó
tạo ra một sự khác biệt rất lớn liệu là chủ nghĩa tư bản được tổ chức theo cách
tự do, dân chủ hay theo đường lối độc đoán.
Chúng ta hãy lấy phản ứng trong toàn cầu đối với
đại dịch COVID-19 làm thí dụ. Trong thời kỳ đầu đại dịch, một số người lập luận
rằng, các quốc gia độc tài sẽ tỏ ra thành thạo hơn trong việc xử lý khủng hoảng,
vì họ có thể lập kế hoạch tốt hơn cho dài hạn và có thể đưa ra các quyết định
khắc nghiệt nhanh hơn. Nhưng hồ sơ theo dõi đại dịch của các quốc gia độc tài hầu
như không ủng hộ quan điểm đó. Trong khi đó, vắc-xin COVID-19 và phương pháp điều
trị dược phẩm hiệu quả nhất đều được phát triển trong các nền dân chủ tự do.
Hơn nữa, không giống như các quốc gia độc tài, các nền dân chủ có khả năng tự sửa
chữa khi người dân bày tỏ quan điểm của họ một cách tự do và lựa chọn các nhà
lãnh đạo chính trị của họ. Việc tranh luận và đặt vấn đề liên tục trong xã hội,
quốc hội và phương tiện truyền thông tự do của chúng ta đôi khi có thể cảm thấy
mệt mỏi. Nhưng đó là điều làm cho hệ thống của chúng ta phòng chống kiên cường
hơn về lâu dài
Tự do, bình đẳng, thượng tôn pháp luật và phẩm
giá của mỗi người là những giá trị không dành riêng cho những gì được hiểu theo
truyền thống là của phương Tây. Thay vào đó, chúng được chia sẻ bởi các người
dân và chính phủ trên khắp thế giới, và trong phần mở đầu của Hiến chương Liên
Hiệp Quốc tái khẳng định chúng là các quyền cơ bản của con người. Nhưng các chế
độ chuyên quyền và độc tài thường thách thức hoặc phủ nhận các quyền và nguyên
tắc này. Để bảo vệ cho các quyền này, các quốc gia thuộc Liên Âu, bao gồm cả Đức,
phải hợp tác chặt chẽ hơn với các nền dân chủ bên ngoài phương Tây, như được định
nghĩa theo truyền thống. Trong quá khứ, chúng tôi đã có mục đích đối xử bình đẳng
với các quốc gia Châu Á, Châu Phi, Caribe và Châu Mỹ La tinh. Nhưng việc thường
xảy ra là lời nói của chúng ta đã không được hỗ trợ bởi hành động. Điều này phải
thay đổi. Trong nhiệm kỳ làm chủ tịch của khối G-7 của Đức, nhóm đã phối hợp chặt
chẽ chương trình nghị sự của mình với Indonesia, quốc gia giữ chức chủ tịch khối
G-20. Chúng tôi cũng đã tham gia vào các cuộc thảo luận của chúng tôi ở
Senegal, nơi mà họ giữ chức chủ tịch của Liên minh châu Phi; Argentina, giữ chức
chủ tịch của Cộng đồng các quốc gia Mỹ Latinh và Caribe; đối tác của khối G-20
của chúng tôi là Nam Phi; và Ấn Độ, quốc gia sẽ giữ chức chủ tịch khối G-20 vào
năm tới.
Cuối cùng, trong một thế giới đa cực, đối thoại
và hợp tác phải vượt ra ngoài vùng dân chủ thoải mái. Chiến lược An ninh Quốc
gia mới của Hoa Kỳ thừa nhận đúng đắn sự cần thiết phải tham gia với “các quốc
gia không chấp nhận các thể chế dân chủ nhưng vẫn phụ thuộc và hỗ trợ một hệ thống
quốc tế dựa trên luật lệ”. Các nền dân chủ trên thế giới sẽ cần phải làm việc với
các quốc gia này để bảo vệ và duy trì một trật tự toàn cầu ràng buộc quyền lực
với các quy tắc và đối đầu với các hành động xét lại như cuộc chiến tranh xâm
lược của Nga. Nỗ lực này sẽ đòi hỏi tinh thần thực dụng và một mức độ khiêm tốn.
Hành trình hướng tới tự do dân chủ mà chúng ta
được hưởng ngày nay đầy những thất bại và sai lầm. Tuy nhiên, một số quyền và
nguyên tắc đã được thiết lập và chấp nhận từ nhiều thế kỷ trước. Habeas corpus,
sự bảo vệ khỏi bị giam giữ tùy tiện, là một trong những quyền cơ bản như vậy,
và lần đầu tiên được công nhận không phải bởi một chính phủ dân chủ mà bởi chế
độ quân chủ tuyệt đối của Hoàng đế Charles II của Anh. Điều quan trọng
không kém là nguyên tắc cơ bản mà không quốc gia nào có thể thực hiện bằng vũ lực
thuộc về nước láng giềng. Tất cả các quốc gia yêu cầu phải tôn trọng các quyền
và nguyên tắc cơ bản này, bất kể hệ thống nội chính của họ là gì.
Các giai đoạn hòa bình và thịnh vượng tương đối
trong lịch sử loài người, chẳng hạn như thời kỳ mà hầu hết thế giới đã trải qua
trong thời kỳ đầu sau Chiến tranh Lạnh, không cần phải là những cuộc xen kẽ hiếm
hoi hoặc chỉ là những sai lệch so với một chuẩn mực lịch sử trong đó bạo lực ra
lệnh cho các quy tắc. Và mặc dù chúng ta không thể quay ngược kim đồng hồ, chúng
ta vẫn có thể quay ngược lại làn sóng xâm lược và chủ nghĩa đế quốc. Thế giới
đa cực, phức tạp ngày nay khiến cho nhiệm vụ này trở nên khó khăn hơn. Để thực
hiện việc này, Đức và các đối tác trong khối Liên Âu, Hoa Kỳ, G-7 và NATO phải
bảo vệ các xã hội cởi mở của chúng ta, đứng lên bảo vệ cho các giá trị dân chủ
và củng cố các liên minh và quan hệ đối tác của chúng ta. Nhưng chúng ta cũng
phải tránh sự cám dỗ để một lần nữa chia thế giới thành các khối. Điều này có
nghĩa là thực hiện mọi nỗ lực để xây dựng các mối quan hệ đối tác mới, một cách
thực dụng và không có những kẻ mù quáng về ý thức hệ. Trong thế giới kết nối mật
thiết ngày nay, mục tiêu thúc đẩy hòa bình, thịnh vượng và tự do của con người
đòi hỏi một tư duy khác và các công cụ khác nhau. Cuối cùng, phát triển tư duy
và những công cụ đó là tất cả những gì mà bước ngoặt theo thời đại đang
hướng tới.
No comments:
Post a Comment