Thử
xác lập “quyền sở hữu” cái ấn “Hoàng đế chi bảo” của Bảo Đại
Trương
Nhân Tuấn
10/11/2022
https://baotiengdan.com/2022/11/10/thu-xac-lap-quyen-so-huu-cai-an-hoang-de-chi-bao-cua-bao-dai/
TS Cù Huy Hà Vũ lại có bài đăng trên các trang
báo hải ngoại, đại khái cho rằng Nhà đấu giá Millon đã “gian dối về tình trạng
sở hữu chiếc ấn”. Bài viết có tựa đề: “Nhà đấu giá Millon gian dối về tình trạng sở hữu ấn “Hoàng đế
Chi bảo”.
Trong bài, ông Vũ chứng minh rằng “chủ sở hữu
báu vật biểu tượng vương quyền của Nhà Nguyễn là Nhà nước Việt Nam, chứ không
phải những người thừa kế Monique Baudot”.
Ông Vũ trưng bằng chứng gồm sử liệu cùng các
hình ảnh buổi lễ chuyển giao ấn và kiếm từ Bảo Đại sang đại diện Việt Minh là
Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận.
Ông Vũ viết như sau: “Ngày 25/8/1945, Hoàng
đế Bảo Đại công bố Chiếu thoái vị, bày tỏ ‘quyết tâm thoái vị, nhường quyền
lãnh đạo đất nước cho Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Chính phủ lâm thời
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Cù Huy Hà Vũ)’.
Tiếp đó, chiều ngày 29/8/1945 tại Điện Cần Chánh nơi
quân chủ Nhà Nguyễn thiết triều, hai đại diện của Chính phủ Lâm thời Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa là Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Trần Huy Liệu và Bộ trưởng không
Bộ Cù Huy Cận (thân phụ tôi) đã thay mặt dân tộc Việt Nam và Chủ tịch Chính phủ
Hồ Chí Minh yêu cầu Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, giao ấn và kiếm tượng trưng cho vương
quyền cho chính quyền cách mạng. Chiều hôm sau, 30/8, tại lễ thoái vị tổ chức ở
lầu Ngũ Phụng trên Ngọ Môn, hoàng thành Huế, Hoàng đế Bảo Đại đã trao ấn “Hoàng
Đé Chi Bảo” cùng kiếm “Khải Định Niên Chế” (啟 定 年 製) cho hai vị đại diện nền Cộng
hòa đầu tiên của Việt Nam.
Lễ thoái vị đã được chính Cựu Hoàng Bảo Đại thuật lại
một cách khá chi tiết trong hồi ký ‘Con rồng An Nam’ do Plon xuất bản năm 1980“.
Dựa vào các sự kiện ông Vũ kết luận: “Như
vậy, kể từ ngày 30/8/1945, Nhà nước (quốc gia) Việt Nam, được đại diện bởi
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và các chính phủ kế nhiệm,
trong đó có Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là chủ sở hữu hai báu
vật biểu tượng triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam”.
Ông Vũ nhấn mạnh về “quyền sở hữu” và “người
chủ sở hữu” mà không nói về biểu tượng “quyền lực” hay “chủ quyền” của đế quốc
thể hiện qua cái ấn.
Từ khi có “luật”, nếu tính sơ lược từ đầu Thế
kỷ 20, “quyền sở hữu” của một pháp nhân luôn được khẳng định bằng luật lệ. Ông
Vũ khẳng định quyền sở hữu của VNDCCH (và sau này là CHXHCNVN) bằng “sử quan”.
Giả sử rằng phương pháp xác lập quyền sở hữu bằng
“sử quan” của ông Vũ có giá trị pháp lý, tức là VNDCCH có “quyền sở hữu” trên
cái ấn, theo tôi, quyền sở hữu này đã bị mất đi, vì nhiều lý do.
1/ Thời kỳ chưa có luật thì “tập quán” cũng là luật
(tập quán chưa được pháp điển hóa)
Tập quán “đoạt ấn xưng vương” ở các quốc gia ảnh
hưởng văn minh Trung Hoa, như VN, mà tôi đã viết sơ lược trong bài hôm
qua (*). Cái ấn quan trọng hơn hết là “quốc ấn”, tức là cái ấn thể
hiện quyền lực đế quốc.
Bên Trung Hoa có cái ấn tên gọi “Truyền quốc
ngọc tỷ”, là cái ấn lưu truyền từ thời nhà Tần qua các triều đại Hán, Đường, Tống…
(chỉ nhắc các triều đại tiêu biểu) cho đến triều cuối cùng là nhà Thanh, trải
dài trên 2000 năm. Ngoại trừ hậu duệ nhà Tần trao ấn cho nhà Hán một cách hòa
bình, tất cả những lần thay đổi triều đại khác đều xảy ra trong tình trạng chiến
tranh. Phe nào mạnh, đoạt được ấn rồi xưng đế. Nếu sử dụng ngôn từ của ông Vũ
thì cái ấn tên gọi “Truyền quốc ngọc tỉ” thuộc quyền “sở hữu” của ông vua mới.
Vấn đề là ông này “làm chủ” cái ấn, khi và chỉ khi, ông vua này còn khả năng bảo
vệ và giữ lấy nó.
Nếu áp dụng tập quán này vào giai đoạn
1945-1954 ở Việt Nam, tháng Tám 1945 Bảo Đại thoái vị, giao ấn kiếm cho đại diện
Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận. Ấn này từ lúc đó thuộc “quyền sở
hữu” của Việt Minh, nói theo kiểu ông Vũ.
Thực ra ấn và kiếm là biểu tượng quyền lực của
ông vua Bảo Đại. Bảo Đại có thể chỉ ra ra tuyên bố thoái vị, nhường “ngôi” cho
Việt Minh mà không cần trao ấn kiếm.
Đến khi Pháp vào lại VN (1946) thì Việt Minh
“tiêu thổ kháng chiến”. Phe này chôn giấu ấn kiếm rồi rút vào rừng núi. Pháp trở
lại VN thiết lập lại chính quyền bảo hộ. Hai bên Việt Minh và Pháp ở trong “tình
trạng chiến tranh”.
Năm 1952, Pháp tìm ra ấn và kiếm. Nếu nói
theo tập quán thì Pháp đã có quyền hành, nay “đoạt” được ấn.
Hiển nhiên “quyền sở hữu” cái ấn của VNDCCH bị
mất đi và quyền này chuyển sang cho chính phủ bảo hộ Pháp.
Nếu nói theo “luật” của nhà nước bảo hộ thì ấn
và kiếm là “bảo vật chôn giấu được khám phá”. Nếu chủ bảo vật không khiếu nại
thì bảo vật ½ thuộc về người khám phá, ½ thuộc sở hữu nhà nước.
Phe Việt Minh “im lặng” một thời gian dài thì
đã mất tố quyền, tức không còn quyền để khiếu nại nữa. Trường hợp này, VNDCCH mất
“quyền sở hữu” do “mặc nhiên từ bỏ”.
Theo tôi, Pháp áp dụng “luật về chiến tranh”,
theo Công ước La Haye 1907, để trả ấn lại cho Bảo Đại. Chuyện này sẽ nói bên dưới.
Lập luận kiểu ông Vũ, Bảo Đại đã giao ấn cho
Việt Minh rồi thì cái ấn thuộc sở hữu vĩnh viễn của Việt Minh. Thì cái ấn tên gọi
“Truyền quốc ngọc tỷ” của TQ phải thuộc sở hữu vĩnh viễn của hậu duệ nhà Hán. Lập
luận này không phù hợp với tập quán “đoạt ấn xưng đế” của văn hóa văn minh đông
phương.
2/ Số phận cái ấn chiếu theo luật chiến tranh (Công
ước La Haye 18-10-1907)
Điều 53 luật này cho phép bên chiến thắng tịch
thu tất cả văn kiện, sổ sách, tiền bạc, bảo vật quí giá… của quốc gia chiến bại.
Nếu chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh
(1945-1954) là chiến tranh giữa “hai quốc gia” thì cái ấn là “chiến lợi phẩm”
mà Pháp đã thắng được trong cuộc chiến.
Trường hợp này, “quyền sở hữu” cái ấn của
VNDCCH đã bị Pháp “chiếm đoạt” bằng vũ lực, tương tự nhà cửa ruộng đất, của cải…
của “ngụy dân” VNCH sau 1975.
3/ Số phận cái ấn theo Qui chế LHQ về Chiến tranh
(1948)
Khi cuộc chiến 1945-1954 giữa Pháp và VM là
“chiến tranh giải thực”, thì cuộc chiến này được xếp vào mục “nội chiến”.
Luật về chiến tranh của LHQ có dẫn vụ án xử
năm 1985 ở Do Thái. Theo đó tất cả những đồ vật quí giá có mục tiêu phục vụ cho
chiến cuộc, nếu một bên thu được trên trận địa, các đồ vật đó trở thành “chiến
lợi phẩm – butin de guere”.
Cái ấn và cây kiếm, biểu tượng quyền lực quốc
gia, là vật có giá trị thiêng liêng của một bên tham chiến. Hai bảo vật này đã
được phe Việt Minh sử dụng nhằm mục tiêu chính trị, như hô hào dân chúng đốt
phá nhà cửa, phá hoại đường xá (tiêu thổ kháng chiến) để chống Pháp. Hiển nhiên
ấn và kiếm đã được sử dụng ở các mục tiêu phục vụ cho chiến cuộc.
Cái ấn, vì vậy, khi lọt vào tay Pháp, trong
lúc chiến tranh. Ấn này trở thành “chiến lợi phẩm”.
Trường hợp này “quyền sở hữu” cái ấn của
VNDCCH bị Pháp “tịch thâu”, vì thời điểm đó họ thua trận.
4/ Xét số phận cái ấn dưới ánh sáng công pháp quốc
tế
Buổi lễ “thoái vị” của Bảo Đại giao chủ quyền
đế quốc Đại Nam cho Việt Minh ngày 30 tháng Tám 1945 là không có giá trị về mặt
pháp lý. Bởi vì chủ quyền đế quốc Đại Nam lúc đó do phe Đồng minh nắm giữ. Bảo
Đại không thể giao cho Việt Minh cái mà Bảo Đại không có.
Chuyện này nhiều lần tôi đã nói. Khi Nhật đầu
hàng (18-8-1945) Đồng minh rồi, đã nhìn nhận các yêu sách của phe chiến thắng rồi,
thì “chủ quyền” của VN sẽ do phe Đồng minh quyết định. Bảo Đại không có thẩm
quyền chi đến đất nước VN hết cả.
Theo quyết định của Đồng minh, Trung Hoa vào
VN (bắc vĩ tuyến 16) để giải giới quân Nhật. Phía nam là quân Anh (và Pháp). Đến năm 1946 cả Anh và Trung Hoa
cùng đồng thuận giao chủ quyền VN lại cho Pháp.
Chỉ đến khi thắng Pháp trận Điện Biên Phủ, ép
Pháp ký Hiệp định Genève 1954, VNDCCH mới được chính thức thành hình và được
nhìn nhận.
Lãnh thổ và quyền lực của VNDCCH có là do
“chinh phục” chớ không do kế thừa.
Cho đến khi đất nước chia đôi, VNDCCH chưa bao
giờ chinh phục được cái ấn và kiếm.
5/ Hai bảo vật ấn và kiếm được Pháp giao lại cho Bảo
Đại (1952)
Vấn đề là Bảo Đại đã “thoái vị”, dầu trên danh
nghĩa, do đó Bảo Đại không bao giờ sử dụng ấn này như một biểu hiện của “quyền
lực quốc gia” nữa.
Chế độ quân chủ chấm dứt và nền cộng hòa được
thiết lập. Cái ấn trở thành một thứ “cổ vật” mà chủ nhân của nó là Bảo Đại (và
những người kế thừa chính thức được pháp luật nhìn nhận).
_______
(*) Đôi điều góp ý với LS Cù Huy Hà Vũ về cái ấn
“Hoàng đế chi bảo” của vua Bảo Đại
Cách đây vài hôm tôi có vài ý kiến viết trên
facebook cá nhân về bài viết trên BBC của luật sư Cù Huy Hà Vũ. Bài có tựa đề
“Việt Nam nên chính thức đòi Pháp hoàn trả ấn và kiếm Triều Nguyễn”.
Ý kiến của tôi là: 1/ Pháp không có “quyền”
truất hữu quyền sở hữu của tư nhân (đại diện là Nhà đấu giá Millon) để “trả”
cái ấn lại cho VN. 2/ VN không có tư cách, cũng không có thẩm quyền gì để “đòi
hỏi” Pháp về cái ấn này hết cả. Bởi vì VN không có đủ giấy tờ chứng minh quyền
sở hữu (của VN đối với cái ấn).
Theo ý kiến của cá nhân tôi, Chính phủ Pháp có
thể trích một khoản tiền viện trợ hàng năm cho VN (nếu có viện trợ) để mua cái ấn
rồi tặng cho nhân dân VN.
Theo
tôi, VN nên nghe theo ý kiến của các học giả VN thương lượng với nhà đấu giá
Millon để mua lại cái ấn.
Trên VOA sáng nay lại thấy có bài phỏng vấn luật sư Cù Huy Hà Vũ về cái ấn “Hoàng đế chi bảo”.
Ông Vũ cho rằng: “Chính phủ Việt Nam nên tiến hành khởi kiện bất cứ ai chiếm
hữu chiếc ấn vàng của Vua Minh Mạng ngay lập tức vì quyền sở hữu chiếc ấn được
xác lập thuộc về nhà nước Việt Nam và việc thương lượng để mua lại ‘là hành động
dại dột’.“
Ý của LS Vũ cho rằng những người chủ trương
thương lượng và mua lại cái ấn (mà tôi là một) là “dại dột”.
Theo tôi ông Vũ cần xem lại nhiều thứ. Một là
chuyện về cách “bán đấu giá cổ vật” của Tây phương. Hai là chuyện về ý nghĩa của
cái ấn trong văn minh Trung Hoa. Ba là luật lệ kim thời về quyền sở hữu.
1/ Nếu có theo dõi chuyện buôn bán đồ cổ Tây phương, ta thấy rằng đã rất
nhiều lần những “ngọc tỷ” của các hoàng đế Trung Hoa, khá tương đồng với cái ấn
của Bảo Đại, đã được đưa lên sàn bán đấu giá. Thí dụ gần đây nhứt, ngày 6 tháng
6 năm 2022, chiếc “ngọc tỷ” của vua Càn long được chốt với giá 2.213.000 euros. Thí dụ khác, tháng 10 năm 2007, chiếc ấn của
vua Khang hi được bán với giá 4,7 triệu euros. Một chiếc ấn khác của nhà Thanh được
bán tại Toulouse (Pháp) với giá là 980.000 euros…
Tại sao nhà nước CSTQ đã không “đòi Pháp trả”
những chiếc ấn này lại cho TQ?
Ta cũng thấy bảo tàng viện các quốc gia Anh,
Pháp… có rất nhiều bảo vật chiếm được ở nước ngoài.
Lập luận kiểu ông Vũ thì bức tranh Mona Lisa của
Leonardo da Vinci (cùng vô số bảo vật khác) trưng bày ở bảo tàng Louvre bên
Pháp phải trả lại cho Ý. Ngay cả những viên ngọc trên vương miện của cố nữ
hoàng Anh cũng phải trả lại cho chủ cũ là các thuộc địa v.v…
Thưa với ông Vũ, rằng cái gì cũng có “luật” của
cái đó.
Ngày xưa việc chiếm hữu (tái sản, quốc gia,
lãnh thổ v.v…) bằng vũ lực, bằng chinh phục, (VN mình gọi là “mang gươm mở
cõi”). Luật chiến tranh thời xưa “mạnh được yếu thua”. Chiến tranh là phương
cách chuyển đổi sở hữu từ đế quốc này sang đế quốc khác. Không cách gì trả lại
được.
Sau 1945 luật lệ về chiến tranh được thiết lập.
Không còn các vụ chinh phục hay mở rộng thuộc địa thuộc địa bằng vũ lực nữa.
Ngoại lệ, các báu vật của tư nhân bị quân xâm
lược cướp trong chiến tranh. Thí dụ nạn nhân người Do Thái bị Đức quốc xã giết
và chiếm đoạt tài sản. Các tài sản này phải trả lại cho chũ cũ. Thí dụ khác,
dân chúng thuộc VNCH cũ bị nhà nước CSVN chiếm đoạt nhà cửa, tài sản, lý ra
cũng phải được nhà nước trả lại hay đền bồi.
2/ Về ý nghĩa của cái ấn. Văn minh VN vốn ảnh hưởng văn minh TQ. Cái ấn vừa
là biểu tượng cho quyền lực, vừa thể hiện tính chính danh cho người sở hữu cái ấn.
Về “biểu tượng cho quyền lực”. Cái ấn đầu tiên
có thể nói là cái ấn tên gọi “truyền quốc tỷ” từ thời Tần Thủy Hoàng. Ấn “truyền
quốc tỷ – 傳國璽”, có nghĩa là cái ấn này đại diện cho sơn hà xã tắc (thiên hạ) của
Trung Hoa.
“Ngọc tỷ truyền quốc” được hậu duệ nhà Tần
truyền lại cho Lưu Bang. Lưu Bang lập nên nhà Hán. Ấn này lưu truyền (vài) ngàn
năm, từ triều đại này qua triều đại khác, đến thời nhà Thanh. Hoàng đế Phổ nghi
là vị vua cuối cùng giữ ấn.
Ngoại lệ, Lưu bang nhận được ấn “truyền quốc”
từ tay vua Tần một cách hòa bình. Tất cả các đời hoàng đế khác, từ chiến quốc
hay tam quốc, đều phải đổ máu chinh phục mới có được ấn. Suốt lịch sử TQ nhiều
ngàn năm, ngoại trừ đời nhà Minh là không có quốc tỷ (vì bị thất lạc) ta chỉ thấy
có một cái ấn duy nhứt tượng trưng cho cho sơn hà xã tắc TQ, đó là cái ấn tên gọi
là “truyền quốc tỷ”, do vua Tần sai người tạc ra từ một khối ngọc quí.
Việt Nam có ấn truyền quốc tên gọi “Đại Nam thụ
thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ”, làm dưới thời vua Thiệu Trị. (Ấn và tỷ có nghĩa
tương đồng với nhau. Ấn có thể làm bằng vàng, bằng đồng. Tỷ là ấn làm bằng ngọc).
Về tính chính danh, ta có thể đọc nhiều thí dụ
trong lịch sử Trung Hoa để có khái niệm về việc này.
Cụ thể là vụ Lưu Bang bị Hạng Vũ đánh tơi bời
hoa lá. Họ Lưu đem tàn quân chạy qua bên Hàn Tín lánh thân. Vấn đề là Lưu Bang
thừa cơ chôm “tướng ấn” của Hàn Tín. Họ Lưu dùng ấn này ra lịnh thay thế tất cả
tướng lãnh của Hàn Tín bằng tướng lãnh của phe mình. Rốt cục, Lưu Bang cướp được
toàn bộ quân đội của Hàn Tín một cách êm thắm. Cái ấn vì vậy đem lại cái “chính
danh” cho người cầm ấn.
Ông Vũ cho rằng: ‘Kể từ khi Bảo Đại giao ấn và
kiếm thì chúng vĩnh viễn đã thuộc quyền sở hữu của nền Cộng hòa, mà đại diện là
chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa’.
Nhận định này hoàn toàn sai. VN hay ở bất cứ
quốc gia nào vào thời kỳ loạn lạc (trước 1945), thế lực nào mạnh thì thế lực đó
“đoạt ấn” rồi thống lĩnh đất nước. Nhưng giữ được ấn lâu dài hay không là chuyện
khác.
Cuối tháng Tám năm 1945, Bảo Đại bị áp lực phải
giao ấn kiếm cho Việt Minh. Vụ này giống như hậu duệ nhà Tần là Tử Anh, phải
dâng “Truyền quốc tỷ” cho Lưu Bang để được toàn mạng.
Giả sử rằng, ấn của Bảo Đại giao cho Việt Minh
có giá trị tương tự “truyền quốc tỉ” như bên Trung Hoa. Thì ấn này cũng không hề
thuộc sở hữu của VNDCCH như ông Vũ khẳng định.
Lịch sử VN khoảng các năm 1945 đến 1954 là một
giai đoạn “tranh giành quyền lực” đẫm máu giữa nhiều thế lực, kiểu thời Chiến
Quốc hay Tam Quốc bên Tàu. Tranh đoạt quyền lực là tranh đoạt ấn. Hôm nay ấn có
thể lọt vô tay phe này, mai ấn có thể mất vào tay phe khác.
Đọc truyện Tam Quốc ta thấy Tào Tháo có lần đoạt
được ấn. Ông này chỉ dám xưng “vương” chớ không dám xưng “đế”, vì sợ phê bình
“tiếm danh”, bị hai bên Đông Ngô và Tây Thục đánh hội đồng.
Thực tế ở VN đã xảy ra đúng như vậy. Sau khi
Pháp vào lại VN (1946) lực lượng Việt Minh phải “tiêu thổ kháng chiến”, ấn và
kiếm đem chôn dấu. Nhưng (chắc có điềm chỉ) chiếc ấn này bị Pháp khám phá ra.
Theo qui luật chiến tranh thời đó, ấn thuộc về
phe chiến thắng. Pháp chiếm được ấn, vì vậy ấn thuộc sở hữu của Pháp. Pháp quyết
định trả ấn lại cho Bảo Đại.
Hành vi trả ấn hoàn toàn phù hợp tập quán của
VN cũng như công pháp quốc tế.
Nếu trên cái ấn có ghi tên “VNDCCH quốc ấn”…
thì có lẽ ấn này bị Pháp tịch thu làm “chiến lợi phẩm” và trưng bày ở một viện
bảo tàng nào đó bên Pháp. Bởi vì Pháp và Việt Minh (sau đó là VNDCCH) là địch
thủ của Pháp. Còn nếu ấn có ghi “Việt Nam quốc ấn” hay “Đại Nam thụ thiên
vĩnh mệnh truyền quốc tỷ” thì ấn này Pháp phải trả lại cho nước VN.
Về pháp luật kim thời: Ông Vũ vịn vào luật Dân
sự của Pháp: “Luật Dân sự của Pháp ở điều 2276 có quy định rất rõ ràng rằng
bất cứ ai bị mất hoặc bị trộm thứ gì đó thì đều có thể đòi lại được”.
Sau đó ông Vũ “phán” rằng, “cả Bảo Đại, người
thừa kế của ông là bà Monique Baudot, người vợ sau cùng của ông, và người thừa
kế của bà Baudot đều ‘chiếm hữu phi pháp chiếc ấn’ mà ông gọi theo thuật ngữ là
‘chiếm hữu không ngay tình’ (possession de mauvaise foi)”.
Xin thưa với ông Vũ, rằng Dân luật Pháp (cũng
như bộ Dân luật VN) đều có giới hạn thẩm quyền. Thứ nhứt về không gian và thứ
hai về thời gian. Về không gian, luật dân sự chỉ áp dụng trong lãnh thổ quốc
gia mà thôi. Luật của Pháp không vượt ra khỏi không gian nước Pháp. Và thứ hai,
thời hiệu của điều 2276 là ba năm.
Luật này không thể áp dụng cho cái ấn Bảo Đại.
Cái ấn “hoàng đế chi bảo”, như cái tên của cái
ấn, là thuộc về cá nhân ông vua. Như trên có viết, các “ngọc tỉ” của (cá nhân)
các vua TQ như vua Càn Long, vua Khang Hi… bán đấu giá hà rầm trên sàn nước ngoài.
Nhà nước TQ không hề lên tiếng mà chỉ mua lại.
Cái ấn của Bảo đại có ghi “hoàng đế chi bảo”,
tức là “vật quí của vua”. Tức là cái ấn là của cải riêng Bảo Đại. Dĩ nhiên vợ
ông, bà Monique Baudot có quyền kế thừa tài sản này.
Ông Vũ cũng phán rằng: “Chiếm hữu không
ngay tình là khi anh mua lại hay được cho một tài sản bất minh như đồ ăn trộm
hay thất lạc mà anh biết rõ nhưng vẫn giữ… Khi đó, người chiếm hữu không ngay
tình ‘buộc phải hoàn trả tài sản vô điều kiện”.
Ý kiến này của ông Vũ cho thấy, ông Vũ (vừa
kém về luật) vừa không thông hiểu lịch sử.
Chẳng có gì bất minh, nếu ta đọc lịch sử Tây
Sơn “phá” Hà Nội ra sao. Ta cũng không ngạc nhiên khi đế quốc Chiêm Thành bị Đại
Việt tiêu diệt (và cướp bóc) ra sao.
Trong khi cái ấn và cây kiếm mà Bảo Đại giao
cho Việt Minh, thời điểm trước khi VNDCCH ra đời. Việt Minh đã không có một “tư
cách pháp nhân” nào để yêu sách quyền sở hữu cây kiếm và cái ấn vàng. VNDCCH lại
càng không, vì chính phủ này không ai công nhận. Trong khi việc chứng minh
VNDCCH “kế thừa” Việt minh khó còn hơn lên trời.
Ngoài ra, nhiều lần tôi đã viết, về phương diện
công pháp quốc tế ông Bảo Đại không có thẩm quyền chi cả, trong thời điểm đó.
Nhật đầu hàng Đồng minh (14-8-1945), chấp nhận các yêu sách của phe chiến thắng.
Các yêu sách của phe chiến thắng gồm có: 1/ không công nhận các chính phủ do Nhật
lập nên ở các vùng lãnh thổ chiếm trước 1945. 2/ Trong khi chờ đợi quân Đồng
minh vào giải giới, quân Nhật có trách nhiệm giữ an ninh trật tự.
Bảo Đại không thể trao chủ quyền đế quốc Đại
Nam cho Việt Minh. Đơn giản vì Bảo Đại không có thẩm quyền chi cả.
Bảo Đại giao cái ấn và cây kiếm chỉ có mục
đích là bảo vệ tính mạng của mình và giòng họ.
Theo tôi, ý kiến của LS Vũ trên VOA có quá nhiều
sai lầm để viết đủ trong một vài trang giấy.
No comments:
Post a Comment