Nobel
Văn chương hay Nobel Hoà bình cho Việt Nam?
11/02/2022
https://gdb.voanews.com/c36e0000-0aff-0242-b414-08d9ecc67984_w650_r1_s.jpg
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện (ngồi giữa) cùng với Steve Denny (bên phải) của Indochina
Archive, UC Berkeley và Bùi Văn Phú (bên trái) phụ trách thông dịch,
trong buổi nói chuyện tại Đại học Berkeley năm 1995 khi ông vừa đến Hoa Kỳ (Ảnh:
Bùi Văn Phú cung cấp)
Đầu năm nay Chủ tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc đến
tham dự buổi lễ phát động cuộc vận động sáng tác văn học và đã có phát biểu
khuyến khích các nhà văn Việt Nam cố gắng sáng tác đạt đến tầm mức cao để được
trao giải Nobel Văn chương trong tương lai gần, đem lại niềm hãnh diện cho đất
nước.
Nghe lãnh đạo Việt Nam nói chuyện chiều cao,
chiều sâu của văn chương, nghệ thuật nhiều người lại lên tiếng phê phán chính
sách bóp nghẹt tự do tư tưởng, tự do sáng tạo mà Đảng Cộng sản đang áp đặt lên
người dân thì mong muốn có nhà văn Việt Nam đạt giải Nobel Văn chương là mơ tưởng
hão huyền, hay cũng chỉ là “nổ” cho vui như nhiều lần ông Phúc từng phát biểu.
Thực tế là ngày nay một số nhà văn Việt, hay
có gốc Việt, có tác phẩm dù chưa được trao giải Nobel nhưng cũng đã đạt nhiều
giải thưởng danh tiếng khác và họ là những người không sống trong sự kìm hãm tự
do từ những chính sách của nhà nước. Họ sống ở bên ngoài nước Việt Nam, hay là
những người tuy sống trong nước nhưng đã can đảm vượt qua nỗi sợ hãi để viết
lên suy nghĩ của mình.
Nguyễn Thanh Việt với
“The Sympathizer” đạt giải Pulitzer 2016 của Hoa Kỳ là người Mỹ gốc Việt. Nguyễn
Phan Quế Mai với “The Mountains Sing” đạt giải Lannan Literary Fellowship
2020, hiện sống tại một quốc gia Trung Á. Thi sĩ Ocean Vương mang hai
dòng máu Mỹ-Việt với “Night Sky With Exit Wounds” đạt các giải Whiting 2016,
T.S. Eliot 2017 và MacArthur Fellow 2019.
https://gdb.voanews.com/c36e0000-0aff-0242-a1af-08d9ecc70532_w650_r0_s.jpg
Nguyễn Thanh Việt
trong buổi nói chuyện và ra mắt sách “The Sympathizer” tại Đại học Berkeley năm
2016 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Những tác phẩm trên đã nhận được nhiều lời
khen và được giới thiệu rộng rãi trên văn đàn thế giới.
Hai tiểu thuyết “The Sympathizer” và “The
Mountains Sing” đã được dịch ra nhiều thứ tiếng nhưng đến nay vẫn chưa có bản
Việt ngữ xuất bản ở Việt Nam, chỉ vì có nội dung không phù hợp với quan điểm của
nhà nước.
https://gdb.voanews.com/c3c30000-0aff-0242-cfb2-08d9ecc72c04_w650_r0_s.jpg
Bản tiếng Việt tập
truyện “The Refugees” của Nguyễn Thanh Việt và tác phẩm “The Mountains Sing” của
Nguyễn Phan Quế Mai (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Mấy năm trước, Nguyễn Thanh Việt có tập truyện “The
Refugees” được dịch và in trong nước, trong đó có truyện ngắn “War Years”
bị kiểm duyệt không cho in vì viết về những sinh hoạt chống cộng của người Việt
tại Hoa Kỳ.
https://gdb.voanews.com/c36e0000-0aff-0242-05bd-08d9ecc6c515_w650_r0_s.jpg
Nguyễn Phan Quế Mai
(thứ hai từ phải) trong buổi ra mắt sách ở Berkeley 11/2021 (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Nếu như trong dịp gặp gỡ văn nhân, thi sĩ vừa
qua mà Chủ tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc đã gợi ý rằng bây giờ ban tuyên giáo
không còn kiểm duyệt nội dung sáng tác của các văn nghệ sĩ và các nhà xuất bản được
tự do in ấn, phát hành những tác phẩm lựa chọn, khi đó mới hy vọng trong vài
năm tới Việt Nam sẽ có tác phẩm của nhà văn Việt Nam gây tiếng vang trên văn
đàn thế giới.
Như vào cuối thập niên 1980 với chính sách “cởi
trói văn nghệ” trong vài năm thì những tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu
Hương, Trần Mạnh Hảo, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài mới được chú ý.
https://gdb.voanews.com/c36e0000-0aff-0242-ac4d-08d9ecc77557_w650_r0_s.jpg
Tác phẩm của Dương
Thu Hương trong thư viện Đại học Berkeley (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Trước đó thi ca Việt Nam đã được thế giới biết
đến khi Văn bút Quốc tế đã trao giải Thi ca Quốc tế 1985 cho thi sĩ Nguyễn Chí Thiện
với tập thơ “Hoa địa ngục” được một nhà ngoại giao Anh đưa ra khỏi Việt Nam năm
1979 và được phổ biến rộng rãi sau đó. Năm 1989 nhà thơ cũng được trao giải
PEN/Barbara Goldsmith Freedom to Write, khi ông còn đang nằm trong xà-lim ở nhà
tù Hoả Lò vì làm thơ phê phán chế độ cộng sản.
Năm 1990, Văn bút Việt
Nam Hải ngoại, lúc đó do nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn làm chủ tịch, đã đề nghị thi
sĩ Nguyễn Chí Thiện với tập thơ “Tiếng vọng từ đáy vực” (Flowers from Hell) cho
giải Nobel Văn chương.
https://gdb.voanews.com/c36c0000-0aff-0242-d52a-08d9ecc753e7_w650_r0_s.jpg
Một số tác phẩm của
thi sĩ Nguyễn Chí Thiện (Ảnh: Bùi Văn Phú)
Sau khi Hà Nội cởi trói văn nghệ, Dương Thu Hương là
nhà văn người Việt có nhiều tác phẩm được độc giả bên ngoài Việt Nam biết đến:
“Quãng đời đánh mất”, “Bên kia bờ ảo vọng”, “Lưu ly”, “Chốn vắng”, “Các vĩ nhân
tỉnh lẻ”, “Đỉnh cao chói lọi”.
“Những thiên đường mù” và “Tiểu thuyết vô đề”
là hai tác phẩm đã có bản dịch tiếng Anh và tiếng Pháp và được đề nghị giải
Prix Fémina, hạng mục sách nước ngoài, ở Pháp. Tác phẩm của Dương Thu Hương
cũng được đề nghị cho giải văn chương Mỹ The Neustadt International Prize vào
năm 2013.
Năm
2009 giáo sư Joseph Pivato của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn học tại Đại học
Athabasca, Canada đã đề nghị Dương Thu Hương cho giải Nobel Văn chương. Ông nhắc đến bốn tác phẩm của bà là “Paradise of the Blind” (1988),
“Novel Without a Name” (1991), “Memories of a Pure Spring” (2000), và “Beyond
Illusion” (2002) là những tác phẩm viết về hiện thực Việt Nam thiếu tự do sáng
tác, dân quyền không được tôn trọng.
Nhà văn Dương Thu Hương là một bộ đội từng vào
Nam chiến đấu, là đảng viên Đảng Cộng sản. Sau ngày 30/4/1975 bà đã viết về những
gì nhìn thấy trên quê hương, về lãnh đạo Hà Nội khiến bà bị giam tù nhiều
tháng. Đến năm 2006 bà rời Việt Nam qua Pháp sinh sống.
Về các giải Nobel được trao hằng năm, thế giới
chú ý nhiều nhất đến Nobel Văn chương và Nobel Hoà bình.
Chưa có người Việt nào được trao giải Nobel
Văn chương. Nhưng đã có một người Việt Nam được trao giải Nobel Hoà bình vào
năm 1973, là nhà ngoại giao Lê Đức Thọ, cùng với nhà ngoại giao Mỹ Henry
Kissinger vì các nỗ lực đàm phán đưa đến Bản Hiệp định Ba Lê 1973 để chấm dứt
chiến tranh, tái lập hoà bình cho Việt Nam. Tuy nhiên, Lê Đức Thọ đã từ chối nhận
giải.
Với cuộc chiến khốc liệt kéo dài nhiều năm và
sau khi chiến tranh kết thúc, nước Việt thống nhất thì lại là một nền hoà bình
trong lao tù, tôn giáo bị đàn áp, đời sống người dân mất tự do, nên hơn nửa thế
kỷ qua đã có nhiều người Việt được đề nghị cho giải Nobel Hoà bình.
Năm 1967 nhà tranh đấu cho dân quyền Mỹ là Mục
sư Martin Luther King Jr., quán quân Nobel Hoà bình 1964, đề nghị thầy Thích
Nhất Hạnh.
Năm 1978 hai quán quân Nobel Hoà bình 1976 là
Betty Williams và Mairead Corrigan Maguire đề nghị trao giải cho hai vị lãnh đạo
Phật giáo Việt Nam là thầy Thích Huyền Quang và thầy Thích Quảng Độ.
Năm 2001 Dân biểu Loretta Sanchez đề nghị trao
giải cho thầy Thích Quảng Độ và linh mục Nguyễn Văn Lý.
Bác sĩ Nguyễn Đan Quế, người khởi xướng “Cao trào Nhân bản” là phong trào tranh đấu bất bạo
động đòi tự do, dân chủ cho Việt Nam, đã bốn lần được đề nghị trao giải, gần nhất
là năm 2009 do hai dân biểu Hoa Kỳ là James P. Morgan và Gerald E. Connolly đề
nghị.
Tháng Hai mỗi năm là thời điểm cho những đề
nghị cho giải Nobel. Hiện đang có những vận động trao giải Nobel Hoà bình cho cô Phạm Đoan Trang, 43 tuổi, là một cựu
phóng viên, tác giả của nhiều sách về quyền con người, đồng sáng lập tạp chí mạng
Luật Khoa (luatkhoa.org). Trong nhiều năm qua cô đã lên tiếng bênh vực cho những
quyền căn bản của dân Việt đang bị nhà nước chà đạp, vì thế cô đã bị bắt nhiều
lần, bị công an gây thương tích và mới đây một toà án ở Hà Hội đã kết án cô 9
năm tù.
Với tình hình như hiện tại ở Việt Nam, khi người
dân không được tự do phát biểu, không có tự do sáng tạo thì giấc mơ Nobel Văn
chương cho Việt Nam của Chủ tịch Nước Nguyễn Xuân Phúc khó thành hiện thực.
Trong khi ở Việt Nam còn những tù nhân như Trần
Huỳnh Duy Thức, Phạm Chí Dũng, Phạm Đoan Trang, là những người lên tiếng trong
ôn hoà để tranh đấu cho quyền con người thì tương lai một giải Nobel Hoà bình
cho Việt Nam có nhiều cơ hội hơn là giải Nobel Văn chương.
No comments:
Post a Comment