Lý
do Nga không bao giờ chấp nhận nền độc lập của Ukraine (P1)
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
09/02/2022
http://nghiencuuquocte.org/2022/02/09/ly-do-nga-khong-bao-gio-chap-nhan-nen-doc-lap-cua-ukraine-p1/
Tám giờ tối Chủ nhật,
ngày 08/12/1991, Mikhail Gorbachev, Tổng thống Liên Xô, nhận được một cuộc điện
thoại bằng đường dây tối mật. Người ở đầu dây bên kia là Stanislav Shushkevich,
một giáo sư vật lý khiêm tốn, người mà vài tháng trước đó, trong công cuộc cải
tổ của Gorbachev, đã được giao đảm nhận chức vụ lãnh đạo Cộng hòa Belarus thuộc
Liên Xô. Shushkevich gọi từ một cabin đi săn trong khu rừng Belovezh tươi đẹp để
nói với nhà cải cách vĩ đại rằng, ông đã ‘mất việc’: Liên Xô đã kết thúc rồi.
Nhìn lại, dấu hiệu cáo
chung đã xuất hiện từ tháng 8, khi KGB, những nhân vật Cộng sản cứng rắn và
quân đội đã buộc Gorbachev chịu quản thúc tại gia, và tiến hành một cuộc đảo chính.
Sau ba ngày kháng cự hòa bình, dẫn đầu bởi Boris Yeltsin, Tổng thống Cộng hòa
Xô viết Nga, họ đã rút lui. Sự kiện đó đã loại trừ mọi khả năng quay trở lại một
Liên Xô trong quá khứ. Nhưng Gorbachev vẫn nuôi hy vọng về một người kế nhiệm hậu
Xô Viết theo chủ trương tự do, như một cách để có thể giữ, chí ít là, một số nước
cộng hòa liên kết với nhau. Cuộc gọi của Shushkevich đã giết chết hy vọng cuối
cùng đó.
Một trong những nguyên
nhân là sự sụp đổ của nền kinh tế Nga. Như Yegor Gaidar, nhà cải cách kinh tế
hàng đầu của Yeltsin, sau này đã viết, đó là mùa thu của “những hàng thực phẩm
ôi thiu…những cửa hiệu trống rỗng… những người phụ nữ lang thang tìm kiếm thức
ăn, bất cứ thứ gì có thể ăn được… mức lương trung bình là bảy đô la một tháng.”
Để thực hiện thành công những cải cách sâu rộng mà Gaidar đề xuất, Yeltsin cần
một nước Nga có khả năng kiểm soát tiền tệ của chính mình. Điều đó có nghĩa là
phải rời khỏi Liên bang Xô viết.
Chính Shuskevich cũng bị
thúc đẩy bởi nền kinh tế suy sụp. Ông mời Yeltsin đến cùng mình trong căn nhà
nghỉ dưỡng ở rừng sâu, với hy vọng rằng, nếu làm hài lòng vị tổng thống thì khí
đốt và điện của Nga sẽ tiếp tục được chuyển tới Belarus. Mùa đông sẽ vô cùng
khó khăn nếu không có chúng. Địa điểm Shuskevich chọn là một nhà nghỉ có tên
Viskuli, nơi Leonid Brezhnev và Nikita Khrushchev từng giải trí với trò bắn bò
rừng và nhiều trò tiêu khiển khác (đây là lý do nó có đường dây điện thoại nối
với Moscow).
Yeltsin đề nghị Leonid
Kravchuk, Tổng thống Cộng hòa Ukraine, tham gia cùng họ. Chủ nhật trước đó, người
dân Ukraine đã bỏ phiếu áp đảo để phê chuẩn tuyên bố độc lập, rời khỏi Liên
bang Xô viết. Tuyên bố đó đã được Quốc Hội của họ, Rada, thông qua ngay sau cuộc
đảo chính tháng 8.
Yeltsin muốn những gì
Kravchuk đạt được ở Ukraine không đơn thuần chỉ vì lý do kinh tế. Ông tin rằng
độc lập sẽ là yếu tố quan trọng để củng cố quyền lực của mình, và để theo đuổi
nền dân chủ tự do. Ukraine, cho đến tận thế kỷ 19, chưa bao giờ là một lãnh thổ
được xác định rõ ràng, đồng thời vẫn luôn là nơi cư trú của nhiều dân tộc khác
nhau, với sự chia rẽ văn hóa sâu sắc. Việc nước này trở thành một quốc gia đơn
nhất, độc lập, trong phạm vi biên giới cũ của Liên Xô đã tạo tiền lệ cho nước
Nga đi theo cách tương tự, và bác bỏ nền độc lập của các lãnh thổ nổi loạn như
Chechnya. Đó là lý do tại sao Cộng hòa Nga là một trong ba chính thể đầu tiên
trên thế giới công nhận Ukraine là một quốc gia độc lập.
Dù một thế giới nơi
Ukraine, Nga và Belarus hoàn toàn độc lập khỏi Liên Xô nghe có vẻ hấp dẫn,
nhưng một thế giới nơi ba nước này không ràng buộc với nhau theo bất kỳ cách thức
nào sẽ là điều đáng lo ngại đối với một người Nga như Yeltsin. Vấn đề không chỉ
ở việc Ukraine là quốc gia đông dân thứ hai, và có sức mạnh kinh tế cũng đứng
thứ hai trong số các nước cộng hòa còn lại, mà các ngành công nghiệp của nước
này còn tích hợp chặt chẽ với các ngành công nghiệp Nga. Câu hỏi cũng không phải
chỉ nằm ở việc điều gì sẽ xảy ra với các lực lượng hạt nhân đặt tại Ukraine
nhưng lại nằm dưới sự chỉ huy của chính quyền Liên Xô ở Moscow. Vấn đề đi sâu
hơn nhiều.
Một năm trước, trong “Tái
thiết nước Nga” (Rebuilding Russia), một bài luận đăng trên tờ báo được lưu
hành rộng rãi nhất Liên Xô, Alexander Solzhenitsyn đã hỏi “Nước Nga chính xác
là gì? Hôm nay, ngay lúc này đây? Và – quan trọng hơn – ngày mai thì sao?… Bản
thân người Nga nghĩ rằng ranh giới vùng đất của mình là ở đâu?” Sự cần thiết phải
để các nước Baltic ra đi là rõ ràng – và khi họ rời Liên Xô vào năm 1990,
Solzhenitsyn, Yeltsin, và phần lớn nước Nga đã cùng nhau ngăn chặn nỗ lực của
nhóm theo chủ nghĩa phục thù muốn giữ các nước này ở lại liên bang. Điều này
cũng đúng với vùng Trung Á và Caucasus; những khu vực vốn dĩ là thuộc địa.
Nhưng Belarus và Ukraine là một phần của ‘vùng lõi đô thị.’ Solzhenitsyn lập luận
rằng mối quan hệ gắn kết giữa “Tiểu Nga” (tức Ukraine), “Đại Nga,” và Belarus với
nhau cần phải được bảo vệ bằng mọi cách, trừ chiến tranh.
Suốt hàng thế kỷ, Ukraine
đã định hình bản sắc Nga. Là trung tâm của một đại công quốc thời Trung cổ có
tên gọi Kyivan Rus, kéo dài từ Biển Trắng ở phía bắc, đến Biển Đen ở phía nam,
Kyiv được coi là cái nôi của văn hóa Nga và Belarus, đồng thời là nền tảng của
đức tin Chính thống giáo của họ. Thống nhất với Ukraine là điều kiện cơ bản
giúp người Nga cảm thấy mình là người châu Âu. Trong cuốn “Vương quốc đã mất”
(Lost Kingdom, 2017), Serhii Plokhy, một sử gia người Ukraine, mô tả cách “huyền
thoại về nguồn gốc của người Kyiv … đã trở thành nền tảng trong hệ tư tưởng của
Đại Công quốc Moskva (Muscovy), khi chính thể này chuyển từ thần phục Mông Cổ
thành một quốc gia có chủ quyền, và sau đó là một đế chế.” Đế chế Nga cần phải
có Ukraine; và Nga không có lịch sử nào khác ngoài lịch sử một đế chế. Ý tưởng
rằng Kyiv chỉ là thủ đô của một quốc gia láng giềng là điều không thể tưởng tượng
đối với người Nga.
Nhưng với người Ukraine,
chuyện không phải như vậy. Vào bữa tối đầu tiên ở Viskuli, khi Yeltsin và
Kravchuk ngồi đối diện nhau, những ly rượu mừng đã giúp tình bạn chớm nở. Tuy
nhiên, tình bạn mà Kravchuk mong muốn là loại thân tình đi kèm với một tấm séc
cấp dưỡng đàng hoàng, chứ không phải loại đi kèm với những lời hứa suông.
Kravchuk sinh năm 1934 tại
tỉnh Volhynia, miền tây Ukraine – khi đó là một phần của Ba Lan, nhưng đã được
nhượng lại cho Liên Xô theo một điều khoản trong hiệp ước bất tương xâm mà nước
này ký với Đức vào năm 1939. Tuổi thơ chìm trong cảnh thanh trừng sắc tộc, đàn
áp, và chiến tranh đã dạy cho Kravchuk, như lời chính ông, “đi giữa những giọt
mưa” [nghĩa là tránh được những khó khăn – ND]. Đó là một kỹ năng khiến ông trở
thành một thành viên lý tưởng cho bộ máy cộng sản, sau đó là trở thành một người
đấu tranh cho nền độc lập của Ukraine – không phải vì bất kỳ lý tưởng cao siêu
nào, mà đơn giản là vì ông muốn có cơ hội điều hành đất nước của chính mình.
Trưng cầu dân ý đã trao
cho ông cơ hội ấy, khi nền độc lập được đa số dân cư ở mọi vùng khắp đất nước
tán thành, kể cả vùng phía tây trước đây thuộc về Áo-Hung, với các nhà thờ và
quán cà phê theo lối kiến trúc Baroque, lẫn phía đông Xô viết hóa và công nghiệp
hóa, nơi phần lớn 11 triệu dân Ukraine gốc Nga sinh sống. Kravchuk cần nhiều
đáp ứng thiết thực từ Nga, nhưng ông cũng thừa nhận những lợi ích mà người Nga
nhắm đến. Ông muốn có một mối quan hệ tốt đẹp với Yeltsin, và vì vậy đã quyết định
đến buổi gặp mặt trong rừng. Nhưng ông không chủ tâm trao cho Nga một lối thoát
khỏi liên minh theo bất kỳ cách nào sẽ làm tổn hại đến nền độc lập của Ukraine.
Thỏa thuận, ở dạng dự thảo,
vào lúc 4 giờ sáng ngày Chủ nhật, đã đạt được những mục tiêu đó bằng một phương
cách khá gọn gàng. Việc nước Nga đơn giản theo chân Ukraine tuyên bố độc lập sẽ
tự nó giải quyết câu hỏi về các nước cộng hòa còn lại của Liên Xô. Vì vậy, thay
vào đó, họ đã bãi bỏ chính Liên Xô.
Liên bang Xô viết được
thành lập vào năm 1922, thông qua một tuyên bố chung của bốn nước cộng hòa Xô
viết – Cộng hòa Liên bang Ngoại Kavkaz (TSFSR), Nga, Ukraine và Belarus. Với việc
TSFSR đã bị chia cắt từ lâu, các tổng thống theo đó cũng xóa bỏ những gì mà các
tiền bối của họ đã ràng buộc với nhau. Họ sử dụng từ Cộng đồng Các Quốc gia Độc
lập (Commonwealth of Independent States, CIS) thay cho từ “liên minh” (union)–
Kravchuk không cho phép sử dụng từ “liên minh”. Khối này chỉ có một vài thẩm
quyền được xác định rõ ràng, và bất kỳ quốc gia hậu Xô viết nào cũng được hoan
nghênh tham gia khối. Không có mối quan hệ đặc biệt nào giữa ba nước vùng Slavơ
được đề cập.
Chiều hôm đó, ba vị lãnh
đạo đã ký thỏa thuận, theo đó tuyên bố rằng “Liên Xô với tư cách là một chủ thể
của luật pháp quốc tế, và thực thể địa chính trị, đã không còn tồn tại.” Công
việc tiếp theo thuộc về người trẻ nhất trong số ba tổng thống – cũng là người
kém nhiệt tình nhất với những gì họ vừa làm – đó là thông báo cho Moscow về những
gì đã xảy ra.
Gorbachev đã nổi giận. Tầm
quan trọng của Ukraine không phải là một vấn đề trừu tượng đối với ông. Giống
như Solzhenitsyn, ông là con của một người mẹ Ukraine và một người cha Nga. Ông
lớn lên cùng những khúc hát Ukraine và đọc sách của Nicolai Gogol, người đã biến
những câu chuyện dân gian của quê hương mình thành một kho tàng thơ văn phong
phú sau khi chuyển đến St. Petersburg. Sự ra đời của Liên Xô có nghĩa là
Gorbachev và những người giống như ông, dù có nguồn gốc lai lịch ra sao, đều
mang trong mình hai bản sắc: Nga và Ukraine.
Quan trọng hơn, dù cuộc đảo
chính thất bại đã khiến việc tan rã ít nhiều là không thể tránh khỏi, nhưng việc
giải thể một đế chế đa sắc tộc với 250 triệu dân vẫn là một chủ đề gây chấn động.
Như Solzhenitsyn đã viết trong bài “Tái thiết nước Nga”, “Chiếc đồng hồ chủ
nghĩa cộng sản đã ngừng chạy. Nhưng tòa tháp bằng bê tông của nó vẫn chưa sụp đổ.
Và chúng ta phải cẩn thận để không bị đè bẹp bên dưới đống đổ nát, thay vì
giành được tự do.” Thực tế là trong đống đổ nát đó, nếu quả thật có một đống đổ
nát, tồn tại một kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới, nằm rải rác giữa bốn quốc
gia riêng biệt (ba nước Slavơ và Kazakhstan), và điều này khiến các chính khách
trên khắp thế giới lo sợ. Khi kinh tế rơi vào suy thoái, Gorbachev đã đến gặp Tổng
thống George Bush để vay 10 đến 15 tỷ đô la, và lúc ấy mối quan tâm hàng đầu của
Bush là mối đe dọa hạt nhân. Lo lắng tương tự đã khiến Gorbachev phản đối sự ly
khai của Ukraine trong một bài phát biểu được đưa ra ngay trước cuộc đảo chính
vào tháng 8. “Anh có nhận ra mình đã làm gì không?” Gorbachev hỏi Shushkevich.
“Nếu Bush phát hiện ra chuyện này thì sao?”
Câu hỏi đó thật ra đang
được trả lời trên một trong những đường dây điện thoại khác của cabin. Andrei
Kozyrev, bộ trưởng ngoại giao đầu tiên của Nga, đã gặp chút khó khăn khi tìm
cách gọi cho Bush. Một nhân viên lễ tân của Bộ Ngoại giao Mỹ (do Kozyrev không
có số trực tiếp của Nhà Trắng nên phải gọi qua Bộ Ngoại giao) nói với người đàn
ông có chất giọng Nga, đang yêu cầu cô kết nối một người tên Yeltsin với Tổng
thống Mỹ, rằng cô ấy “không có tâm trạng tham gia mấy trò chơi khăm.” Kozyrev
cũng không thể cho số để Bộ Ngoại giao Mỹ liên hệ lại, để có thể chứng minh sự
thành thật của bản thân: vì ông không biết số điện thoại của cabin nơi ông đang
gọi đi. Tuy nhiên, cuối cùng thì ông cũng được kết nối, và trở thành phiên dịch
viên trong lúc Yeltsin giải thích với Bush rằng kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế
giới hiện nằm trong tay một thứ gọi là Cộng đồng các Quốc gia Độc lập.
Gorbachev không rõ Bush sẽ
phản ứng như thế nào, và bản thân Bush cũng vậy. Đoạn nhật ký thu âm mà Tổng thống
Mỹ ghi lại vào ngày hôm sau đã tràn ngập những câu hỏi đầy lo lắng: “Đêm thứ
Hai này, tôi chợt thấy mình lo nghĩ nhiều về hành động quân sự. Quân đội [Liên
Xô] ở đâu – họ đang rất im ắng. Chuyện gì sẽ xảy ra? Liệu nó có vượt khỏi tầm
kiểm soát? Gorbachev sẽ từ chức? Hay ông ta sẽ cố gắng chống trả? Yeltsin có cẩn
trọng suy xét mọi chuyện chưa? Đây quả là một tình huống khó khăn – rất khó
khăn.” Mối nghi ngờ tương tự cũng len lỏi trong tâm trí của ba vị tổng thống
trong rừng. Khi Yeltsin và đoàn tùy tùng quay trở lại Moscow, họ nói đùa về việc
máy bay của mình bị bắn rơi. Tiếng cười không hoàn toàn che giấu được nỗi lo.
Thế nhưng, những vụ bắn hạ
máy bay, cùng với sự vi phạm chủ quyền của Ukraine, việc chiếm đóng Crimea,
cùng sự tái khẳng định rằng di sản của Kyivian Rus có nghĩa là các quốc gia phải
bị ‘xích’ lại chung với nhau, và sự đảo ngược của Belarus sang chế độ độc tài –
tất cả các sự kiện này đều đã lần lượt xảy ra, dẫn đến việc vào một tháng 12 của
30 năm sau đó, ít nhất 70.000 quân Nga đã tiến gần đến biên giới Ukraine và,
trong một diễn biến khác, hàng nghìn người tị nạn Trung Đông đã mắc kẹt trong
chính khu rừng Belovezh. Câu hỏi từng có vẻ đã được giải quyết về mối quan hệ
thời hậu Xô Viết giữa ba quốc gia lại một lần nữa trở thành mối quan tâm địa
chính trị lớn.
Tuy nhiên, ngày trước,
khi đứng giữa những cây thông phủ đầy tuyết, sau khi rời cuộc họp, Yeltsin đã
ngập trong cảm giác nhẹ nhàng và tự do. Ông hồi tưởng “khi ký thỏa thuận này,
Nga đã chọn một con đường khác, con đường phát triển nội bộ hơn là trở thành một
đế chế… Đất nước đang vứt bỏ hình ảnh truyền thống là ‘cường quốc của một nửa
thế giới,’ hình ảnh về cuộc xung đột vũ trang với các nền văn minh Tây phương,
và vai trò cảnh sát trong việc giải quyết các xung đột sắc tộc. Giờ khắc cuối
cùng của đế chế Xô Viết đã điểm.” Có thể sự phụ thuộc lẫn nhau một cách phức tạp
giữa Nga và Ukraine không quan trọng nhiều như chúng ta nghĩ; một quốc gia dân
chủ thôi là đủ rồi. Có thể vấn đề chính là trí tưởng tượng của chúng ta đã sai
lầm.
(Còn tiếp 2 phần)
***
Lý
do Nga không bao giờ chấp nhận nền độc lập của Ukraine (P2)
The Economist
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
10/02/2022
http://nghiencuuquocte.org/2022/02/10/ly-do-nga-khong-bao-gio-chap-nhan-nen-doc-lap-cua-ukraine-p2/
Năm 1994, sau ba năm suy
thoái kinh tế khủng khiếp, hai trong số ba vị tổng thống trong buổi họp tại
Viskuli đã phải rời nhiệm sở. Tại Belarus, Alexander Lukashenko, người từng điều
hành một nông trại tập thể chuyên chăn nuôi heo, đã thắng cử trước Shushkevich.
Lukashenko nói với người dân rằng mình sẽ giải quyết tình trạng kinh tế hỗn loạn
bằng cách đưa nó trở lại trật tự trước đây. Cải cách bị dừng lại, và ở giai đoạn
sau, trong 27 năm cầm quyền của Lukashenko, các cuộc bầu cử cạnh tranh và công
bằng cũng bị chấm dứt. Quốc kỳ, vốn trước đó được đổi thành màu đỏ và trắng như
cờ của nước Cộng hòa Belarus tồn tại ngắn ngủi hồi năm 1918, đã được chuyển lại
thành một lá cờ giống như thời Liên Xô.
Không có sự thay đổi
tương tự ở Ukraine, nơi Kravchuk thua trong cuộc bầu cử tổng thống trước Leonid
Kuchma, một nhà quản lý công nghiệp giỏi thời Xô Viết. Kravchuk được ủng hộ bởi
nhóm cử tri theo chủ nghĩa dân tộc, nói tiếng Ukraine ở phía tây đất nước,
trong khi Kuchma giành được khu vực nói tiếng Nga và theo chủ nghĩa tập thể ở
phía đông. Nhưng không giống như Lukashenko, Kuchma không phải là một kẻ phản động,
và ông đã chứng tỏ mình đủ khôn khéo để thu phục những người Ukraine lúc đầu
không tin tưởng ông.
Yeltsin đã không phải
tham gia tranh cử năm đó. Nhưng một năm trước, ông và những người ủng hộ cải
cách đã phải đối mặt với một cuộc nổi dậy của phe Cộng sản cùng một loạt các
phe phái chống phương Tây, chống dân chủ do người đứng đầu quốc hội lãnh đạo. Một
trong những bất bình của họ là việc mất Crimea, một bán đảo ở Biển Đen, được
chuyển từ nước cộng hòa Nga sang cho nước cộng hòa Ukraine vào năm 1954, nhưng
hầu hết người Nga vẫn coi nó là một phần của nước mình. Một thiên đường nghỉ
mát cho cả giới thượng lưu Liên Xô lẫn hàng triệu dân thường, Crimea cũng từng
là trung tâm của hoàng gia kể từ thời Catherine Đại đế.
Cuộc nổi dậy năm 1993 vô
cùng đẫm máu. Yeltsin ra lệnh cho xe tăng nã pháo vào tòa nhà quốc hội. Công
chúng đứng về phía ông. Một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức sau đó đã làm
tăng đáng kể quyền hạn của tổng thống. Những người ủng hộ ở nước ngoài cũng đứng
về phía ông, và trong năm tiếp theo, một thỏa thuận an ninh cho thấy Mỹ, Anh,
và Nga đồng ý đảm bảo sự toàn vẹn của Ukraine, theo đúng biên giới hiện có của
nước này – nghĩa là bao gồm cả Crimea – để đổi lấy việc Ukraine từ bỏ vũ khí hạt
nhân kế thừa từ Liên Xô. Ukraine sau đó thể hiện lòng biết ơn, trong khi phương
Tây dần chứng kiến thêm nhiều chuyển đổi hướng tới một nước Nga dân chủ, tự do.
Tuy nhiên, vẫn có những
người cho rằng quan điểm này lạc quan một cách nguy hiểm; một trong số đó là
Zbigniew Brzezinski, nhà ngoại giao người Mỹ gốc Ba Lan kiêm cựu cố vấn an ninh
quốc gia. Tháng 3/1994, Brzezinski đã tự mình xem xét câu hỏi của Solzhenitsyn
– câu hỏi mà ông tin là đã gợi lên “khát vọng lớn của đa số các chính trị gia
cũng như người dân [Nga], đó là câu hỏi ‘Nước Nga là gì?” Thay vì đưa ra một
câu trả lời dứt khoát, ông lại cho rằng: “Nga có thể là một đế chế hoặc một nền
dân chủ, nhưng không thể là cả hai.”
Brzezinski đã đúng. Giây
phút nhẹ nhõm của Yeltsin [ở rừng thông sau cuộc họp ở Viskuli] là sự nhẹ nhõm
của một người đàn ông không muốn và không cần phải cai trị một đế chế. Ông chủ
động bác bỏ không chỉ ý thức hệ và chính sách kế hoạch hóa tập trung của Liên
Xô, mà còn cả các công cụ đã giữ cho liên bang này tồn tại – đàn áp và dối trá.
Đối với ông, kinh tế thị trường là một điều kiện cho tự do, chứ không phải là một
sự thay thế cho nó. Người kế nhiệm ông, Vladimir Putin, cũng theo chủ nghĩa tư
bản. Tuy nhiên, Putin không cho rằng kinh tế thị
trường cần phải đi kèm tự do, và không thấy có vấn đề gì với một nhà nước hoạt
động nhờ đàn áp và dối trá. Do đó, ông đã đảo ngược dự án dân chủ của Yeltsin,
và dù lúc đầu không phải là người theo chủ nghĩa đế chế về lãnh thổ, Putin đã dần
đưa đất nước đi vào con đường thứ hai mà Brzezinski đã đề cập. Chính điều đó đã
đặt Nga và các nước láng giềng Slavơ vào tình thế khó khăn như ngày nay.
Một trong những vấn đề mà
Brzezinski nhận thấy ở nước Nga của Yeltsin là “tầng lớp tư bản mới nổi ở Nga
rõ ràng chính là một thứ kí sinh trùng.” Ở thời điểm Putin trở thành tổng thống
vào năm 2000, nước Nga đang được điều hành bởi một giới tinh hoa đầu sỏ coi nhà
nước là nguồn làm giàu cho cá nhân. Tuy nhiên, khi các cuộc thăm dò ý kiến tìm
hiểu xem người dân mong đợi điều gì ở tổng thống sắp tới, thì giảm tham nhũng lại
không phải là ưu tiên hàng đầu của họ. Vị thế của nhà nước mới là mục tiêu tối
thượng. Người Nga muốn có một nhà nước mạnh mẽ, cứng rắn và được nước ngoài tôn
trọng, như tuyên ngôn rất thành công của Putin “Một nhà nước mạnh không phải là
một thứ bất thường cần phải chống lại. Xã hội mong muốn phục hồi vai trò hướng
dẫn, tổ chức của nhà nước.” Ngay sau khi đắc cử, Putin đã khôi phục lại bài quốc
ca Liên Xô, không phải là biểu tượng của việc tái kế hoạch hóa tập trung hay
xây dựng lại một đế chế, mà là một tín hiệu cho thấy một nhà nước mạnh đã trở lại.
Quyền lực nhà nước không có nghĩa là pháp quyền hay môi trường công bằng. Nó
không có, hoặc không cần, một hệ tư tưởng. Nhưng nó cần có một số “thực tế địa
chính trị” mà cuộc họp ở Viskuli đã tước bỏ khỏi Liên Xô.
Nhà nước mạnh, vốn tạo ra
vỏ bọc hiệu quả cho chế độ tham nhũng ở nước Nga của Putin, không phải là một lựa
chọn cho chính quyền đầu sỏ tương tự ở Ukraine của Kuchma. Ukraine không có lịch
sử thực sự là một nhà nước, chứ đừng nói là một nhà nước mạnh. Huyền thoại quốc
gia của nước này là về những người Cossack cưỡi ngựa sống lang bạt tự do. Vì vậy,
thay vào đó, ở Ukraine, tham nhũng đã hóa thành bản sắc dân tộc riêng biệt. Bản
chất của lập luận rất đơn giản. Như Kuchma đã nói trong một cuốn sách xuất bản
năm 2003, “Ukraine không phải là Nga.”
Đó không phải là một câu
nói nhằm tấn công người Nga. Người Ukraine thích Nga. Các cuộc thăm dò cho thấy
họ ngưỡng mộ Putin hơn Kuchma. Đơn giản thì đây chỉ là một cách nói tôn vinh đất
nước lên trên hết. Và Putin không có vấn đề gì với điều đó. Ukraine có thể
không phải là Nga, nhưng nó không khác Nga đáng kể. Ukraine chỉ tham nhũng và hỗn
loạn hơn một chút mà thôi.
Tuy nhiên, mức độ khác biệt
giữa Ukraine và Nga đã trở nên rõ ràng hơn vào năm 2004, khi một cuộc bầu cử tổng
thống gian lận đã khiến hàng nghìn người Ukraine xuống đường biểu tình. Kuchma
đã có thể sử dụng vũ lực để đàn áp; Putin khuyến khích ông nên làm như vậy.
Nhưng nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có sự chỉ trích nặng nề từ phương
Tây, đã ngăn cản hành động đó. Có lẽ, nguyên nhân cơ bản nhất là ý thức của
Kuchma rằng, với tư cách là một tổng thống, ông không thể khiến đất nước chia rẽ.
Ông quyết định không nhúng tay vào, và đồng ý cho phép bỏ phiếu lần thứ hai.
Viktor Yushchenko, ứng viên thân phương Tây, đến từ nhóm nói tiếng Ukraine, đã
đánh bại Viktor Yanukovych, một kẻ tham nhũng đến từ Donbas (vùng cực đông của
đất nước, và trừ khu vực Crimea, là vùng có dân số gốc Nga cao nhất), người đã
tuyên bố chiến thắng trong vòng bầu cử đầu tiên. “Cách mạng Cam,” tên gọi sau
này của cuộc biểu tình, là một thách thức nghiêm trọng đối với Putin – và thách
thức này càng lớn hơn nữa khi một cuộc nổi dậy tương tự ở Georgia, Cách mạng
Hoa Hồng, tạo ra thêm một quốc gia thân phương Tây khác ở trên biên giới Nga.
Năm 2008, Putin tạm rời
ghế tổng thống vì các quy định trong hiến pháp, hoán đổi công việc với Dmitri
Medvedev, thủ tướng của mình. Sự thay đổi này không ngăn cản ông giám sát cuộc
chiến chống lại Georgia vào mùa hè năm đó. Tuy nhiên, khi nhìn lại, năm 2010,
Cách mạng Cam dường như đã trở thành một chiến thắng cay đắng chẳng khác nào thất
bại. Yushchenko cho thấy bản thân là một tổng thống quá kém cỏi, đến mức vào
năm 2010, Yanukovych có thể đường hoàng đánh bại ông trong một cuộc bầu cử tự
do và công bằng.
Putin trở lại nhiệm kỳ tổng
thống vào năm 2012, ngay thời điểm mà cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã
bóp nghẹt nền kinh tế Nga. Gian lận bầu cử quốc hội Nga một năm trước đó, và
triển vọng trở lại của Putin, đã khiến hàng chục nghìn người xuống đường. Hoảng
sợ trước sự hiếu chiến ngày càng tăng mà Nga thể hiện ở Georgia, phương Tây
ngày càng quan tâm hơn đến Ukraine. EU sau đó đề xuất một hiệp định liên kết
cho phép người dân Ukraine được hưởng những lợi ích của một thỏa thuận thương mại
tự do sâu sắc và toàn diện, cũng như quyền tự do đi lại khắp châu Âu.
Một năm trước, một nhóm
các nhà kinh tế đã nói với Putin rằng một liên minh thuế quan với Ukraine sẽ là
một bước đi thông minh. Hơn nữa, một thỏa thuận như vậy sẽ ngăn cản sự liên kết
của Ukraine với EU. Theo đuổi nó là cách để Putin đạt được ba mục tiêu cùng một
lúc: đẩy lùi phương Tây; trao cho Nga một chiến thắng chứng tỏ tầm quan trọng của
nước này; và giúp ích cho nền kinh tế.
Đã đến lúc để thống nhất
vùng Slavơ. Khi Putin bay đến Kyiv trong chuyến thăm hai ngày vào tháng
07/2013, trong số những người đi theo ông có cả trưởng cố vấn kinh tế và Đức
Thượng Phụ Giáo hội Chính thống giáo Nga, người có thẩm quyền bao trùm cả Nga
và Ukraine. Chuyến đi trùng hợp với dịp kỷ niệm 1025 năm ngày Hoàng tử Vladimir
của Kyivan Rus, và sau đó là toàn thể thần dân công quốc, cải đạo sang Thiên
Chúa Giáo vào năm 988 – trong sự kiện “Lễ rửa tội của Rus.” Cùng với
Yanukovych, Putin đã đến thăm nhà thờ ở Chersonesus, Crimea – được cho là nơi
Hoàng tử Vladimir đã rửa tội. Ông và Đức Thượng Phụ còn đến thăm Kyiv Pechersk
Lavra, một tu viện nằm sâu trong các hang động, được thành lập cách đây một
thiên niên kỷ.
Cam kết mà Putin đưa ra
khi đó – bảo vệ “Tổ quốc chung của chúng ta, Đại Công quốc Rus” – không phải là
một tuyên bố không hàm chứa sự mỉa mai. Năm 1674, khi các thầy tu Lavra xuất bản
cuốn “Lược sử” (Synopsis), cuốn lịch sử bình dân đầu tiên của Nga, thành phố
này đang bị đế chế Ottoman đe dọa tấn công, và rất cần sự hỗ trợ từ các vùng đất
Nga nằm ở phía bắc. Cuốn sách đã tìm cách kêu gọi sự đoàn kết của người Slavơ,
bằng cách nhấn mạnh tầm quan trọng của Vladimir và Kyivan Rus đối với cả người
Kyiv lẫn người Muscovy – điều mà các nhà sử học như Plokhy ngày nay coi là “thần
thoại lọc lừa.” Putin cũng đang khai thác một thần thoại được tạo ra để phục vụ
các mục đích chính trị.
Yanukovych không muốn trở
thành chư hầu của Nga. Ông cũng không chia sẻ các giá trị của Tây Âu – đặc biệt
là khi nói đến vấn đề chống tham nhũng. Nhưng sau cùng, ông vẫn phải chọn phe
cho mình. Tại một cuộc họp bí mật ở Moscow vào tháng 11/2013, khi các nhà lãnh
đạo châu Âu đang chuẩn bị ký thỏa thuận với Ukraine, Yanukovych đã được Nga hứa
hẹn một khoản tiền 15 tỷ USD, đưa trước 3 tỷ USD. Dĩ nhiên, ông quyết định từ bỏ
thỏa thuận với châu Âu. Và vào lúc 4 giờ sáng ngày 30/11, tay chân của
Yanukovych đã tấn công hàng chục sinh viên phản đối hành động phản bội của tổng
thống tại Quảng trường Độc lập của Kyiv, còn được biết đến với tên gọi Maidan.
Bằng cách “biến thành
Lukashenko”, như lời một nhà báo, Yanukovych đã cho thấy hai lựa chọn mà
Ukraine phải đối mặt: Giữ phẩm giá? Hay chịu khuất phục? Những chiếc lều nhanh
chóng mọc lên ở Maidan. Các tình nguyện viên giúp phân phát thực phẩm và quần
áo. Nhóm đầu sỏ, lo ngại rằng một thỏa thuận với Nga sẽ cướp đi những lợi ích
mà họ khó khăn lắm mới giành được, đã cố gắng kiềm chế Yanukovych. Putin ép ông
ta sử dụng vũ lực. Yanukovych lưỡng lự, nhưng rồi đến ngày 18/02, Kyiv cũng
chìm trong biển lửa. Chẳng ai thừa nhận mình đã bắn phát súng đầu tiên. Nhưng
vào ngày thứ ba sau khi bạo lực bùng phát, khoảng 130 người đã chết, chủ yếu là
những người biểu tình, và Yanukovych – trước sự ngạc nhiên của mọi người – đã bỏ
trốn khỏi Kyiv.
Đối với Putin, điều này
còn tồi tệ hơn nhiều so với Cách mạng Cam. Ukraine đã trở thành “thực tế địa
chính trị” gắn với nền độc lập được tuyên bố hai thập niên trước. Những đòi hỏi
về phẩm giá của nước này tương đồng với đòi hỏi từ tầng lớp trung lưu và một số
thành viên tầng lớp tinh hoa của Nga, khiến Maidan trở thành một ví dụ thực sự
nguy hiểm. Vì vậy, Putin quyết định sáp nhập Crimea và bắt đầu cuộc chiến ở
Donbas.
Theo truyền thông nhà nước
Nga, Putin đã không phá hoại một cuộc cách mạng chống lại một chế độ tham nhũng
giống như chế độ của chính ông, mà là đang bảo vệ người dân và ngôn ngữ Nga khỏi
bị tiêu diệt dưới bàn tay những kẻ phát xít ở tây Ukraine. Do đó, sự liên quan
đến Nga của các vấn đề dẫn đến cái được gọi là “cách mạng phẩm giá” ở Ukraine
là rất mơ hồ. Đồng thời, sự tàn bạo ở Donbas, được phát sóng trên truyền hình
liên tục không ngừng, đã cho người Nga thấy hậu quả tai hại của việc nổi dậy: nội
chiến.
Ngày 18/03, giới tinh hoa
cầm quyền của nước Nga chứng kiến Putin bước vào Sảnh St George lộng lẫy nguy
nga của Điện Kremlin trong niềm hân hoan, khi ông ca ngợi sự trở lại của
Crimea, và theo đó, của Nga. Việc sáp nhập được gần 90% dân số Nga ủng hộ. Một
năm sau, ông cho mang một tảng đá từ Chersonesus đến Moscow để làm bệ cho bức
tượng khổng lồ của Hoàng tử Vladimir, đặt bên ngoài cổng Điện Kremlin. Trong
bài “Về sự thống nhất lịch sử của người Nga và người Ukraine” (On the
Historical Unity of Russians and Ukrainians), một bài báo được xuất bản bằng cả
tiếng Nga, tiếng Ukraine, và tiếng Anh vào tháng 07/2021, Putin đã mô tả cách
những người thừa kế “Cổ thành Rus” đã bị chia rẽ bởi các thế lực thù địch và giới
tinh hoa phản bội, và làm thế nào Ukraine đã từ “không phải Nga” trở thành “chống
Nga,” một thực thể về cơ bản là không tương thích với các mục tiêu của Nga.
Tóm lại, Putin không tấn
công Ukraine để tôn vinh hay tái tạo một đế chế, dù là Nga hay Liên Xô. Ông tấn
công Ukraine để bảo vệ quyền cai trị của chính mình, còn những câu chuyện lịch
sử chỉ là sự tô vẽ bề ngoài mà thôi. Đồng thời, theo cách nói của Brzezinski, để
Nga có thể trở thành một thứ gì đó khác với một nền dân chủ, thì chí ít nước
này phải có khả năng tự coi mình là một đế chế. Và ở Nga, một đế chế nghĩa là
phải có Ukraine – đất nước mà hơn bao giờ hết đang phản đối mạnh mẽ một liên
minh với Nga.
(còn tiếp một phần)
***
Lý
do Nga không bao giờ chấp nhận nền độc lập của Ukraine (P3)
The
Economist
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
11/02/2022
http://nghiencuuquocte.org/2022/02/11/ly-do-nga-khong-bao-gio-chap-nhan-nen-doc-lap-cua-ukraine-p3/
Tháng 11/2021, Vladislav
Surkov, nhà tư tưởng trung thành của Putin, đã chuyển sự chú ý sang câu hỏi về
đế chế. “Nhà nước Nga, với tình hình nội tại nghiêm trọng và không linh hoạt,
chỉ có thể tồn tại được nhờ sự mở rộng không mệt mỏi ra ngoài biên giới. Từ
lâu, nó đã không còn biết cách làm thế nào để có thể tồn tại nếu không phải là
một đế chế.” Ông lập luận, cách duy nhất để Nga có thể thoát khỏi sự hỗn loạn
là xuất khẩu nó sang một quốc gia láng giềng. Nhưng điều ông không nói ra là,
việc Putin xuất khẩu hỗn loạn và bạo lực để phục vụ mục đích ấy đã làm đứt gãy
mối quan hệ giữa các quốc gia và các dân tộc Slavơ theo cách mà ngay cả sự sụp
đổ của đế chế Xô-viết cũng không tạo ra.
Ngày nay, Putin gọi sự sụp
đổ của Liên Xô là “Sự sụp đổ của nước Nga lịch sử dưới cái tên Liên bang Xô viết”.
Nhưng ông không thể khôi phục lại đế chế xưa kia. Ukraine không phải là một tỉnh,
hay một thuộc địa, mà là một quốc gia đang gặp khó khăn, đang trong một quá
trình tự thức tỉnh lộn xộn và nguy hiểm. Về phần mình, Belarus là một ví dụ
nghiệt ngã cho thấy lý do tại sao mọi thứ phải trở nên “nghiêm trọng và không
linh hoạt” nếu muốn kiềm chế quá trình tự thức tỉnh ấy. Lukashenko đã đàn áp
làn sóng trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc một cách tàn bạo và có tổ chức hơn bao
giờ hết – một sự mỉa mai đẫm máu khi chính ông ta là người khởi đầu nguồn cơn sự
việc.
Khi Putin sáp nhập
Crimea, Lukashenko lo sợ đất nước mình có thể sẽ là nạn nhân tiếp theo. Vì vậy,
ông quyết định củng cố bản sắc Belarus mà trước đây ông luôn cố gắng trấn áp.
Đó là một quyết định sẽ khiến ông phải hối tiếc. Phương tiện truyền thông xã hội
nhanh chóng giúp những người theo chủ nghĩa dân tộc tự do và đã được chuẩn bị kỹ
có thể tiếp cận với một nửa dân số của đất nước. Năm 2018, dịp kỷ niệm 100 năm
thành lập nước cộng hòa Belarus, người ta chứng kiến lá cờ đỏ-trắng một lần nữa
tung bay.
Năm 2020, Svetlana
Tikhanovskaya, người trước đây không hề dính dáng đến chính trị, đã ra tranh cử
với Lukashenko trong cuộc bầu cử tổng thống, thay cho chồng mình, người khi ấy
đã bị bắt giam. Những lá cờ đỏ-trắng liên tục xuất hiện trong những buổi vận động
tranh cử của bà. Khi Lukashenko ‘đánh cắp’ chiến thắng bầu cử vào ngày 09/08,
những người biểu tình đã dùng chính lá cờ ấy để quấn quanh một bức tượng lớn của
đất nước. Giống như Ukraine, Belarus không có lịch sử nhà nước thực sự; tất cả
những gì Lukashenko tạo ra kể từ năm 1994 chỉ là sự bắt chước thô thiển quá khứ
Xô Viết, chủ nghĩa phát xít với đặc trưng của chủ nghĩa Stalin. Nhưng ý tưởng về
một điều gì đó tươi đẹp hơn vẫn được giữ vững.
Tuy nhiên, không giống
như người Ukraine, những người biểu tình ở Belarus không có nhà tài phiệt đầu sỏ
‘thân thiện với nền độc lập’ nào đứng về phía họ. Họ không giống với những người
cấp tiến ở tây Ukraine, những người đã thể hiện mình sẵn sàng giết chóc và chết
trên Quảng trường Maidan. Người Belarus phải đối mặt với một tổng thống không
chấp nhận đứng yên như Kuchma, cũng không sẵn sàng chạy trốn như Yanukovych.
Lukashenko ra lệnh đàn mạnh tay hơn nữa, và sự tàn bạo này đã được mài dũa và
hướng dẫn bởi các ‘chuyên gia’ từ Moscow.
Đối với Putin, tình hình
đang đi ngược lại hoàn toàn với những gì các lãnh đạo ở Viskuli phải đối mặt
cách đây 30 năm. Khi ấy, một Ukraine tự do và độc lập – và tương tự là Belarus,
ở một mức độ thấp hơn – là điều kiện cần thiết cho mục tiêu mà nước Nga muốn hướng
tới. Còn giờ đây, Ukraine và Belarus tự do là một sự sỉ nhục mà nước Nga hiện tại
không thể chấp nhận. Tuy nhiên, đồng thời, cuộc đấu tranh của họ cũng giúp thỏa
mãn mong muốn có kẻ thù của Putin. “Thực tế địa chính trị” một nước Nga cường
quốc, những gì được tuyên truyền cho người dân nước này, đã trở thành một pháo
đài bị bao vây. Mỹ là kẻ thù chính. Ukraine, và những người ở Belarus và ở
chính nước Nga đang có khát vọng như những cá nhân từng tham gia “cách mạng phẩm
giá”, đều là tay sai của Mỹ. Thật đáng khinh bỉ vì họ đã phản bội chính đồng
bào của mình.
Các cơ quan tuyên truyền
của Nga đang kêu gọi tiến hành chiến tranh. Nhưng điều đó không có nghĩa là
Putin có kế hoạch chiếm thêm lãnh thổ mới. Ông chưa bao giờ tuyên bố chủ quyền
đối với phần phía tây Ukraine. Có lẽ, ông cũng nhận thức được rằng hiện số lượng
những người yêu nước ở Ukraine đã đủ để chống lại sự chiếm đóng của Nga ở miền
trung, thậm chí là miền đông Ukraine, và rằng đội quân mà ông tập trung ở biên
giới sẽ giỏi xâm lược hơn là chiếm đóng. Nhưng ông vẫn cần có xung đột và sự phục
tùng. Một Ukraine tự do, được để yên, không bị cản trở sẽ mở ra mối đe dọa hiện
hữu của lựa chọn thay thế cho đế chế [tức một nước Nga dân chủ – NBT].
Các cuộc đấu tranh của
Ukraine kể từ năm 2014 diễn ra rất chậm chạp, thất vọng, và lộn xộn. Theo
Evgeny Golovakha, một nhà xã hội học, điều này một phần là do “người Ukraine
thích thử nghiệm”. Đúng như nhận định đó, vào năm 2019, họ đã bầu Volodymyr
Zelensky – diễn viên hài từng đóng vai một giáo viên lịch sử vô tình được bầu
làm tổng thống – lên đảm đương vai trò này trong đời thật. Thành tựu lớn nhất của
ông, cho đến nay, là củng cố khối cử tri phản đối giới tinh hoa cũ trên khắp
Ukraine, làm cho bản đồ bầu cử trông gắn kết hơn so với trước đây. Nhưng điều
đó không nhất thiết sẽ giúp ông giữ được ghế trong trong vòng hai năm nữa.
Yulia Mostovaya, biên tập viên của Zerkalo Nedeli, một trang tin tức trực tuyến,
cho biết: “Chúng tôi thấy việc thay đổi những người nắm quyền còn dễ dàng hơn
là thay đổi chính mình.”
Nhưng thay đổi đang đến rất
gần; và có thể được chứng kiến trong cách mà tình hình nhân khẩu học đang ngày
càng làm lu mờ lòng trung thành khu vực. Ngay cả ở miền đông Ukraine, gần 60%
những người sinh sau năm 1991 nhìn thấy tương lai của họ ở EU – trên toàn quốc,
con số này là 75%. Tổng cộng có 90% dân số muốn Ukraine độc lập và gần 80% lạc
quan về tương lai của đất nước.
Khó mà tìm được sự lạc
quan tương tự ở Nga, chứ đừng nói đến Belarus còn đang hỗn loạn. Nhưng khao
khát vẫn luôn tồn tại, đặc biệt là ở những người trẻ tuổi. Đó là lý do tại sao
Alexei Navalny trước bị đầu độc, sau bị bỏ tù. Với tư cách là nhà lãnh đạo của
phe đối lập với Putin, ông đã ủng hộ ý tưởng một nước Nga không phải là một đế
chế, mà là một quốc gia công dân: một nhà nước vì người dân. Đó là lý do tại
sao Nga gần đây đàn áp nhiều hơn. Cũng là lý do tại sao Putin không thể chấp nhận
một nền hòa bình thực sự tại biên giới của mình.
Không giống như người
Ukraine và người Belarus, người Nga không thể tách mình ra khỏi nước Nga, vì vậy
họ phải thay đổi nó từ bên trong. Họ không thể làm điều đó ở một căn nhà nghỉ
dưỡng trong rừng sâu, hoặc với vài cuộc điện thoại. Nhưng chỉ qua những thay đổi
như vậy, họ mới trở nên thực sự độc lập khỏi Liên Xô một thời.
----------------------
NGUỒN :
Why
Russia has never accepted Ukrainian independence
No comments:
Post a Comment