Phạm Thị Hoài
02/01/2019
Nếu bạn ngọng lờ-nờ và làm nghề đầu bếp, ra chợ hỏi
mua cá nóc, cuối cùng vẫn xách cá lóc về nhà, thì không có gì thật sự đáng báo
động. Song nếu bạn kiêm cả bồi bàn tiếp khách thì câu chuyện đã khác. Trừ khi bạn
trưng biển “Ở đây có nói ngọng” mà quán vẫn đông thì xin chúc mừng, có khi bạn
còn được lên CNN và trở thành một địa chỉ du lịch như bún mắng cháo chửi; đóng
góp của Việt Nam cho thế giới là những ngóc ngách độc đáo như vậy. Còn lại, nếu
khách nhất định cá lóc và bạn khăng khăng cá nóc, rồi lời qua tiếng lại, mày định
đầu độc bố mày hử, rồi nước bọt văng tới đâu dao văng tới đấy, rồi báo chí giật
tít “Án mạng vì món cá nhầm tên” – chậm nhất đến đây, là một cái thây, bạn sẽ
muốn kiếp khác đầu thai thành loài gì cũng chấp nhận, miễn lờ-nờ không lẫn lộn.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Hải Dương, một trong những
thánh địa của tôn giáo nờ cao nờ thấp. Bây giờ người ta phong nó thành sự đa dạng
ngữ âm vùng miền, thành phương ngữ, thổ ngữ gì đó và sẵn sàng tuốt dao bảo vệ
nó trong những cuộc thánh chiến nho nhỏ. Cha mẹ tôi không được cấp tiến, khoan
dung như thế. Cấm tiệt con cái a dua môi trường. Không nghe thì nọc ra giường.
Roi chẳng bao giờ chạm vào mông, song sự cương quyết của phụ huynh khiến đàn
con răm rắp học giọng đài phát thanh thay vì giọng hàng xóm. Tôi đánh mất đặc sản
ngữ âm địa phương và không thấy mình nghèo đi, cũng không thấy những người bảo
tồn đặc sản ấy tự hào về một đóng góp nào cho sự giàu có của tiếng Việt. Ngược
lại, họ chỉ khổ sở bởi cái di sản bất đắc dĩ ấy, tiếng Việt chẳng keo kiệt với
những tình huống éo le. Khi họ bảo rằng trời lồm mình làm lông lên no nắng, hay
nâu nâu họ đi nạc, bạn có đủ tế nhị để không kín đáo nhếch mép? Đủ rộng lượng để
chấp nhận một giáo viên môn toán cứ nũy thừa và nôgarit mà dạy? Một giáo viên
môn sử cứ từ Nạc Nong Quân đến Ný Trần Nê? Một giáo viên môn văn cứ “Cỏ lon
xanh tận chân trời“? Chậm nhất, đến “Lao lao dòng lước uốn quanh“, “Dùng
dằng lửa ở lửa về” và “Lách tường bông niễu bay sang náng giềng“, bạn
sẽ phải lờ mờ – hay nờ mờ cũng đáng khoan thứ? – nhận ra rằng căn cứ vào vị trí
thiêng liêng – hay thiêng niêng cũng chưa chết ai? – của tác phẩm này, “Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn“, thì ngọng lờ-nờ là một
cách vô tình làm mất nước.
Đến lượt mình, tôi còn khắc nghiệt hơn hai đấng sinh
thành. Tôi không kết bạn với người mắc cái tật khốn khổ nói trên. Tình bạn thậm
chí có thể sống sót trong đống tro tàn của các chiến tuyến tư tưởng, song lại dễ
cháy rụi bởi một chất xúc tác có vẻ hiền lành như ngọng lờ-nờ. Thuở trẻ có lần
tôi phải lòng một chàng trai. Lỗi duy nhất, như thể để nêu bật sự hoàn hảo, là
chàng lẫn đúng hai cái phụ âm chẳng họ hàng gì với nhau ấy. Không như mọi cách
phát âm lệch chuẩn khác, ngọng lờ-nờ là một đột biến ngữ âm vô lý mà chức năng
duy nhất là làm mất định hướng, làm nhiễu tư duy, làm hại ngôn ngữ, làm khổ
chính tả, làm tội cái lưỡi và làm ô nhiễm môi trường âm thanh. Tôi đã nhặt nhạnh
nhúm lý trí còn lại khi người ta yêu để bỏ chạy. Tôi có thể sống như thế nào đó
cạnh một người biến tất cả lờ cao thành nờ thấp hoặc ngược lại, dù không chắc
cái tai của mình có còn sống không. Ít ra, đó là người nhất quán. Nhưng với một
người lờ nờ bất nhất thì chịu. Nói ngọng, viết ngọng và nghĩ ngọng là bộ ba
khăng khít. Ngôn ngữ là phương tiện và biểu hiện của tư duy. Làm sao có thể tư
duy bằng một ngôn ngữ đầy lẫn lộn, dễ dãi, buông thả, vô phương hướng, vô tổ chức,
vô ý thức, vô nguyên tắc, vô trách nhiệm như vậy?
Lẽ ra toàn bộ công chức nhà nước cũng như khối viên
chức trong các ngành giáo dục đào tạo và truyền thông phải đạt tiêu chuẩn sạch
ngữ âm ở mức không cản trở giao tiếp và không gây phản cảm, tối thiểu là không
nhầm lẫn lờ-nờ. Ở nhà họ lên giường hay nên giường, ngoài đường họ lái xe hay
nái xe Lexus hay Nexus, đi du lịch hay du nịch họ “hê-lô” hay “hê-nô”, họ diện
đồ Louis Vuitton hay Nouis Vuitton, họ khấn vái thần linh hay thần ninh, chơi
ten-nít hay ten-lít trong các câu lạc bộ hay câu nạc bộ, thích ăn lòng lợn hay
nòng nợn, sau mấy ly bia hay ny bia giao lưu hay giao nưu bạn hữu họ có thể
khen hay chửi Tổng thống Đo-nát Tờ-ram hay Đo-lát Tờ-ram, tưởng nhớ hay oán
trách một thời Liên Xô hay Niên Xô, lo ngại hay no ngại cho thềm lục địa hay thềm
nục địa của đất nước hay đất lước…, tất cả những tự do lựa chọn đó không ai can
thiệp. Đa dạng muôn năm. Ở đất nước này, trừ đa dạng tư tưởng và đa nguyên đa đảng,
còn lại ai muốn đa gì thì đa, đa thê thậm chí được ngưỡng mộ. Song ở cương vị
chính thức thì khác. Không thể xuê xoa coi lỗi phát âm là chuyện nhỏ, bởi tính
chính danh của mỗi chức vụ trong bộ máy nhà nước trước hết được thể hiện bằng sự
tôn nghiêm. Tất nhiên công lý có phần hài hước khi thẩm phán nói ngọng. Tất nhiên nền
giáo dục có phần lố bịch khi Bộ trưởng Bộ Giáo dục “nuôn nuôn” nói về “chất
nượng“. Và tất nhiên những viễn kiến của ngôi sao chính trị đang lên, Bộ
trưởng Thông tin Truyền thông, khó được coi là nghiêm túc, khi ông cứ “nời
giải Việt Nam” cho bài toán Việt Nam trong “nàn sóng internet thứ ba”
mà diễn thuyết.
Thử hình dung, Hồ Chủ tịch đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến” tháng 12 năm 1946 không phải bằng giọng truyền cảm và chuẩn xác – nếu
không muốn nói là lý tưởng về ngữ âm -, mà níu nô: “Chúng ta thà hi sinh tất
cả chứ không chịu mất lước, nhất định không chịu nàm nô nệ… Việt Lam độc nập và
thống nhất muôn lăm! Kháng chiến thắng nợi muôn lăm!”. Tôi tin rằng quốc
dân sẽ bò ra cười, quên cả xách súng, gươm, cuốc, thuổng, gậy gộc đi cứu nước;
Điện Biên Phủ sẽ không xảy ra, lịch sử Việt Nam sẽ là một lịch sử khác. Lịch sử
thế giới cũng sẽ là một lịch sử khác, nếu Quốc vương nước Anh George VI. không
dày công tập luyện, khắc phục tật nói lắp bẩm sinh, để phát đi lời
tuyên chiến hùng hồn với Đức Quốc Xã tháng 9 năm 1939.
Còn lại câu hỏi, vì sao dàn lãnh đạo cao cấp hiện
nay ở Việt Nam ngọng lờ-nờ như chưa bao giờ được ngọng, như không có chút sĩ diện
nào để mất, như đang đặt nền móng cho ngôn ngữ hạ đẳng của giới thượng lưu mới?
Trong một môi trường bẩn toàn diện, sạch ngữ âm có lẽ là xa xỉ, thậm chí vô
nghĩa.
Tuần báo Trẻ, 2/1/2020
No comments:
Post a Comment