Thomas Mahler - Le Point
Hiếu
Tân dịch
13/12/2017
Le
Point:
Năm 2014, tạp chí “Le Point” đã kết nối nhà văn với nhà vật lý thiên
văn, hai con người sáng chói suốt đời đi tìm những câu trả lời cho bí
mật lớn của cuộc sống.
Bài
này đăng trên Le Point ngày 3-7-2014, chúng tôi xin được giới thiệu lại trong
dịp Jean d’Ormesson từ trần ngày 5-12-2017.
Jean d’Ormesson và
Trịnh Xuân Thuận. Ảnh: Le Point
Một
người là nhà vật lý thiên văn xuất chúng, đã tìm ra giải thiên hà
trẻ nhất được biết từ trước đến nay, nhưng không quên mang những “giai
điệu bí mật của vũ trụ” đến tai những đồng loại tầm thường hơn.
Người kia là viện sĩ hàn lâm hay cười, người sau những cuộc tắm
biển, những đôi giày Italie và Chateaubriand, về già bỗng tự thấy
mình có khuynh hướng thám hiểm vũ trụ. Trịnh Xuân Thuận và Jean
d’Ormesson biết nhau từ lâu rồi, nhưng chưa bao giờ trao đổi quan điểm
trong một cuộc chuyện trò trực tiếp.
Tạp
chí Le Point đã kết nối cặp đôi lẻ bộ này, một người giữ vẻ
trang nghiêm khô khan của nhà bác học, người kia, một chàng công tử
bột lòe loẹt trong trang phục màu kem và cravate bằng hàng dệt kim.
Nhà văn trước tiên hỏi bạn có cho mình cái “vinh dự lớn” được đề
tựa tập hai sắp ra mắt của bộ sách Pleiade của ông không, trước khi đi
chinh phục những vì sao khác xa hơn. Và cũng giống như salon của
Ormesson ở Neuilly, đầy chặt những di vật và những chân dung của các
bậc tổ tiên quang vinh, biến thành mô hình vũ trụ mở ra trên sự quyến
rũ choáng người của cái vô hạn..
Le
Point:
chúng tôi cảm thấy giữa hai ông có tình thân mật đặc biệt…
Jean
d’Ormesson:
Tôi phải nói ngay với ông thế này, là chúng tôi biết nhau từ lâu lắm
rồi, nhưng trong mối quan hệ sư phụ với đệ tử. Ít có cuốn sách nào
làm tôi lóa mắt và xáo trộn như cuốn Giai điệu bí mật (năm
1988). Thuận có ảnh hưởng cực lớn đối với tôi. Tôi đã đọc nó trước
khi biết ông.
Trịnh
Xuân Thuận:
Tôi cảm nhận ngay ở Jean một mối quan tâm lớn đối với số phận của
vũ trụ. Những câu hỏi siêu hình của ông rất giống những câu hỏi của
tôi. Vũ trụ có cảm quan không? Chúng ta bị chi phối bởi tất yếu hay
ngẫu nhiên?
*
Oscar
Wilder nói rằng “tất cả chúng ta ở trong cống rãnh, nhưng một vài
người trong chúng ta nhìn ngắm những vì sao”. Đó có phải trường hợp
của cả hai ông không?
Jean
d’Ormesson:
Đúng đấy, trừ phi Thuận biết ông ấy nói về cái gì. Tôi, thì tôi
chịu thua ngay. Ngoài cuốn sách của ông, một tác phẩm khác, “Lược sử
của Thời gian” của Stephen Hawking cũng mê hoặc tôi như thế. Nhưng, nói
thật, tôi thích đọc sách của Thuận một mạch từ đầu đến cuối bao
nhiêu, thì cũng nhanh chóng bị lạc trong sách của Hawking bấy nhiêu… Tôi
không thể nói thật về các ngôi sao với Thuận, vì tôi biết quá ít.
Người ta sẽ nói là tôi thiếu khiêm tốn. Ôi trời, có phải thế đâu.
Thuận có thể nói về tất cả những vấn đề mà tôi bận tâm trong đời
mình. Còn tôi thì tôi không thể nói nổi ba phần tư những điều mà
Thuận bận tâm.
Trịnh
Xuân Thuận:
Không đúng! Jean là người có kiến thức, chắc không thành thạo về các
phương trình, nhưng ông hiểu những vấn đề cốt lõi.
Jean
d’Ormesson:
ngoài công việc phổ biến khoa học, tôi nói rằng Thuận nắm môn vũ trụ
học trong lòng bàn tay. Tức là bất kì anh chàng tú tài nào cũng
hiếu được những sách của ông.
*
Thế
nhưng rất hiếm nhà văn đương đại nào quan tâm đến Planck,
Heisenberg, Higgs hay Bohr…
Jean
d’Ormesson:
Khi tôi tốt nghiệp tú tài thì than ôi, đấy là thời [Đức] chiếm đóng.
Chế độ Vichy, nói cho công bằng, đã đưa môn vũ trụ học vào chương
trình. Vì đó là thời Vichy, tôi không muốn học môn này. Thế là tôi
bị 2 điểm (trên 20) trong môn vũ trụ học. May sao tôi gỡ lại được điểm
trong môn địa lý, vì đề rơi vào Brésil, nơi tôi đã sống trong ba năm
(cười). Sau đó khá lâu, tôi đọc một quyển sách, có tên Hai nền Văn
hóa của một ông Charles Percy Snow nào đó. Nó giải thích rằng,
nếu một số nhà khoa học có ý niệm lờ mờ về văn chương, thì trái
lại một nhà văn không thể hiểu gì về khoa học. Điều ấy làm tôi vô
cùng sửng sốt. Với rất nhiều táo bạo, tôi tự nhủ mình sẽ thử tìm
cách kết nối khoa học với văn chương. Vì tôi tin rằng khoa học đã thay
thế cho thơ ca thế kỷ XIX trong cái nhiệt tình hăm hở của tuổi trẻ.
Bạn hẳn biết rằng Chateaubriand đã được sinh viên hoan hô nhiệt liệt
vào năm 1830. Bạn cũng biết rằng chín tháng sau cái chết của Victor
Hugo vào năm1885, tỉ lệ sinh đẻ ở Paris tăng vọt, vì mọi người “ăn
mừng” việc chôn cất ông. Thơ ca đã nằm trong tim thế hệ trẻ. Nhưng hôm
nay ai còn nghĩ đến việc tung hô ngay cả một nhà thơ lớn như Yves
Bonnefoy nữa? Khoa học đã thay thế thơ ca. Bởi vậy tôi muốn tìm kiếm
trong khoa học cái điều mà một anh tú tài có thể hiếu được. Nhưng,
vào lúc học thuyết tương đối và vật lý lượng tử, tôi phải thú nhận
với anh rằng, tôi rất vui mừng khi đọc được câu này dưới ngòi bút
Niels Bohr: “Nếu anh tin rằng anh đã hiểu thuyết lượng tử, thì tức là
anh chưa hiểu gì cả” (cười).
*
Thế
lời phê của giáo sư môn vật lý thiên văn đối với những tác phầm vũ
trụ học của cậu học trò Jean d’Ormesson thì như thế nào?
Trịnh
Xuân Thuận:
Jean hiểu rất tốt những nguyên lý phát triển và rút ra những hệ quả
siêu hình học và triết học từ cái thế giới quan khoa học xuất hiện
đầu thế kỷ XX.Tôi rất thích lòng yêu đời của ông, hy vọng của ông.
Chắc chắn là với cùng những yếu tố này, người ta có thể có một
thái độ trái ngược hoàn toàn. Jacques Monod, trong Ngẫu nhiên và
Tất yếu, một cuốn sách rất ấn tượng, kết luận rằng linh hồn
xuất hiện trong vũ trụ mà vũ trụ thì hoàn toàn thờ ơ với nó. Con
người dần dần bị bé nhỏ đi theo các phát minh. Người ta cứ tưởng
mình ở trung tâm, cho đến khi Copernic đặt lại Trái Đất vào hàng hành
tinh thường. Rồi người ta tưởng rằng Mặt Trời là trung tâm của giải
Ngân Hà, trong khi nó chỉ ở ngoại vi một giải Ngân Hà bao gồm 100 tỉ
mặt trời. Cuối thế kỉ XIX, người ta nghĩ rằng Vũ trụ chỉ là giải
Ngân Hà, cho đến khi [kính thiên văn] Hubb cho thấy có những giải tinh
vân khác bên ngoài giải Ngân Hà của chúng ta, Bây giờ người ta biết
Vũ trụ có thể quan sát được là vảo khoảng 100 tỉ giải Ngân Hà.
Thật ra, chúng ta đang bé nhỏ đi thành không đáng kể. Đây là một kết
luận bi quan của Monod. Vũ trụ rất ít quan tâm đến chúng ta, đối với
nó tất cả là ngẫu nhiên. Steven Weinberg, giải Nobel vật lý, cũng nói
rằng càng hiểu Vũ trụ, chúng ta càng thấy nó ít ý nghĩa.
Nhưng
tôi không chia sẻ quan điểm này. Tôi rất vui mừng thấy Jean cũng có
niềm hy vọng như đáp lại nỗi thất vọng kia. Tôi cũng nghĩ là môn vũ
trụ học hiện đại đã làm thế giới vui trở lại, vì nó tái phát
hiện sự hòa hợp cổ xưa giữa con người và vũ trụ. Từ năm 1957, chúng
ta đã biết rằng tất cả chúng ta là bụi của những ngôi sao, và rằng
tất cả các nguyên tố ổn định, trừ hydro và heli, đều sinh ra từ
những ngôi sao và những supernova [sao mới cực sáng]. Toàn bộ
tính phức tạp và vẻ đẹp của thế giới phụ thuộc vào các ngôi sao
này. Ngoài mối liên hệ vũ trụ này, tôi còn đề xuất một lý lẽ thứ
hai mà người ta thường gọi là nguyên lý nhân học. Người ta nhận ra
rằng, nếu ta thay đổi thật ít những hằng số vật lý xác định Vũ
trụ – tốc độ ánh sáng, hằng số trọng trường… hoặc những điều kiện
ban đầu cho phép nó ra đời, thì các ngôi sao sẽ không hình thành, và
không có chúng thì cũng không có chúng ta ngồi đây mà nói chuyện.
Liên quan đến thí dụ về mật độ Vũ trụ, độ chính xác tương đương 10–
60. Tửc là có sự điều chỉnh cực kì chính xác và chỉ cần bạn
thay đổi một con số thập phân thứ sáu mươi (sau dấu phảy, tức là vô
cùng nhỏ – ND), thì sẽ không có sự xuất hiện của một ý thức để
lĩnh hội được vẻ đẹp và độ phức tạp của tổ chức phi thường này
của Vũ trụ. Từ khoảnh khắc trong Vũ trụ xuất hiện một dạng của sự
sống và ý thức, thì Vũ trụ bắt đầu có ý nghĩa.
Jean
gọi vũ trụ là Chúa. Còn tôi, tôi gọi là đấng sáng tạo bản nguyên.
Đó có thể là những sự vật, những phần nhỏ đầu tiên của giây trong
Big Bang, đã được định ra cho sự xuất hiện của chúng ta. Jean chỉ nói
về con người. Đối với tôi, vấn đề là tất cả các dạng sống và trí
thông minh bên ngoài quả đất. Nếu các qui luật vật lí và qui luật
sinh học là phổ quát, thì tôi thật sự không hiểu tại sao chúng ta lẻ
loi trong vũ trụ.
Jean
d’Ormesson:
Luật số lớn và các qui luật thống kê buộc ta phải nghĩ rằng có
những sinh vật ngoài trái đất. Nhưng vì người ta chưa nhìn thấy
chúng, tôi vẫn giữ một nghi ngờ. Như Thuận đã giải thích vô cùng
chính xác, hệ mặt trời không là gì trong tương quan với Ngân hà của
chúng ta, mà Ngân hà không là gì trong tương quan với Vũ trụ…
Trịnh
Xuân Thuận:…
và ngày nay có giả thuyết về những đa-vũtrụ (multiver), tức là
những Vũ trụ tăng bội.
Jean
d’Ormesson:
Chính xác. Nhưng không sao, dù chúng ta không là gì, nhưng đã làm
những việc phi thường. Cái ý tưởng rằng chúng ta đã có thể tái
hiện quá khứ không chỉ của con người và cuộc sống, mà cả của Vũ
trụ cách đây 14 tỉ năm dù sao cũng thật phi thường. Con người hầu như
không là gì, nhưng đồng thời trong nó có một cái gì thần thánh.
Thuận nói rất hay về ánh sáng. Đó là một hiện tượng phi thường.
Ánh sáng không chỉ đi với tộc độ cực lớn, mà nó còn chuyên chở quá
khứ.
Trịnh
Xuân Thuận:
“Nó chuyên chở quá khứ”…một công thức tuyệt đẹp !
Jean
d’Ormesson:
Không phải một nhà thiên văn hay một nhà triết học nói lên điều đó,
mà một nhà văn. Đó là Faulkner. Ông ấy viết rằng: “Quá khứ không chỉ
không chết, mà thậm chí nó còn không phải là quá khứ.” Nếu những
sinh vật ngoài trái đất mà anh nói đến tồn tại, ta biết rằng khi họ
quan sát chúng ta thì không phải họ nhìn thấy chúng ta mà nhìn thấy
Jules César, thấy cuộc chiến giành lửa hoặc những bước khởi đầu của
Trái Đất !
*
Thời
gian, đó là một bí mật làm say mê các nhà khoa học cũng như các nhà
văn…
Jean
d’Ormesson:
Nó là cái gây sửng sốt nhất. Từ khi Vũ trụ tồn tại, nó không bao
giờ chỉ tồn tại trong hiện tại. Nó có một hiện tại vĩnh cửu. Nỗi
buồn chán cô độc, đó là vì cái hiện tại ấy không tồn tại. Nếu tôi
nói với anh: “bây giờ chính là hiện tại”, thì chính nó đã là quá
khứ, vì cái khoảnh khắc mà tôi nói với anh nó ở xa tôi. Như vậy
chúng ta sống trong một số sự vật không tồn tại. Bằng chứng rằng
thế giới này là rất mực siêu hình. Có hai cái hư không bao quanh
chúng ta. Một cái bị chắn bởi bức tường Planc cách chúng ta 14 tỉ
năm, còn cái kia có thể xảy ra trong 10 phút hoặc trong 50 năm, tức là
cái chết. Trước đó có gì? Sau đó có gì? Có thể là không có gì.
Có thể là có cái gì đó. Người ta ở trong địa hạt tiểu thuyết. Với
những người chê trách tôi đã gọi cuốn sách cuối cùng của tôi là
tiểu thuyết, tôi trả lời rằng đó không phải là một tác phẩm khoa
học hay triết học, mà là một cuộc dạo chơi của trí tưởng tượng
trong cõi có trước những cội nguồn của chúng ta.
*
Phải
chăng ngày nay khoa học là cái kích thích trí tưởng tượng của chúng
ta nhiều nhất?
Jean
d’Ormesson:
Vâng. Vả chăng bản thân khoa học là một cuốn tiểu thuyết tuyệt vời.
Tôi cho anh một thí dụ mà Thuận chắc chắn là biết rất rõ. Gần như
cùng một thời kì, một nhà văn Pháp, Marcellin Berthelot, và một trong
những đồng nghiệp người Anh của ông, cả hai cùng nói: “Ngày nay chúng
ta gần như biết tất cả mọi thứ”. Mười lăm năm sau, xuất hiện Einstein,
Hubble, thuyết tương đối, thuyết lượng tử, Bohr… tất cả bung ra, rực
rỡ.
*
Big
Bang làm thay đổi điều gì trong cái nhìn của chúng ta về Vũ trụ?
Jean
d’Ormesson:
Bạn biết rằng từ Big Bang (Vụ Nổ Lớn) được dùng lần đầu tiên bởi
nhà vật lý Anh Fred Hoyle, người muốn chê bai mô hình này.
Trịnh
Xuân Thuận:
Ông ấy muốn một Vũ trụ tĩnh tại, không có lịch sử.
Jean
d’Ormesson:
Đúng thế. Điều gì khoa học, chứ không phải tôn giáo, đã chứng minh
với Big Bang? Nó đã chứng minh rằng Vũ trụ có một lịch sử. Tức là
có khời đầu và có kết thúc. Có phải là khởi đầu tuyệt đối không?
Nếu đa-vũ trụ có tồn tại, thì không. Nhưng dù sao cũng có một khởi
đầu và có một kết thúc. Tất cả đều qua đi, kể cả Mặt Trời và Ngân
Hà của chúng ta.
Trịnh
Xuân Thuận:
Vào cuối thế kỉ trước, có một phát kiến lớn về tăng tốc và dãn
nở của Vũ trụ. Ngày nay dường như Vũ trụ sắp có một sự dãn nở
vĩnh viễn. Cuối cùng, trong khoảng vài tỉ năm nữa, người ta thậm chí
không thể nhìn thấy những Ngân hà khác nữa. Sẽ không còn những nhà
thiên văn như tôi, vì khoảng không gian giữa các Ngân Hà sẽ quan trọng
đến mức Vũ trụ trở nên rất tối. Đến lúc đó, tất cả các ngôi sao
đều tắt, sự sống không còn là khả thế nữa, vì thiếu Hydro, vốn là
nhiên liệu…
*
Jean,
ông có muốn phát kiến ra một giài ngân hà như Trịnh Xuân Thuận đã
làm không?
Jean
d’Ormesson:
Tôi chắc chắn là không thể! Như con chim cucu lao mình vào tổ của con
ác là, tôi cố nhặt nhạnh ở Thuận những điều có thể giúp tôi trong
cuộc dạo chơi Vũ trụ, nơi mà ý tưởng về Chúa mang đến niềm an ủi
một cách rất tự nhiên. Cho dù Chúa có là một ảo tưởng, thì đó
cũng là một aỏ tưởng có sức an ủi phi thường.
*
Xin
hỏi cả hai ông, dù thiên hướng tôn giáo của các ông là gì, Phật giáo
hay Công giáo, nó có nhắc nhở các ông về tuổi già đang đến và cái
chết tới gần không?
Jean
d’Ormesson:
Tôi chưa thay đổi nhiều. Tôi luôn luôn quan tâm đến Chủa và sự chết.
Hồi nhỏ tôi không quá sùng đạo, và niềm tin Công giáo của tôi đầy
chất ngoại đạo. Tôi sinh ra trong đạo Thiên chúa, tôi hi vọng sẽ chết
trong đạo Thiên chúa nếu nó chấp nhận tôi. Nhưng tôi là một tín đồ
Thiên Chủa kì cục, một người Công giáo bất khả tri, người không biết.
Trái lại, mọi người đều có quyền hi vọng. Bởi vậy, tôi hi vọng. Tôi
cố gắng hòa giải ý tưởng rằng có lẽ Chúa không phải là bất khả,
với ý tưởng mà chúng ta có về khoa học. Cái này không phải đến mức
như những nhà thiên văn đưa Chúa vào hiểm họa. Copernic là một linh
mục, Galilée ngoan đạo đến mức bị đưa ra trước Tòa án Dị giáo, Newton
được coi là sùng đạo. Không, chính Darwin là người đã làm đảo lộn
tất cả. Bossuet còn tin rằng thế giới mới có 6 000 năm. Buffon đưa lên
75 000 năm. ..Nhưng chính Darwin là người phát hiện ra rằng chúng ta có
sau lưng mình nhiều triệu nhiều triệu năm, và rằng tất cả chúng ta
là dòng dõi của một tổ tiên chung. Đây là một vấn đề. Nhưng tôi có
thể cho anh những bằng chứng về sự tồn tại của Chúa cũng nhiều như
những bằng chứng rằng Chúa không tồn tại. Để chống lại Richard
Dawkins [nhà sinh học Anh, chiến sĩ nhiệt thành bảo vệ thuyết vô thần
và tác giả “Giải ảo về Chúa” Pour en finir avec Dieu/ The God
delusion], tôi sẵn lòng dẫn sách Giáo lý vấn đáp (catechism). Và
để chống lại sách Giáo lý vấn đáp, tôi sẵn lòng dẫn Dawkins. Vậy
tôi là người bất khả tri. Thậm chí tôi không đi đến chỗ tin tưởng.
Với tôi hi vọng là đủ rồi.
Trịnh
Xuân Thuận:
Tôi cũng thế, tôi là một Phật tử bất khả tri, giống như Jean là một
người Công giáo bất khả tri. Đúng là tôi được nuôi dạy trong truyền
thống Phật giáo. Nhưng đó là một phật giáo thực hành, không có
những khiá cạnh triết học. Cuối cùng chính khoa vật lí thiên văn đã
dẫn tôi đến với tôn giáo. Tôi suy ngẫm nhiều nhất đến các vấn đề về
cội nguồn, về không gian và thời gian. Đương nhiên tôi cũng muốn biết
thế giới quan của Phật có dung hòa được với khoa học hay không. Cuộc
gặp gỡ của tôi với Matthieu Ricard đã là một sự đốn ngộ, vì bản
thân ông cũng được đào tạo về khoa học, đọc tiếng Phạn và rất thông
thuộc các nguồn kinh bổn Phật pháp. Chúng tôi đã thảo luận với nhau.
Và chính nhờ thế mà tôi đã tiến bộ rất nhiều trong những phần liên
quan đến tư tưởng siêu hình của Phật học.
Jean
d’Ormesson:
Tôi nhớ đến một buổi phát hình mà tôi không biết ai đã trò chuyện
với dalaï-lama và đặt cho ông câu hỏi này: “Thượng Đế của Ngài có
khiến cho tâm ngài được bình an không?” và dalaï-lama đã trả lời:
“Nhưng không có Thượng Đế! ”
*
Một
điểm chung nữa giữa hai ông là lòng tôn kính của các ông với Jorge
Luis Borges…
Jean
d’Ormesson:
Borges, đó là bậc thầy của chúng ta!
Trịnh
Xuân Thuận:
Borges đã nghiên cứu nhiều về những khái niệm vĩnh cửu. Với nhiều
trực giác, năm 1941 ông đã viết một câu chuyện có nhan đề tuyệt vời
là “Khu vườn nơi những con đường rẽ”, mười lăm năm sau nó trở
thảnh một cách hiểu khả dĩ về cơ học lượng tử thông qua các khái
niệm về những vũ trụ song song của Hugh Everett.
Jean
d’Ormesson:
Thế giới của Borges thật kì diệu và huyền hoặc. Điều này rất quan
trọng. Vì Chúa, tôi xin nói từ này, là hoàn toàn huyền hoặc. Nhưng
phải chăng cái thế giới này của chúng ta, đối với chúng ta cũng
không kém phần huyền hoặc? Borges đã vạch rất rõ điều này. Nếu có
một phép lạ, thì đó không phải Chúa. Đó là Tạo hóa. Chính là thế
giới làm ta sửng sốt, choáng váng.
*
Trong
thế lưỡng nan giữa ngẫu nhiên và tất yếu, cả hai vị cùng nghiêng về
tất yếu…
Trịnh
Xuân Thuận:
Đây là một vụ đánh cược của Pascal, nhưng tôi đặt cược vào tất yếu.
Jean
d’Ormesson:
Với Sartre, chúng ta trải nghiệm nhiều trong ý tưởng con người là
hoàn toàn tự do. Nhưng liệu nó có tự do như thế không? Nó trước hết
phụ thuộc vào một không gian. Đúng là nó đã có tiến bộ nhiều trong
lĩnh vực này. Khi tôi còn bé, ai mà kết hôn với người ở một làng
cách 40 cây số, thì coi như lấy người ngoại quốc. Ngày nay, tôi nghĩ
rằng chúng ta sẽ chinh phục không gian bằng cách di dân vào vũ trụ.
Nhưng chúng ta vẫn là những tù nhân của thời đại mình. Chúng ta không
thể thay đổi thời gian. Không gian là hình thức của sức mạnh của
chúng ta, nhưng thời gian là hình thức của sự bất lực của chúng ta.
Như vậy tự do của chúng ta dù sao cũng rất hạn chế. Tôi tự hỏi không
biết con người có giống như các hạt kia không, nếu giống thì họ không
thể biết chính xác điều mà họ sắp làm, nhưng hành động toàn thể
thì được biết rõ. Chẳng hạn chúng ta không thể đoán trước Thuận hay
anh đi đường nào để đến đây. Nhưng chúng ta biết chính xác số người
đi qua cầu Neuilly trong đêm nay. Về toàn thể, quyết định luận chi phối.
Trịnh
Xuân Thuận:
Đó là nguyên lý của cơ học lượng tử. Người ta không thể đồng thời
đoán vị trí chính xác và vận tốc chính xác của một hạt. Nhưng với
một tập hợp hạt thì có thể.
*
Jean,
người ta có ấn tượng rằng ngày nay ông thích kết bạn với các nhà
khoa học hơn là với các chính khách hoặc các nhà văn…
Jean
d’Ormesson:
Tôi bộc lộ với anh hệ thống thứ bậc của tôi: ở dưới rất thấp là
các chính khách, cao hơn một chút là các nhà báo, cao hơn nữa là
các nhà văn, và thật sự cao là những người làm khoa học. Nhưng có
lẽ còn cao hơn cả những người làm khoa học, là những vị thánh.
Trịnh
Xuân Thuận:
Khi tôi còn trẻ, ở Viện Công nghệ California, thánh đường của các nhà
khoa học, tôi ở gần với những người đoạt giải Nobel. Tôi nghĩ một
cách ngây thơ rằng, những người có óc sáng tạo đến thế trong khoa
học, đã phát hiện ra những điều tuyệt đẹp đến thế về tự nhiên, là
những người thượng đẳng. Nhưng thiên tài khoa học không dẫn đến thiên
tài nhân văn. Tôi rất ngưỡng mộ Einstein, vì ông được thế hệ sau yêu
mến, điều rất hiếm. Nhưng tôi không thích Newton, vì ông ta là một
người tồi tệ.
Jean
d’Ormesson:
Giống như Léon Bloy đã nói trong một công thức đẹp: “Chỉ riêng có nỗi
buồn cô độc thì không làm nên một vị thánh.” Hôm nay, tôi bổ sung thêm:
“Và không làm nên một nhà thiên văn” (Cười).
No comments:
Post a Comment