10/12/2017
Mới
đây, trong nước có vị PGS.TS Bùi Hiền đề nghị cải tiến tiếng Việt theo cách
viết «mới», dễ thông dụng, tiện bề sổ sách, in ấn, ít hao giấy mực… Ở đây,
người viết xin được miễn bàn sâu vào đề nghị này, mà chỉ nhân đó xin góp
chút ý kiến về cách «bỏ dấu» chữ viết sao cho đúng với tiếng nói truyền
thống của dân Nam trên cả nước. Đây là điều rất quan trọng ngay từ lúc hình
thành tiếng Việt và là điểm then chốt để giữ gìn sự trong sáng của tiếng
Việt. Rất tiếc là trong khi chưa có hàn lâm viện, có không ít người viết đã bỏ
dấu một cách khá tùy tiện.
Để
bỏ dấu cho đúng với tiếng nói, ta cần xác định lại những đặc tính cơ bản của
tiếng Việt là một ngôn ngữ có âm tiết, có dồi dào nguyên âm, có các phụ âm và
nhất là có thêm rất nhiều phụ-âm-ghép; tất cả là để «ghi âm» (phiên âm)
cho đúng với cách phát âm tiếng Việt. Chẳng hạn, tiếng Việt có phụ-âm-ghép /ng/ là
một ký tự rất đặc thù của tiếng Việt mà ít có một tiếng nào trên thế giới
dùng đến nó để phát âm đúng như người Việt. Người Pháp, chẳng hạn, khi đọc
chữ Nguyễn thì phát ngọng với phụ âm ghép /ng/.
Cùng
với «dấu nhấn» biểu thị cho thanh sắc, các đặc tính này đã giúp định hình
một cách tuyệt vời chữ viết tiếng Việt. Bởi thế, ta không nên giản lược
một cách quá dễ dãi cách viết tiếng Việt, nhất là phủ nhận các phụ âm ghép
trong tiếng Việt. Chẳng hạn như muốn bỏ /ng/ và thay vào đó
bằng /q/ khi đề nghị viết tiếng «đồng» bằng tiếng
«dồq». Ngoài ra, ta không thể bỏ ký tự /d/ rất đặc
thù của tiếng Việt để thay vào đó bằng ký tự /z/ và dùng /d/thay
cho ký tự rất đặc thù của tiếng Việt là /đ/.
TIẾNG NÓI VÀ CHỮ VIẾT
Ngôn
ngữ là một phần cốt lõi của hồn dân tộc. Ngôn ngữ đã có từ lúc sơ khai của
một sắc dân và nó tiến hóa theo nhịp phát triển của sắc dân đó. Nó là một
yếu tố chính trong những yếu tố làm thuần nhất hồn dân tộc và từ đó
đồng hóa (hay hội nhập) các sắc dân yếu kém hơn trong cùng một dân tộc. Hơn
nữa, nó giữ gìn cái gốc văn hóa của dân tộc đó.
Ngôn
ngữ gồm hai vế: tiếng nói và chữ viết
Tiếng
nói đã có ngay từ lúc xuất hiện một bộ lạc (hay một dân tộc) và đến một
lúc nào sau đó mới phát hiện ra cách ghi âm lại tiếng nói thành chữ viết. Bởi
thế, có thể nói chữ viết của tiếng Việt ngày nay là ký-tự “tượng âm” tốt
nhất của tiếng nói người Việt trên cả nước, và ngược lại tiếng nói người Việt
trên cả nước được “tượng hình” rất chuẩn nhờ chữ viết để giữ gìn cho ngôn
ngữ được định hình bền vững và luôn trong sáng.
Hình
thành và kiện toàn chữ viết
Chữ
viết tiếng Việt ngày nay được hình thành cách đây bốn (4) thế kỷ, kể từ
thời các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha trở lại Việt Nam năm 1618
với linh mục Francisco de Pina. Họ đã kiên nhẫnlắng nghe người Việt phát âm rồi
dùng mẫu tự La-tinh để ghi ra thành âm tiết Việt. Cùng với các thầy giảng
và giáo dân Việt Nam, họ đã cố dịch Kinh Lạy Cha và các Kinh căn bản khác sang
tiếng Việt viết theo mẫu tự La-tinh. Vô hình chung, họ đã khởi đầu
cho việc soạn thảo chữ Quốc ngữ cùng với người Việt.
Từ
năm 1622, chữ viết do Francesco de Pina đề xướng đã được nhiều giáo
sĩ người Bồ khác điều chỉnh mãi đến năm 1932 thì đạt được bước đầu khá
hoàn chỉnh với cách phiên âm có phương pháp của giáo sĩ Gasparo d’Amiral. Sau
đó, giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes đưa chữ viết này vào Tự Điển
Việt-Bồ-Latinh và “Bài giảng giáo
lý Tám ngày” xuất
bản năm 1651 tại nhà in Vatican ở Roma.
Từ
lúc xuất hiện chính thức đó, chữ viết được cải tiến từng bước qua nhiều thời
kỳ. Nhất là từ thời kỳ Pétrus Trương Vĩnh Ký,Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký là
những người có công trong việc viết sách báo bằng chữ quốc ngữ đầu tiên ở Việt
Nam, như Pétrus Ký đã thành lập năm 1865 tờ Gia Định Báo và
viết cho tờ báo đầu tiên của người Việt Nam này. Dưới thời
Pháp thuộc, các ông Diệp Văn Cương, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Ðình Khả, Phạm Quỳnh,
Nguyễn Văn Vĩnh đã giúp định hình hoàn chỉnh cách viết tiếng
Việt. Người Việt ngày nay nên tôn trọng quá trình hình thành và kiện toàn
chữ «quốc ngữ» rất công phu này.
NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA
TIẾNG VIỆT
Là
một ngôn ngữ có âm tiết
Tiếng
Việt là tiếng nói thuộc loại có âm tiết (tonal language), nghĩa là không có
«cụm âm» (quần-thể-âm) nào mà không có thanh sắc và thanh điệu gắn bó liền với
bản thân của nó. Bởi, toàn thể «cụm âm» đều được biến hóa theo thanh sắc của
«dấu nhấn» đặt trên một âm của nó. Nói nôm na cho dễ hiểu, những câu nói của
người Việt phát lên nghe như một bài hát, bởi tất cả âm thanh phát ra đều mang
dấu nhấn trầm bổng và thanh điệu khác nhau để kết thành… như một bài hát; dĩ
nhiên là khác nhau theo tầng số của mỗi địa phương (phương ngữ).
Nói
rõ hơn nữa, mỗi quần-thể-âm được gom lại và phát ra nhuần nhuyễn như một âm vị
duy nhất, nhờ có yếu tố «dấu nhấn» làm trục chuyển hóa ra âm tiết. Ta coi đó là
một «âm vị cơ bản», một «âm tiết», hay còn có thể gọi được là một «vần»
(syllable), để trở thành một từ ngữ của tiếng Việt. Cứ thế, ta có thể nói rằng
tiếng Việt là tiếng nói «độc vần» hay «đơn âm» với thanh sắc trầm bổng. Vì thế,
cách bỏ dấu đúng trên một âm trong «độc vần» này rất là quan trọng. Nó
quyết định căn tính (hay ý nghĩa) của độc-vần ấy.
Tiếng
Việt có sáu dấu (thanh sắc)
So
với những ngôn ngữ có âm tiết (tonal language), thì tiếng Việt chỉ có 6 dấu
(dấu nhấn), biểu thị cho 6 thanh sắc, dùng để phân định và biểu
nghĩa (diễn đạt ý nghĩa) rõ ràng cho từng quần-thể-âm trong một câu nói.
Đó là các dấu: sắc, huyền, nặng, hỏi, ngã và bình (=không
dấu). Các dấu này chỉ được đánh trên một nguyên âm, (vì phụ âm không thể tự
mình phát ra được âm), để có thể cùng các âm khác phát lên được
thành một âm vị. Ví dụ: /Ảnh biết chuyện này /.
Có
hệ chữ cái đặc thù cho mọi âm tiết Việt
Là
một ngôn ngữ có âm tiết rất phong phú với hệ chữ cái rất đặc thù, tiếng Việt
được hình thành với những từ ngữ có cách cấu trúc riêng của nó. Hơn nữa, cách
bỏ dấu tùy thuộc tuyệt đối ở cấu trúc của mỗi từ ngữ. Ví dụ: chữ quán
xuyến được cấu kết bởi /qu-án/và /xu-yến/, nên dấu
sắc không thể nằm ở chỗ nào khác hơn.
Để
giữ gìn cho cách phát âm ba miền đất nước được vẹn toàn và trong sáng, người
viết đề nghị nên xác định lại hệ chữ cái tiếng Việt. Xưa nay, tiếng Việt được
mặc nhiên chấp nhận gồm có 29 chữ cái: a, ă, â, b, c, d, đ, e, ê, g, h,
i, k l, m, n, o, ô, ơ, p, q, r, s, t, u, ư, v, x, y (i dài). Nhưng
thực ra, tiếng Việt ngày nay được kiện toàn với 40 chữ cái, gồm có:
12 nguyên âm, với 17 phụ âm và còn có thêm 11 phụ-âm-ghép, như trình bày dưới
đây.
1- Tiếng
Việt có 12 nguyên âm rất đặc thù (a, ă, â, e, ê, i, y (i dài), o,
ô, ơ, u, ư).
2-
Có 17 phụ âm (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v,
x.) NB: trong số này, có hai phụ âm p và q được
dùng để làm phụ-âm-ghépph và qu. Ngoài ra, có 4 phụ âm
trong hệ chữ cái gốc la-tinh là f, j, w, z chỉ được dùng để
viết tiếng nước ngoài, nên không kể vào hệ mẫu tự Việt Nam.
3- Và
còn có thêm 11 phụ-âm-ghép rất đặc trưng (ch, gh, gi, kh, ng, ngh,
nh, ph, qu, th, tr.) NB: sở dĩ nhất thiết phải có các phụ
âmghép này là vì chúng «tượng âm» đúng theo tiếng nói truyền thống ba miền
Việt Nam, mà vì vậy cho nên ta cũng không được giản lược nhập nhằng, chẳng
hạn /tr/ với /ch/, hoặc /gi/
với /d/.
CÁCH BỎ DẤU TRONG CHỮ
VIẾT
Như
đã nói, tiếng Việt là tiếng nói thuộc loại có âm tiết (tonal language), mà âm
tiết thì chỉ phát ra từ nguyên âm (không thể từ phụ âm), nên khi bỏ dấu ta
chỉ có thể đánh dấu nhấn trên nguyên âm trong quần-thể-âm mà thôi. Vả lại,
khi quần thể âm gồm nhiều nguyên âm, thì phải đánh dấu trên một nguyên âm
căn bản (sẽ nói đến sau). Dù chỉ đánh dấu trên một âm, nhưng “âm hưởng” của nó
thấm thấu và nối kết toàn quần thể âm, khiến cho quần thể âm đó chuyển thành
một âm tiết mà thôi.
Quy
tắc bỏ dấu căn cứ trên cách phát âm
Khi
một quần-thể-âm chỉ có một nguyên âm (nguyên-âm-đơn), thì đương nhiên ta chỉ bỏ
dấu trên nguyên âm đó và dĩ nhiên âm tiết được phát ra nguyên vẹn như trong
tiếng nói: má, mà, mạ, mả, mã, ma.
Và
cũng vậy, kể cả trường hợp nguyên-âm-đơn có kèm theo phụ âm cuối: máng
(cỏ), màng (tai), mạng (lưới), mảng (vui), mãng
(cầu), mang (cá).
Nhưng
khi một quần thể âm có nhiều nguyên âm (nguyên-âm-đôi,nguyên-âm-ba), ta cần bỏ
dấu thật chuẩn trên nguyên âm căn bảnđể giữ nguyên vẹn cách phát âm
đúng của người Việt ba miền.
Ví
dụ 1: ủi
(đúng), uỉ (sai); úy (đúng), uý (sai); thủy
(đúng), thuỷ(sai); thúi (đúng), thuí (sai); thúy
(đúng), thuý (sai). xủi (đúng), xuỉ(sai) ; xỉu
(đúng), xiủ (sai); nghĩa (đúng), nghiã (sai).
Ví
dụ 2 :
thoáng (đúng), thóang (sai) ; uýnh
(đúng), úynh (sai); Huế (đúng), Húê (sai); thuế (đúng), thúê (sai).
Ví
dụ 3: chuyến (đúng), chuýên (sai); hoài
(đúng), hòai (sai); khuấy (đúng), khúây (sai)…
Quy
tắc: cách
phát âm định đoạt dấu nhấn
Những
ví dụ trên cho phép ta xác định qui tắc bỏ dấu tiếng Việt: chính cách phát
âm sẽ định đoạt dấu nhấn.
1-
Khi chỉ có một mình nguyên-âm-đôi ở cuối quần-thể-âm, thì cách phát âm thường
nhấn mạnh trên nguyên âm trước. Ví dụ: ái, chái; cháy; táo tàu; tàu
hỏa; tẩu hỏa; ấy, chấy; đẻo; đểu; xỉa; xỉu; lòe;
hỏi tội; hỡi ôi; của; thua; thủa;
củi lửa; cổ xúy; ủy ban; ngụy;
thúy; thúi; sữu. Luật trừ: Huế, thuế,
ô uế, bởi vì âm /u/ bị qua mặt bởi âm /ê/ được
nhấn quá mạnh.
NB: gi-ó, qu-ý không
thuộc luật trừ này, vì là nguyên-âm-đơn o, yđứng sau
phụ-âm-ghép gi và qu. Nhưng ở đây lại có luật trừ:
cứ sự thường thì /gi-ạ/ (giạ lúa) được hình thành
bằng phụ-âm-ghép là /gi/ với /ạ/; nhưng cách phát âm chữ /gị-a/ lại được
nhấn trên nguyên âm /i/ (trong giặt gịa), cũng như /gìn/
(trong giữ gìn) và “gin” (một từ ngoại nhập).
2-
Ấy mà khi nguyên-âm-đôi có phụ âm ở cuối quần-thể-âm, thì bị phụ âm này ảnh
hưởng quyết định, nên cách phát âm nhấn mạnh trên nguyên âm thứ hai: Ví
dụ: tiến; niềm; tiếng; xoắn; hoán; khuất;
truân chiên; cuốc; muỗng; thường…
3-
Khi nguyên-âm-ba ở cuối quần-thể-âm, thì cách phát âm nhất thiết phải nhấn mạnh
trên nguyên âm giữa, Ví dụ: thiếu; khoái; khuấy;
khuya; ruồi, cười, cuối, hí hoáy.
4-
Và khi nguyên-âm-ba có phụ âm theo ở cuối, thì cách phát âm phải nhấn ở nguyên
âm cuối. Ví dụ: nguyện; chuyện; huyên thuyên;
nguyện.
Tóm
lại,
dấu nhấn không được tùy tiện đánh trên bất luận nguyên âm nào trong
quần-thể-âm, mà chỉ được đánh trên một nguyên âm nhất định của
nó để phát ra đúng như âm tiết trong tiếng nói.
Thứ
nhất, để định vị cho âm tiết của quần thể âm đó (ví dụ: bắc
cầu, tội lỗi, mỉa mai…).
Thứ
hai, để bảo toàn cách phát âm chuẩn xác của nó theo đúng như
tiếng nói trên cả nước (ví dụ: quả quyết, nước ngoài,
trắcnghiệm, thoang thoảng,
hòa thượng, chểnh mảng,
thách thức).
Thứ
ba, để biểu nghĩa chính xác với lời nói. Ví dụ 1:
Huế khác với huề; trưởng khác với trường; bố
tôi cho má tôi bài kinh khác vớibồ tôi chó má tồi bại kinh. Ví
dụ 2: chái khác với cháy; thúi khác với thúy (úi
và úy là nguyên-âm-đôi nên dấu nhấn vẫn như vậy, nhưng đọc /thúy/
lên ta vẫn phải kéo dài y (i dài) ra để giữ đúng nghĩa và
không trùng lập với thúi). Ví dụ 3: cuốc và quốc
(rõ ràng chữ viết phân biệt c-uốc và qu-ốc, để
thấy cách phát âm qu-ốc phải nhấn trên ốc và biểu
nghĩa hoàn toàn khác với c-uốc). Người Miền Bắc có xu hướng kéo dài
âm /u/ trong q-uốc, nên vô hình chung nhập làm một cả hai cách
phát âm lẽ ra phải khác nhau: c-uốc khác qu-ốc.
Ngày
nay, để hình dung cố gắng quảng bá chữ quốc ngữ trước kia trong quần chúng, ta cũng
nên vui vẻ đọc lại cách đánh vần i tờ của học giả Hoàng Xuân Hãn trong Hội
Truyền Bá Quốc Ngữ lúc bấy giờ:
I
tờ có móc cả hai
I
ngắn có chấm, Tờ dài có ngang
O
tròn như quả trứng gà
Ô
thì đội mũ, Ơ già thêm râu
Huyền
ngang, Sắc dọc, Nặng tròn
Hỏi
lom khom đứng
Ngã
buồn nằm ngang
Ngoài
ra, cũng xin ghi chú thêm rằng:
1-
Tiếng Việt là tiếng đơn âm, nên ta đã mặc nhiên thỏa thuận chấp nhận thuật ghép
chữ để làm giàu thêm tiếng Việt. Ví dụ: âm, nguyên âm, phụ âm, phụ âm ghép;
nguyên âm đơn, nguyên âm đôi, nguyên âm ba (dù có dùng gạch nối giữa chúng hay
không).
2-
Ca dao, tục ngữ được hình thành trong ngôn ngữ dân gian tùy vùng miền, nhưng
được truyền tụng rộng rãi khắp nước mãi đến ngày nay. Đó cũng là phần nào nhờ
có chữ viết “ghi âm” lại.
Sự
đời nghĩ cũng nực cười,
Một
con cá lội mấy người buông câu. (ca dao)
Nhờ
có chữ nôm trước đây và chữ viết rất chuẩn sau đó, ta đã chuyển được dần
từ một nền văn-hóa truyền-khẩu sang nền văn-hóa ký-tự (viết), như được biểu
hiện nơi các tác phẩm Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, v.v.; đó là một bước tiến
ngoạn mục và cần thiết cho Đất nước.
Fribourg
09.12.2017
Trần
Ngọc Báu
No comments:
Post a Comment