Tuesday, October 28, 2014

Một định chế khác cho những người đồng tính sống chung? (Thiện Ý)





23.10.2014

Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới của Giáo hội Công giáo La Mã đã kết thúc sau 2 tuần nghị hội về nhiều vấn đề của Giáo hội liên quan đến tín lý đức tin, với sự tham dự của khoảng 200 vị giám mục trên khắp thế giới tụ về. Một trong những vấn đề được bàn thảo trong nghị hội là vấn đề hai người đồng tính sống chung như vợ chồng nhưng không phải là vợ chồng như mục đích, ý nghĩa và định nghĩa bao lâu nay về hôn nhân lưỡng tính được xã hội và giáo hội nhìn nhận. 

Văn kiện đúc kết nghị hội đã được công bố hôm Thứ Bảy 18-10-2014 cho thấy lập trường quan điểm của Giáo hội Công giáo về vấn đề đồng tính sống chung vẫn không thay đổi, mặc dầu khuynh hướng cấp tiến đã có nhiều nỗ lực trong nghị hội được thể hiện trong dự thảo văn kiện đúc kết lần đầu, là “sự chấp nhận và quí trọng xu hướng tính dục (của người đồng tính)” và dành cho người đồng tính “một ngôi nhà mà họ cảm thấy được chào đón tử tế.”. Thế nhưng kết quả sau cùng vẫn chỉ được ghi nhận trong văn kiện đúc kết cuối cùng có tính chất tổng quát rằng người đồng tính “nên được hoan nghênh với sự tôn trọng và nhạy cảm” và “nên tránh” việc kỳ thị người đồng tính. Nghĩa là chỉ cảm thông chứ không chấp nhận sự sống chung giữa hai người khác phái như vợ chồng, vì trái với quy luật sáng thế, tạo dựng con người của Đấng Tạo hóa hay Thiên Chúa.

Thật ra, vấn đề đồng tính không chỉ gây bất đồng trong nội bộ Giáo hội Công giáo mà từ lâu đã, đang, vẫn là đề tài gây nhiều tranh cãi trong công luận toàn cầu nói chung, nói riêng tại các quốc gia có đòi hỏi hợp pháp hóa các cặp đồng tính sống chung bằng cách gán ghép vào định chế “hôn nhân lưỡng tính” gọi là “Hôn nhân đồng tính”.  

Trong phạm vị nhận thức cá nhân, khoảng gần hai năm trước đây chúng tôi đã có dịp trình bầy quan điểm trong một văn thư gửi cho Quốc hội, Chính phủ và Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ và cả Quốc hội Việt Nam. Nay xin được trình bày lại để gửi đến quý độc giả đài VOA như sau.

Chúng tôi nhận thức và quan niệm rằng, đồng tính luyến ái là một hiện tượng xã hội đã phát sinh từ lâu nơi đời sống của một số cá nhân không bình thường về tâm sinh lý, qua nhiều thời đại bị che dấu vì coi đó là một hiện tượng trái qui luật tự nhiên và quan niệm đạo đức, luân lý xã hội, hay là điều tội lỗi bị kết án theo tôn giáo.  

Thế nhưng, theo tiến trình phát triển của con người và xã hội loài người theo chiều hướng các quyền dân chủ, dân sinh, nhân quyền phải được tôn trọng, bảo vệ và hành xử, để mọi người không phân biệt giai tầng xã hội, phái tính, sắc tộc, tín ngưỡng hay tôn giáo có quyền tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân bằng mọi cách, miễn không xâm phạm đến quyền lợi chính đáng và hợp pháp của các cá nhân khác, không phương hại đến trật tự an toàn xã hội.  

Trong thời đại hiện nay, chiều hướng phát triển trên đã đạt tình trạng phổ quát trên phần đông các quốc gia dân chủ trên thế giới. Và vì vậy, hiện tượng “đồng tính luyến ái” đã không còn bị che dấu và kết án như xưa, mà nay đã được cảm thông, công khai hóa ở nhiều nơi và vẫn đang có nỗ lực vận động, tranh đấu cho quyền được hợp pháp hóa cuộc sống chung giữa các cặp đồng tính luyến ái.  
Hoa Kỳ có thể coi là quốc gia đã đạt tới đỉnh cao của chiều hướng phát triển các quyền tự do dân chủ, dân sinh, nhân quyền, trong đó quyền tự do cá nhân gần như tuyệt đối được tôn trọng, bảo vệ và hành xử. Và vì vậy, có thể coi Hoa Kỳ là quốc gia đã đi tiên phong trong việc công khai hóa hiện tượng “đồng tính luyến ái” và có chiều hướng muốn hợp pháp hóa thực trạng sống chung của các cặp đồng tính luyến ái bằng việc áp dụng định chế “hôn nhân lưỡng tính” (The both sexes, hermaphrodite marriage) sẵn có, gọi là “Hôn nhân đồng tính”(Homosexuel marriage, the same sex marriage). 
Đến đây, một vấn đề đặt ra: Tại sao các nhà làm luật không nghĩ đến một định chế khác, thay vì gán ghép định chế hôn nhân lưỡng tính cho những cặp đồng tính?

Lý do cần phải có một định chế khác cho những cặp đồng tính sống chung là vì có sự khác biệt hoàn toàn với cặp vợ chồng trong hôn nhân lưỡng tính về mục đích và ý nghĩa của sự sống chung.

  • Sống chung giữa hai người nam & nữ trong hôn nhân lưỡng tính: là sự luyến ái tự nhiên theo qui luật âm dương, để tìm hạnh phúc trong khoái cảm được thỏa mãn tình dục tự nhiên (tâm sinh lý phổ quát với mọi người) có ý nghĩa làm tiền đề cho sự truyền sinh (sinh con đẻ cái), duy trì và phát triển sự sống lành mạnh cho con người trên hành tinh này, như những người kế thừa có đủ sức khỏe, năng lực làm chủ bản thân, gia đình, làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, vũ trụ…
  • Trong khi cuộc sống chung giữa hai người đồng tính nam & nam hay nữ & nữ là sự luyến ái trái qui luật âm dương, chỉ cốt tìm hạnh phúc trong khoái cảm được thỏa mãn tình dục trái tự nhiên (tâm sinh lý đặc thù với một số người do bẩm sinh hay do hoàn cảnh sống), không có ý nghĩa truyền sinh dù có nhu cầu muốn có con cái, song phải thỏa mãn bằng cách khác (như xin nhận con nuôi) từ nguồn hôn nhân lưỡng tính.   
     
Mặc dầu cuộc sống chung giữa hai người đồng tính nam & nam hay nữ & nữ cũng có những điểm tương đồng với cuộc sống chung giữa hai người nam & nữ trong hôn nhân lưỡng tính như:
  • Cùng sống chung, ngủ chung, hoạt động tình dục trái tự nhiên,ăn chung, sinh hoạt hàng ngày như một gia đình trong hôn nhân lưỡng tính dưới một mái nhà.
  • Cùng có tài sản chung hay tài sản riêng, với các chi phí chung và riêng cho các nhu cầu chung sống, sinh hoạt hàng ngày.
  • Và cũng có những bất đồng trong cuộc sống chung đưa đến những mâu thuẫn, xung đột có thể đưa đến kết thúc sự sống chung với các hệ quả phải giải quyết về thực tế cũng như pháp lý giống như cặp hôn nhân lưỡng tính một khi phải ly hôn không thể tiếp tục sống chung.  
     
Thật ra những điểm tương đồng chung chung như trên không phải là động lực chủ yếu của những cặp đồng tính sống chung đòi được hợp pháp hóa như định chế hôn nhân lưỡng tính.Theo nhận định của chúng tôi có lẽ những quyền lợi về tài sản và phúc lợi xã hội có được từ cuộc sống chung có tính ổn định, lâu dài của hôn nhân lưỡng tính, khiến những cặp đồng tính sống chung cũng muốn có được bảo đảm về mặt pháp lý như định chế hôn nhân lưỡng tính. Có lẽ vì vậy mà trong cuộc phỏng vấn của ABC News hôm Thứ Tư 11-5-2012 Tổng thống Obama đã nói đại ý rằng trước đây Ông do dự một phần vì nghĩ rằng những cặp đồng tính chỉ cần được sống chung là đủ, nay thì cần phải có một định chế cung cấp các quyền như là quyền chữa trị bệnh tật… Trong khi một bà đồng tính ở Cedar Rapids nhận xét: lời lẽ của ông Obama là rất quan trọng, vì bà và người bạn đồng tính sống chung biết rằng hôn thú có nghĩa gì với những cặp cùng giới tính - sau khi mất việc trong năm qua, bà và con nuôi được hưởng các phúc lợi từ bảo hiểm ngườì bạn đồng tính chung sống này.  

Tuy nhiên, tất cả những điểm tương đồng dù có là động lực chủ yếu hay không chủ yếu nêu trên của những cặp đồng tính sống chung, vẫn có thể được giải quyết bằng một định chế khác hơn là cưỡng ép vào định chế hôn nhân lưỡng tính hiện hành. Đó là công việc của các nhà làm luật Hoa Kỳ nói riêng và các quốc gia đang có và muốn giải quyết vấn nạn xã hội này nói chung.  

Chẳng hạn, các dân biểu Hoa Kỳ có thể đệ trình dự án luật để được lưỡng viện quốc hội (Liên bang hay Tiểu bang) thông qua “Luật Đồng Tính” (The Law on homosexsuel persons) cho toàn Liên bang hay cho từng Tiểu bang, áp dụng cho những người đồng tính sống chung. Nội dung định nghĩa rõ mục đích và ý nghĩa cuộc sống chung giữa hai người đồng tính,tương quan quyền lợi và nghĩa vụ sống chung, chế độ tài sản (cộng đồng hay biệt sản), sự tạo mãi, xử dụng, quân phân, thừa kế, chế độ nhận con nuôi chung (đồng cha nuôi hay đồng mẹ nuôi) hay riêng (Nếu chỉ một trong hai người nhân con nuôi)…

Theo thủ tục lập pháp hiện hành, nếu sau khi được lưỡng viện Quốc hội thông qua, “Luật Đồng Tính” sẽ được Tổng thống Hoa Kỳ (nếu là Luật Đồng Tính Liên bang) hay Thống Đốc (nếu là Luật Đồng Tính Tiểu bang) ban hành để trở thành luật có tính cưỡng hành đối với tất cả những cặp đồng tính sống chung. Còn các cặp lưỡng tính sống chung như vợ chồng dù có lập hôn thú hay không (hôn nhân thực tế) có con cái hay không đều phải tuân thủ và được bảo vệ của luật hôn nhân gia đình (The law on marriage and family) hiện hành tại Hoa Kỳ.

*Tóm lại: Mục đích và ý nghĩa của hôn nhân từ lâu đã được quan niệm và thực hành: là sự kết ước tự do sống chung giữa hai người nam & nữ luyến ái nhau, cùng chung hưởng khoái cảm tình dục để truyền sinh và chung hưởng hạnh phúc gia đình, tế bào căn bản của xã hội gồm vợ, chồng và con cái được cha mẹ sinh ra hay con nuôi.  

Mục đích và ý nghĩa trên hoàn toàn khác với mục đích và ý nghĩa của cuộc sống chung giữa hai người đồng tính nam & nam và nữ & nữ, dù có một số điểm tương đồng về hiện tượng và hệ quả, song không thể đồng hóa với cuộc sống hôn nhân của hai người lưỡng tính. Có thể coi đây chỉ là một kết ước dân sự phổ quát (Civil contract) khác với kết ước dân sự đặc thù của hôn nhân lưỡng tính (civil marriage) là sự kết hôn (join in marriage) hay kết duyên để trở thành vợ chồng (join in wedlock, become husband and wife).  

Và vì vậy không thể gọi cuộc “sống chung” giữa hai người đồng tính là “hôn nhân”, mà phải gọi bằng một từ ngữ khác hơn cho đúng thực chất, chẳng hạn gọi là “cộng sinh đồng tính” hay “đồng tính sống chung” và đừng cưỡng ép vào định chế hôn nhân lưỡng tính hiện hành mà gọi là “hôn nhân đồng tính”.

Giải pháp hợp tình, hợp lý nhất là các nhà làm luật Hoa Kỳ nói riêng và các nhà làm luật của các quốc gia đang có vấn nạn “đồng tính luyến ái” cần gấp rút soạn thảo luật lệ riêng áp dụng cho những cặp đồng tính sống chung. Có như thế mới chấm dứt được tình trạng phân hóa, bất bình trong đa số quần chúng nhân dân, trong các chính quyền, giáo hội và sớm ổn định được tình trạng pháp lý cho thiểu số những người dân đồng tính có nhu cầu sống chung để mưu cầu hạnh phúc cá nhân, với các quyền và lợi ích hợp pháp được Hiến pháp công nhận và cần được luật pháp bảo vệ.

Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.





No comments: