Sunday, August 30, 2009

MỘT THỜI MÙ CHỮ


Một thời mù chữ
Trần Ngọc Cư
30/08/2009 1:03 chiều
http://www.talawas.org/?p=9533
Tôi cắp sách đến trường ở Huế từ cấp tiểu học cho đến hết bậc đại học, rất yên chí mình là một người biết chữ. Nhưng sự tự tin này đã bị thách đố ít nhiều trong những lần tôi đứng trước các bia văn, các câu đối, các cổng tam quan, thậm chí cả bia mộ viết toàn bằng chữ Hán, những di sản vẫn tồn tại rất nhiều trong và chung quanh Cố đô Huế. Nhan nhản trong hoàng thành và tại các thắng cảnh có nhiều tấm bia ghi laị các bài thơ, nghe nói là của các vị vua triều Nguyễn — những di tích văn hoá lẽ ra rất sống động và đáng tự hào của dân tộc nếu người dân bình thường có thể đọc được.
Tôi dùng từ “nghe nói” vì trước những văn bia vua chúa ấy tôi là thằng dân mù chữ một trăm phần trăm. Thật là lúng túng, “ốt dột” biết chừng nào nếu một cư dân địa phương tình cờ bị người nước ngoài nhờ giải thích những câu chữ hoặc những bài thơ trên các bia văn ấy. Nhất là trong bối cảnh cố đô Huế được UNESCO bầu chọn là di sản văn hoá thế giới. Mặc dù “Huế của ta ơi, ta có Huế tự hào”, nhưng tâm trạng của người mù chữ này biết đâu cũng là mặc cảm của rất nhiều người Việt khác khi đứng trước một di tích lịch sử mà ý nghĩa của nó mình không giải mã được.
Nếu văn chương của những bài thơ văn chữ Hán trên các di tích lịch sử không đến nỗi tệ quá, thiết tưởng các trung tâm du lịch cũng nên dịch những di sản văn hoá này ra chữ Quốc ngữ hay tiếng nước ngoài và phát cho nhân viên hướng dẫn (tour guides) để tiện bề ứng phó khi bị hỏi đến. Trong thâm tâm của kẻ mù chữ này có nỗi hoài nghi: Phải chăng những bài thơ ấy quá dở, dịch ra “sợ trẽn”, nên cứ giữ nguyên văn để cho được bí nhiệm, phảng phất ngụ ý của câu văn trong một bài tập đọc thời tiểu học của tôi: “… Đây Trung Việt với miếu môn lăng tẩm, chốn đế đô nghiêm mật mơ màng…”
Ước gì vua quan nhà Nguyễn có thể để lại những ghi chú trên các di tích lịch sử như Vua Lê Thánh Tôn đã viết về “Thiếu phụ Nam Xương” bằng một thứ văn chương quốc âm:
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Ngọn đèn dù tắt đừng nghe trẻ,
Dòng nước chi cho lụy đến nàng.
Chứng quả có đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chi mượn đến đàn tràng.
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng.


Khổ thật! Vừa trích dẫn xong bài thơ là tôi thấy ngay mình tự mâu thuẫn, câu sau bắt đầu chửi câu trước. Vì mọi người đều biết, muốn viết được chữ Nôm (như vua Lê), trước hết là phải tinh thông chữ Hán, vì một từ Nôm được cấu tạo bằng cách thêm nét hay kết hợp chữ Hán để lấy ý hoặc thanh trên một từ Hán – nghĩa là chữ Nôm còn phức tạp hơn chữ Hán rất nhiều. Đã vậy, chữ Nôm lại còn bị giới trí thức (còn gọi “kẻ sĩ”) thời trước rất coi thường vì nó không phải là chữ của thánh hiền.
Thái độ phục tùng văn hoá Trung Hoa được biểu lộ trong câu dè bỉu “Nôm na là cha mách qué”, ý nói chữ Nôm là một ngôn ngữ thiếu đứng đắn, thậm chí là một loại chữ viết dùng để xỏ xiêngvì việc sử dụng chữ Nôm [Nam] ngụ ý một tinh thần độc lập với văn hóa chính thống, tức văn hoá phương Bắc, gây dị ứng không ít cho giới Nho học An Nam.
Tương phản với sự coi nhẹ chữ Nôm là thái độ thánh hoá chữ Hán không những trong giới Nho sĩ mà cả trong dân gian mù chữ nói chung. Tôi đã chứng kiến sự kiện này ngay trong cuộc đời tôi. Cha mẹ tôi không bao giờ cho phép con cái để những bao hương hay giấy gói trà có chữ Hán nằm ở những nơi bị chê là uế tạp. Tôi đã bị nhồi sọ đến nỗi có thể tưởng tượng khi chết tôi có thể về địa ngục ngay tức khắc nếu có lần đã lấy một mảnh giấy gì đó có chữ Nho để dùng sau khi đại tiện.
Kinh nghiệm mù chữ thứ hai mà tôi cảm nhận trên thành phố quê hương là kinh Phật chữ Hán. Phần lớn đồng bào Phật tử Huế theo Phật giáo Đại thừa (được truyền từ Trung Hoa) và kinh kệ thường được viết bằng chữ Hán. Tôi từng tham dự những buổi lễ cầu an, cầu siêu, và thú thật có rất nhiều bài kinh tôi không hiểu được bao nhiêu. Chỉ biết chắc một điều là giọng các nhà sư ở Huế đọc kinh nghe rất hay, nên cũng có nhiều người mê nghe kinh mặc dù không hiểu gì hết. Điều này chắc cũng giống như các cụ già bên Công giáo vẫn thích nghe kinh bằng tiếng La-tinh hơn nghe kinh tiếng Việt.
Như mọi người đều biết, chữ Hán – Việt không phát âm giống hệt như tiếng nói của người Trung Hoa. Chẳng hạn, khi người Trung Hoa dùng chữ Hán để phiên âm Montesquieu thì họ đọc gần như người Pháp phát âm tên của nhà tư tưởng Montesquieu, nhưng qua tiếng Hán Việt các nhà Nho An Nam sẽ đọc thành Mạnh Đức Tư Cưu. Napoléon đọc thành Nã Phá Luân, Rousseau đọc thành Lư Thoa… Một cách tương tự khi các nhà sư Trung Hoa dùng chữ Hán để phiên âm tiếng Phạn thì họ phát âm gần giống tiếng Phạn, nhưng qua tiếng Hán Việt những bài chú tiếng Phạn sẽ không còn phát âm trung thực bao nhiêu.
Thời niên thiếu, sinh hoạt trong Gia đình Phật tử, mấy đứa con nít như chúng tôi phải dùng phương pháp liên hệ để nhớ những bài chú. Như bài chú “Thất Phật diệt tội chơn ngôn… Li bà li bà đế cầu ha cầu ha đế…”, chúng tôi tinh nghịch đổi thành “Li của bà thì bà [uống] đế, của cậu Hai cậu Hai đế…” cho dễ nhớ.
Nghi lễ Phật giáo Huế nặng nề hình thức và đầy bí ngữ. Nhất là trong các tang lễ, là lúc con cháu của người quá cố thường phải đội sớ và quì cả tiếng đồng hồ cho xong một biến kinh. Kinh nghiệm của tôi khi mẹ tôi qua đời là, trong khi quì đội sớ, một phần vì không hiểu kinh một phần vì cảm nhận cái đau từ hai đầu gối, tôi mất đi sự quán tưởng về hương linh của mẹ. Trong một biến kinh như thế, đến cả việc pha trà, thầy cũng trịnh trọng: “Tiến trà”. Đệ tử rót trà xong, thầy nhắc: “Lễ nhị bái.” Con cháu lạy hai lạy xong, thầy chủ lễ xướng: “Bình thân quì”. Thao tác cung kính này được lặp lại nhiều lần trong một biến kinh.
Trong các biến kinh đầy chữ Hán này, xin thú nhận, bài kinh tôi thích nhất là bài “Hồi hướng” (“Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh thề trọn thành Phật đạo.”) Vì đây là một bài kinh tiếng Việt dễ hiểu và nhất là vì nó báo hiệu sắp kết thúc buổi lễ.
Nói vậy, nhưng tôi tin các đạo hữu của tôi ở Huế sẽ không cho tôi là một tên phản đồ hay dị giáo, vì qua trao đổi tản mạn, nhiều người cũng chia sẻ kinh nghiệm mù chữ như tôi. Tôi vẫn thấy mình theo đạo Phật, hay chí ít, văn hoá Phật giáo vẫn là văn hoá gần gũi với tâm hồn và nhân sinh quan của tôi nhất.
Xin phân bua thêm điều này: vào những năm trưởng thành của tôi, trong thập niên đầy biến động 1960, tôi có cơ duyên đọc được nhiều sách của nhà sư Thích Nhất Hạnh, trong đó nổi bật nhất là những tác phẩm như Đạo Phật đi vào cuộc đời, Đạo Phật hiện đại hoá, Nói với tuổi hai mươi, Hoa sen trong biển lửa…Và cũng trong thời gian này, với sự hiện diện của trên nửa triệu lính Mĩ ở miền Nam, sách tiếng Anh từ các trại lính đồng minh của Việt Nam Cộng hoà cũng tràn ra các đống rác và được con buôn lượm về bày bán trên các vỉa hè, nhờ vậy mà không hề thông qua một chế độ kiểm duyệt nào cả. (Trong khi đó các báo chí công khai phải kinh qua chế độ “cắt, đục, bỏ”, còn mệnh danh là “tự kiểm duyệt” khá khắc khe, để lại trên mặt báo những khoảng trắng nom thật buồn cười.) Và, từ các đống rác ấy, không những tôi đọc được People’s War, People’s Army by Vo Nguyen Giap, Ho Chi Minh by Jean Lacouture, mà cả những tác phẩm thiền học của D.T. Suzuki.
Cái nghịch lí là, tôi lớn lên trong chiếc nôi Phật giáo là cố đô Huế nhưng tiếp cận tinh túy của đạo Phật không phải qua những kinh kệ Hán văn do “quí ôn, quí thầy” tụng đọc, nhưng chủ yếu xuyên qua những tác phẩm tiếng Việt của thầy Nhất Hạnh, các vị sư hay cư sĩ trước thầy và sách tiếng Anh.
Đạo Phật chờ đợi con người tự mình thắp đuốt lên mà đi và có hàng vạn Pháp môn để tu tập, nên tất nhiên có hàng triệu đạo hữu không chọn hoặc thậm chí phản bác đường lối hiện đại hoá của thầy Nhất Hạnh. “Đường [cái] quan và rộng, và dài”. Riêng phần mình và có liên quan đến sự trưởng thành của tiếng Việt, tôi ghi nhận công đức của những vị thầy như Thích Nhất Hạnh trong nỗ lực Việt hóa các nghi thức tụng niệm. Có hiểu kinh khi đó định lực và sự quán tưởng của người dự lễ mới tăng trưởng dễ dàng.
Đương nhiên, người Phật tử cũng rất biết ơn những nhà sư và cư sĩ trước thầy Nhất Hạnh đã đóng góp cho việc dịch các kinh sách chữ Hán ra tiếng Việt, trong đó một trong những nỗ lực quan trọng phải kể đến là công đức của Cư sĩ Minh Tâm Lê Đình Thám và Tạp chí Viên Âm, mà vào thời tiểu học tôi còn mua được ở nhà sách Liễu Quán của Bác Mừng ở Huế (thập niên 1950).
Tôi tin vào sức mạnh tiềm thức (the power of the subconscious mind), một năng lực tinh thần có sức trị liệu và giúp con người vượt qua nhiều tai ách cũng như thực hiện những việc to lớn vượt quá kích thước của mình. Đức tin đặt vào Thượng Đế, Allah, hay một năng lực siêu nhiên nào đó sẽ tác động lên sức mạnh tiềm thức này xuyên qua các lời cầu nguyện – mà phải cầu nguyện với tất cả thành tâm (“nhất tâm kính lễ” hay “nhất tâm bất loạn”) mới có linh nghiệm.
Người Ki-Tô giáo tin rằng sức mạnh của lời cầu nguyện có thể di dời cả ngọn núi (mountain moving faith). Người theo Phật giáo Đại thừa tin rằng sức mạnh của lời kinh có thể đưa người tụng niệm đi qua được bảo lửa (và chắc cả tường lửa), “như nhập đại hoả, hoả bất năng thiêu” (Kinh Phổ Môn).
Tuy nhiên, cái chià khoá ở đây là “một lòng kính lễ”. Nhưng khi đọc kinh mà anh không hiểu gì cả (như trường hợp của tôi khi nghe kinh chữ Hán) thì làm sao có được cái định lực cần thiết, phát sinh từ “nhất tâm kính lễ”?
Trừ những tôn giáo hô hào thánh chiến để trừng phạt người ngoại đạo, tôi tôn trọng mọi đức tin vì đức tin là chiếc phao cuối cùng, không thể thiếu trong biển đời giông bão. Với người Việt Nam, đó là biển đời đầy những sunami, “sợ khi sóng gió bất kì, con ong cái kiến kêu gì được oan”, Kiều. Vì vậy, theo ngu ý, khi một nhà nước xã hội chủ nghĩa chưa xây đủ bệnh viện và chưa cung cấp đủ phương tiện y tế cho dân, các tôn giáo lẽ ra là đồng minh quí giá của chế độ vì đức tin là một nguồn trị liệu cơ bản của đại khối nông dân và dân nghèo thành thị.
“Tôn giáo là thuốc phiện”, nhưng thuốc phiện vẫn có thể làm giảm những cơn đau. Phương chi, càng ngày giới y khoa càng có nhiều bằng chứng xác nhận rằng đức tin có tác dụng rất tích cực trên sự phục hồi của bệnh nhân.
Những bi văn và kinh sách chữ Hán khiến tôi ý thức sâu sắc về nạn mù chữ của bản thân đồng thời nhắc nhở tôi sự lệ thuộc văn hoá dài hun hút của dân tộc Việt Nam.
Cứ gọi là người Việt Nam có hai ngàn năm lịch sử được ghi chép (tính từ thời Sĩ Nhiếp sang “khai hoá” dân ta), thì có đến trên 19 thế kỉ giới tinh hoa của ta phải dùng chữ viết của người Trung Hoa. Tuyệt đại đa số dân chúng đã sống trong đêm dài tăm tối của nạn mù chữ, vì không có chữ viết phản ảnh ngôn ngữ mà mình đang nói.
Nạn mù chữ tước đoạt khả năng truyền thông giữa người và người với nhau, giữa địa phương này và địa phương khác, tạo sự cách li xã hội giữa các làng xã, nếu không muốn nói là sự chia rẽ, nghi kị lẫn nhau. Các làng nghề thường giữ kín một số kĩ năng trong biên giới địa phương của mình vì sợ cạnh tranh, vì lòng ích kỉ, là lẽ đương nhiên. Nhưng nếu có phương tiện truyền thông (qua chữ viết) dễ dàng, những nghề bí truyền đó cũng có lúc lọt ra ngoài và được chia sẻ cho nhiều người và cho nhiều cộng đồng khác nhau, nhờ thế kinh nghiệm sẽ được bồi đắp tinh vi và mức sản xuất được gia tăng hơn trước.
Nạn mù chữ không những gây trở ngại cho việc trao đổi kinh nghiệm giữa những người đang sống với nhau mà còn cắt đứt kinh nghiệm giữa những người đang sống với các thế hệ tiền nhân. Lịch sử Việt Nam qua các thời đại được các quan của triều đình ghi lại bằng chữ Hán, không hề coi đại khối dân chúng mù chữ như những chứng nhân lịch sử. Lịch sử mất luôn tính khách quan của một khoa học, vì sử gia cũng chỉ là cái lưỡi gỗ mà sự an sinh của ông và thân thuộc ông nằm trên nỗ lực đánh bóng chế độ ông ta đang phục vụ.
Trong lịch sử, triều đại sau thường được sáng lập bởi kẻ cướp ngôi của triều đại trước, nên chắc chắn đã sai người viết sử phóng đại, bóp méo, hay bưng bít sự kiện lịch sử nhằm biện hộ cho sự nghiệp của mình và đương nhiên bôi bác triều đại trước. Sử quan (historian mandarins) của triều Nguyễn, chẳng hạn, đã gọi anh em nhà Tây Sơn là Ngụy Tây Sơn. Truyền thống viết sử một chiều này vẫn còn được kế tục cho đến ngày nay. (Trong nước cũng như ngoài nước.) Có người còn trân trọng tính chủ quan của người viết sử nữa chứ: Đem tâm tình viết lịch sử, một tự truyện của Nguyễn Mạnh Côn, là ví dụ.
Cho đến nay, lịch sử Việt Nam được viết ra, nếu không phải vì mục đích tuyên truyền cho một chế độ thì phần lớn cũng dựa vào cảm tính hơn lí tính, bất chấp cả phương pháp sử học (historiography). Vì chính trị phe phái can thiệp quá nhiều vào việc viết lịch sử, nên có nhiều vụ việc xảy ra cách đây chừng vài thập niên thôi, mà mỗi phe viết theo một cách nhìn khác nhau, người nghiên cứu phải mất nhiều công “gạn đục, khơi trong” mới tìm ra những hạt sự thật. Vì bên này Bến Hải là chân lí, bên kia là ngụy trá.
Người có đầu óc bình thường không thể không tự hỏi câu này: Vậy những điều các sử quan ghi lại bằng chữ Hán cách đây một vài thế kỉ có thể chứa đựng được bao nhiêu phần trăm sự thật? Nạn mù chữ cũng tướt đoạt quyền theo dõi thông tin về vận mệnh đất nước, và vì thế người dân không có ý kiến về việc điều hành đất nước của vua quan ở chốn cửu trùng. Nạn mù chữ không nằm chung một giường với chế độ dân chủ. Một trùng hợp tình cờ: nạn mù chữ có hệ quả nghiêm trọng tương đương với việc bưng bít thông tin của các chế độ toàn trị.
Nếu xã hội Việt Nam truyền thống là một tảng băng sơn, thì người mù chữ là khối lượng khổng lồ nằm chìm dưới mặt nước. Phần nổi nhỏ bé ở phía trên là giới Nho sĩ, những người trước là theo đuổi chữ nghĩa thánh hiền, sau nữa (phần quan trọng) thông qua con đường cử nghiệp nuôi mộng ra phò vua và hưởng ơn mưa móc. Nếu có thất bại trên đường hoạn lộ, kẻ sĩ cũng có thể trở về sinh quán, được ngồi chiếu trên ở chốn đình trung, được “ăn phần cảnh nọng” và được dân làng kính trọng.
Về lịch sử Việt Nam, nếu có ai hỏi những vị anh hùng nào là đáng kính nễ nhất, tôi sẽ không trả lời theo các sách giáo khoa mà tôi đã học, vì tôi nghi ngờ tính trung thực của những người viết chính sử (official history), là loại lịch sử viết theo mệnh lệnh của triều đình. Tôi cũng không có ấn tượng dữ dội về những vị tiến sĩ tên được khắc bia trong Văn Miếu, vì những người này chỉ là những học sĩ của một loại chữ viết mà bản thân họ thậm chí không nói được nó, đó là tiếng Trung Hoa.
Một điều chắc chắn là các sứ giả ta [kể cả nhà cách mạng Phan Bội Châu] khi sang Thiên Triều chỉ có thể bút đàm với các đối tác đàn anh Trung Quốc. Bút lông và giấy bổi không cho phép đối đáp thông minh, nhanh nhạy như thường được dân gian truyền tụng qua thiên tài Trạng Quỳnh, một nhân vật láu cá mà tôi nghĩ chỉ là phóng thể tâm lí của người phương Nam nhằm giải tỏa mặc cảm tự ti của mình. Vả lại, “thập niên đăng hoả”, mười năm đèn sách, thời gian người xưa phải bỏ ra chuẩn bị cho đủ trình độ để đi thi, đỗ đạt và ra làm quan, trong hoàn cảnh thiếu thốn phương tiện học tập, gợi ý cho tôi về một tri thức quanh quẩn ở lớp 10.
Hình như lịch sử cũng đang tự lặp lại chính nó. Nếu các quan xưa phải là ông nghè, ông cống, thì điều kiện khoa bảng của các quan chức đầu ngành hiện nay cũng phải là thạc sĩ hay tiến sĩ gì đó cho xứng mặt với một nền văn hiến chứ! Tuy vậy, nhiều trí giả trong nước cũng dám than phiền tệ trạng các quan chức nhà nước, với trình độ học vấn lớp 10, bon chen làm luận án tiến sĩ, kể cả thông qua con đường gian lận—mà mục đích nhiên hậu là để nắm giữ địa vị quan trọng trong guồng máy cai trị và để nhà nước khỏi mang tiếng là đi theo chính sách “hồng hơn chuyên”.
Ông Nguyễn Tấn Dũng cũng khá trăn trở với quốc sách đào tạo cho bằng được 20 ngàn tiến sĩ trước năm 2020, việc này có thể khiến cho nhiều người có ảo tưởng rằng nếu kiếm đủ sỉ số tiến sĩ vừa nói thì chất lượng giáo dục, tiến trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá trong nước đương nhiên sẽ được cải thiện nhanh chóng. Tuy nhiên, người dân không thể không thắc mắc: nếu trong số 20 ngàn ông hay bà nghè đó, có đến 15 ngàn tốt nghiệp từ các học viện chính trị, hay có đến vài ngàn chuyên gia về văn minh Trung Quốc hay văn hoá Chăm thì sao?
Khi các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu than phiền công nhân Việt Nam không có đủ tay nghề, khi các máy bay của Vietnam Airlines phải nhập cảng các phụ tùng nước ngoài với giá cắt cổ, chắc người dân thích nghe nói đến việc đào tạo gấp 20 ngàn thợ tiện hơn là 20 ngàn tiến sĩ bàn giấy. Cũng trăn trở về thực trạng giáo dục và kinh tế của đất nước, nhưng Obama chỉ biết kêu gào là cần mở thêm thật nhiều community colleges (đại học cộng đồng, thời gian đào tạo là 2 năm tiếp theo bậc trung học), nhằm cải thiện sức cạnh tranh của thị trường lao động Mĩ, quyết tâm giành lại công ăn việc làm đã trót giao cho công nhân nước ngoài trong mấy thập niên qua.
Về vai trò của kẻ sĩ hay trí thức truyền thống Việt Nam, trong thời gian gần đây tôi có đọc hai bài viết rất ấn tượng, một của nhà văn hoá
Nguyễn Gia Kiểng và một của nhà văn Phạm Thị Hoài. Cả hai cây viết này đều nhận định rằng kẻ sĩ hay “trí thức quan văn” tự bản chất đi theo lề thói phù chính thống—nghĩa là tự hiến mình làm tay sai cho kẻ thống trị. Trong văn cảnh này, chúng ta cũng thường nghe nói đến “trí thức trùm chăn” – trùm chăn cũng chỉ vì người trí thức chưa tìm ra một vị minh chuá để phục vụ.
Cũng nên nói thêm, một khi kẻ sĩ đốt đuốt đi tìm minh quân để phò, hắn không loại trừ được khả năng rơi vào vòng tay của một bạo chúa. Người trí thức truyền thống Việt Nam được đào tạo cho một chế độ nhân trị (rule of men), gặp vua tốt thì nhờ, gặp vua tồi dở thì ráng chịu. Gần đây, trên talawas blog, khi một vài tác giả áp dụng chuẩn mực trí thức phương Tây vào “kẻ sĩ” Việt Nam, muốn họ phải có một thái độ dứt khoát với chính quyền toàn trị, tôi thấy đây là một đòi hỏi khá gượng ép vì truyền thống trí thức của ta là phò vua, bây giờ có Đảng thì tự đặt mình dưới Đảng, là khứng chịu và thích nghi hơn là phản kháng.
Người ta có thể tìm thấy những tấm gương dũng cảm ở trong bất cứ tầng lớp xã hội nào, không nhất thiết phải ở trong lớp người được gọi là trí thức. Ngoài ra, khi một người đang sống ở nước ngoài, an ninh bản thân và gia đình được bảo đảm, vội vàng lên án những trí thức trong nước chỉ vì họ khuất phục trước bạo lực là nhục nhã, tôi thấy thái độ nghiêm khắc như thế là thiếu sòng phẳng, thậm chí có thể là ngụy tín (mauvaise foi).
Trong tình hình hiện nay, tôi nghiêng mình trước những tấm gương dũng cảm như Lê Thị Công Nhân, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Văn Ðài, Phạm Hồng Sơn và nhiều người nữa, bên cạnh đó tôi vẫn trân trọng ghi nhận những nỗ lực tuy âm thầm nhưng tích cực của nhiều trí thức khác, trong cũng như ngoài nước trên nhiều lãnh vực khác nhau.
Bằng thái độ tương tự, tôi nghiêng mình trước gương hi sinh của Nguyễn Thái Học và những đồng chí của ông, nhưng tôi vẫn biết ơn Phạm Quỳnh về những đóng góp của ông cho sự trưởng thành của văn chương quốc ngữ. Không thể đòi hỏi “mọi thứ hoa cúc phải nở ra cúc vạn thọ”, theo cách nói của nhà văn Phan Khôi thời Trăm hoa đua nở.
Nhìn lại lịch sử Việt Nam, với tất cả tâm thành và không một chút nghi ngờ như tôi đã nghi ngờ một số nhân vật lịch sử, tôi dành sự kính trọng cao nhất cho những ai đã đặt ra và phát huy loại chữ viết mà tôi đang dùng để viết bài này. Mặc dù Alexandre de Rhodes đã kết tập ra chữ Quốc ngữ vào thế kỉ 17 nhưng phải đợi đến thế kỉ 20 mới thấy được sự đại tập thành của nó nhờ những nỗ lực ráo riết để quảng bá nó trong đại chúng, qua Ðông Dương tạp chí, Nam Phong tạp chí, qua Tự Lực Văn Đoàn, Tiểu thuyết Thứ bảy, qua các đóng góp của những người tâm huyết như Nguyễn Văn Tố, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Hữu Đang…
Và phải đợi đến Chính phủ Trần Trọng Kim, tiếng Việt (Quốc ngữ) mới trở thành chuyển ngữ chính trong học đường. Với tôi, đây là một quá trình lịch sử rất thật và rất cảm động. Ngay trong thời niên thiếu của tôi, giữa thập niên 1950, ở miền Nam phong trào chống nạn mù chữ vẫn còn rầm rộ, phản ảnh qua một bài hát điệu Đăng đàn cung ở Huế mà tôi còn nhớ: “Này trai gái thuộc phái lao cần, mỗi ngày sau khi rồi việc, nên vào học các lớp bình dân. Cùng đôi mắt rạng quắc như người, tội tình chi ta mà chịu tối tăm mịt mù. Ta càng học càng khôn, càng tiến lên càng nhanh…”
Chữ Quốc ngữ giải phóng chúng ta ra khỏi những bí nhiệm do từ vựng Hán Việt tạo ra. Ở Huế ngay trong thế kỉ 20, người ta vẫn trịnh trọng dùng chữ Hán trong sinh hoạt cung đình. Xin trích một đoạn trong bài “
Vua Khải Định, hình ảnh và sự kiện” của Võ Hương An:
“Viên quan Bộ lễ phụ trách điều khiển chương trình bắt đầu xướng:
1 Bài ban 俳班 (chỉnh đốn hàng ngủ ngay thẳng)
2 Ban tề 班齊 (quay mặt về phía ngai vàng)
3 Cúc cung bái 鞠躬拜 (lạy năm lạy)
4 Hưng 興 (đứng lên)
5 Bình thân 平身(đứng thẳng người)
6 Hành tấn quang lễ 行晉光禮 (làm lễ đăng quang)
7 Bách quan giai quị 百官皆跪 ( Tất cả các quan đều quì xuống)”.

Hình ảnh một ông vua Việt Nam dùng chữ Hán để diễn tả ý tưởng bình thường của mình đã được nhà văn Phạm Quỳnh ghi lại thật dí dỏm như sau:
Khi dâng Hoàng thượng ta ngự phê thì thấy ngài cầm quản bút ra dáng nghĩ ngợi, các quan Tây có ý chờ đợi ngóng trông, bọn mình thì tưởng rằng chắc ngài nghĩ một bài thơ nôm hay thơ chữ Đường luật hay tứ tuyệt gì, nên mới lâu như thế. Lúc bấy giờ cử hội im phăng phắc, ai cũng để mắt vào nhìn, có cái vẻ oai nghiêm vô cùng. Tưởng chừng đức Chí tôn ta, đương khi mấy trăm con mắt ném ánh sáng vào bàn tay ngọc đó, – ngọc thật, vì ngài thường đeo nhẫn kim cương quý giá lắm, – thời:
Tay tiên gió táp mưa sa,
Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu
ngay tức thì.Nhưng mà không! Cứ thấy cái quản bút quằn quại trên tay, mà không thấy viết chữ gì. Năm phút, mười phút, mười lăm phút, người đứng chung quanh đã thấy thì thào động đậy, kẻ nói nhỏ, người đưa mắt, anh em đồng bang mình thì vừa nóng ruột, vừa động lòng. Sau mới thấy ngòi bút chuyển động; ai nấy thở dài! Hỏi ra thì không phải thơ ngũ ngôn tứ tuyệt gì, chỉ có một câu chữ Hán rằng: năm ấy, tháng ấy, đức Hoàng đế Việt Nam đến ngự nhà Hội, thế mà thôi – Ấy đức Chí tôn ngài viết một chữ một câu cũng thận trọng như thế…
(Trích từ
Hoàng đế Khải Định dưới con mắt thần dân Phạm Quỳnh”, Pham Ton’s Blog)

Phạm Quỳnh ghi lại sự kiện này trên trang nhật kí đề ngày 26 tháng 6 năm 1922. Việc Khải Định dùng chữ Nho để phát biểu một ý nghĩ bình thường chứng tỏ rằng trong hầu hết lịch sử của mình, người Việt Nam gần như không mấy quan tâm đến chữ viết để kí âm ngôn ngữ họ đang nói. Hay nói cách khác, dân tộc ta đã kinh qua một lịch sử mù chữ quá lâu dài.
Sự kiện này là một trong những nhân tố gây ra tình trạng chậm tiến của toàn dân tộc. Chúng ta đã có những trang sử hoành tráng (có khi huyênh hoang) về những chiến tích chống giặc ngoại xâm, nhưng chúng ta đã phớt lờ những cá nhân và phong trào đã nhiệt tình đi tiên phong trong việc chống giặc dốt (tức nạn mù chữ). Tượng Alexandre de Rhodes bị đập phá dưới “ngọn cờ vẻ vang” chống thực dân đế quốc, Nguyễn Hữu Đang bị vất qua một xó ở một làng quê xa xôi.
Trong trí tưởng của tôi, một anh lao động phổ thông Trung Quốc có lẽ sẽ nở mũi tự hào khi đứng trước miếu môn lăng tẩm ở Huế, mặc cảm tự tôn sô-vanh nước lớn của anh sẽ được căng phồng, chỉ vì anh nhận ra dấu ấn văn hoá của Tàu đã in sâu đậm như thế nào trên mảnh đất chữ S dễ thương này, anh đọc lưu loát các bia văn bằng tiếng mẹ đẻ cuả anh, trong khi người bản xứ là đám ngu ngơ mù chữ ngay trước di tích lịch sử của mình. Trong mắt anh, các hoàng đế của ta bất quá cũng chỉ là những con rồng bé so với những con rồng sừng sõ ở Thiên triều.
Sự khinh thị là mẹ đẻ của mọi hành vi bạo ngược, chẳng hạn như chế độ phân chủng Jim Crow, từng tồn tại ở Hoa Kì cho đến thời Kennedy, đặt cơ sở trên tín lí rằng người da đen là một chủng tộc hạ đẳng (inferior race) đối diện với tính ưu việt của người da trắng (White supremacy). Trước khi bị Hitler cho vào trại tập trung và phòng hơi ngạt, người Do Thái đã từng bị văn hóa phương Tây bôi bác, vùi dập, là “quân dữ” đã giết Đức Ki-Tô, là một giống dân bần tiện và sa đọa.
Việc “tàu lạ” ủi vào thuyền đánh cá của bà con ngư dân và cảnh đến cả trăm công nhân Trung Quốc cầm gậy gộc đến hành hung một gia đình hàng quán Việt Nam trên đất Việt Nam là dấu tỏ của một sự khinh thị có từ trong huyết quản của các “đồng chí Trung Quốc” đối với bọn “Nam man”, bọn đã mang ơn Trung Quốc từ chữ viết (mà giới tinh hoa bản xứ đã sử dụng trong gần hết lịch sử), đạo lí thánh hiền, cả sức người sức của trong các cuộc chiến tranh chống “thực dân, đế quốc” của Việt Nam trong thế kỉ 20.
Như trên đã thú nhận, người viết bài này chia sẻ kinh nghiệm mù chữ có tính lịch sử của đại khối dân tộc. Những điều vừa giải toả chỉ là ý nghĩ thành thật của một người bình dân, dựa vào tri thức thường nghiệm là chính, nên nhất định có những sai lầm đáng trách, rất mong được quí học giả có trình độ văn chương và sử học về xã hội Việt Nam truyền thống chỉ giáo.


No comments: