Sau
30/4/1975 tự điển tiếng Anh xuất hiện từ "Boat People" - Thuyền nhân
tỵ nạn chính trị cộng sản dành cho Việt Nam, nay trở thành cho toàn cầu - thì
hôm nay trong tự điển tiếng Anh có thêm một từ mới: "Book People" -
Người tỵ nạn giáo dục của cộng sản ở Việt Nam. Một bài viết rất độc đáo của một
nghiên cứu sinh kinh tế học ở trường kinh tế Lý Quang Diệu thuộc đại học quốc
gia Tân Gia Ba. Việt Nam, đất nước có một dân tộc quả đến lạ kỳ!
Bài
viết gốc trên Diplomat: Vietnam's
Book People
Một
cuộc tỵ nạn mới đang diễn ra ở Việt Nam.
Hơn hai
thập niên sau cuộc tỵ nạn chính trị của "thuyền nhân" Việt
Nam, hiện nay một cuộc tỵ nạn mới bằng giáo dục ở Việt Nam đang đạt đỉnh điểm.
Ngày càng có nhiều sinh viên Việt Nam ở độ tuổi đại học đang theo đuổi bằng cấp
ở nước ngoài. Những người di cư mới - người có thể được gọi là "dân
tỵ nạn giáo dục" - nhìn thấy giá trị cao ở bằng cấp Mỹ, Anh, và
trường học ở Úc. Hơn nữa, có nhiều du sinh Việt ở các quốc gia mà họ đến du học,
sau khi tốt nghiệp, bị thu hút bởi việc được trả lương cao phù hợp với kỹ năng
của họ. Hai yếu tố này có thể làm chảy máu chất xám: tăng trưởng trong các
ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao và việc cải thiện liên tục ở các trường
đại học nước ngoài mà họ theo học. Những chiến lược này cũng có thể là một lộ
trình cho các nước đang phải đối mặt với những thách thức di dân tương tự.
Theo
Trung tâm Nghiên cứu Pew, số lượng sinh viên Việt Nam du học tại Hoa Kỳ tăng gấp
bảy lần từ năm 2000 đến năm 2014 (từ con số 2266 sinh viên hiện nay có đến
16.579). Báo cáo này cũng cho thấy rằng hơn một phần ba số sinh viên Việt Nam
đang làm việc nghiên cứu ở Hoa Kỳ. Đây có phải là một bản cáo trạng về khả năng
của Việt Nam trong giáo dục tạo ra thế hệ mới cho những lãnh đạo kỹ trị? Trong
một bài báo gần đây, một cựu bộ trưởng giáo dục Việt Nam than phiền rằng hệ thống
giáo dục của đất nước rằng: "Giáo dục đại học quá tệ hai. Sách giáo khoa
thì đầy rẫy những điều vô bổ, lý thuyết tẻ nhạt." Trong một bài báo, một
công chức Việt và mẹ của một du sinh mô tả hệ thống như là"tất cả của những
áp lực và dối trá." Bà phàn nàn về việc học thuộc lòng và bóp nghẹt sự
sáng tạo được chính quyền duy trì một cách kiên trì và cứng nhắc.
Ngoài
những yếu tố trên, yếu tố chèo kéo đang khiến cho sự di cư của dân hiếu học. Một
số quốc gia tích cực tuyển dụng sinh viên du học để tăng doanh thu học phí. Ví
dụ, năm 2014 chính phủ Canada đã thông báo ý định tăng gấp đôi số lượng tuyển
du sinh đến gần nửa triệu người vào năm 2022; Việt Nam được xác định là một
"thị trường ưu tiên", cùng với Trung Quốc, Brazil và Ấn Độ. Trong một
bài báo tháng chín của CBC - Canadian Broadcasting Corporatio- một nhân viên tại
một đại học ở Ottawa (không phân hạng trong top 50 của Canada) đã mô tả việc
tuyển dụng sinh viên nước ngoài là "cạnh tranh khốc liệt," nó là dấu
hiệu cho thấy nhu cầu vẫn cao ngay cả đối với các trường đại học ít được biết đến.
Đại học
Việt Nam không chịu rút lui trong lặng lẽ. Đầu tư cơ sở và tuyển dụng đội ngũ
giảng viên quốc tế là chiều hướng phổ biến cho các đối thủ cạnh tranh. Một cuộc
chạy đua gần đây như vũ bão về việc xây dựng khuôn viên trường đại học theo kiểu
dại học Hoa Kỳ đã khiến các đại học Việt đầu tư chi tiêu mạnh tay, hoang phí
vào ký túc xá, khu thể thao, và trung tâm giải trí của sinh viên. Nhiều khuôn
viên trường hiện nay giống như các câu lạc bộ xa hoa của quốc gia, thậm chí việc
chi tiêu này cũng được đưa vào tiêu chí xếp hạng mới. Không chịu thua kém, Đại
học FTP tại thành phố HCM vừa công bố kế hoạch cho một khuôn viên trường
"xanh" có vẻ kiến trúc hùng vĩ sẽ xuất hiện để cạnh tranh với các trường
đại học giàu nhất thế giới.
Giáo dục
thường có liên quan đến tăng trưởng kinh tế. Không một quốc gia muốn bị buộc
vào một cuộc chiến chi phí lao động, vì giá thành sản phẩm cao sẽ tạo ra một vị
thế cạnh tranh không bền vững. Do đó năng suất cao thông qua phát triển kỹ năng
là một chiến lược chung. Tuy nhiên, sản phẩm có giá trị gia tăng cao có thể được
bằng cách cho du nhập giá trị gia tăng thấp, và những thập niên tới có khả năng
nhìn thấy sự cạnh tranh toàn cầu cho đầu tư trình độ học vấn lan tỏa. Trong một
nền kinh tế như Việt Nam, sản xuất công nghiệp - bất kể mức độ giá trị của nó -
vẫn bị điều khiển trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các doanh nghiệp nước ngoài.
Ngay cả việc nâng cấp giá trị sản phẩm cũng không làm thay đổi một thực tế rằng,
nhiều việc làm công nghiệp, bao gồm cả những việc được thực hiện bởi các kỹ sư
được đào tạo bậc đại học, được cung cấp bởi các nhà đầu tư nước ngoài thì họ vẫn
ít quan tâm đến nước chủ nhà ngoài lợi thế chi phí lao động thấp. Làm thế nào một
đất nước có thể tiến xa hơn cái vòng luẩn quẩn này để tạo ra một bước nhảy xa
cho giá trị gia tăng?
Sản xuất
với kỹ năng cao cuối cùng vẫn là "lộ trình" làm việc; nó không phải
là quản lý và cũng không phải là sở hữu. Tăng trưởng kinh tế do chuyển đổi sẽ
không xảy ra cho đến khi các phương tiện sản xuất thuộc sở hữu và quản lý bởi
nhiều doanh nghiệp trong nước hơn là bởi các công ty nước ngoài. Đây không phải
là để cho thấy rằng các công ty nước ngoài không có chỗ đứng tại Việt Nam. Tuy
nhiên, sự gia tăng hiện diện và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sở hữu
trong nước sẽ tốt hơn cho việc quay vòng lợi nhuận và vốn cho nền kinh tế Việt
Nam; nước này có thể di chuyển ra khỏi sự phụ thuộc vào gia công phần mềm và hướng
tới tự lực. Quan điểm này không ủng hộ chủ nghĩa biệt lập và cũng không bảo hộ
mậu dịch. Doanh nghiệp trong nước mạnh hơn có thể và nên khai thác các thị trường
quốc tế và đầu tư nước ngoài. Không dùng các hạn chế thương mại và trợ cấp công
nghiệp cũng sẽ tạo áp lực cạnh tranh để các công ty phải đổi mới. Để kết thúc vấn
đề này, xây dựng năng lực công ty trong nước phải là một sự nỗ lực đứng trên
đôi bàn chân của mình, nó được hỗ trợ bởi chất lượng giáo dục và những chính
sách hỗ trợ phát triển cộng đồng.
Vấn đề
đặt ra là làm thế nào giáo dục có thể đóng góp vào việc đạt được mục tiêu này.
Sinh viên Việt Nam phải có tư duy của một doanh nhân, và hệ thống đại học của
nước Việt nên chuẩn bị chúng cho phù hợp. Sự gia tăng gần đây của chương trình
kinh doanh - nhiều người trong các tổ chức phi lợi nhuận - dường như không thể
làm chậm làn sóng tỵ nạn giáo dục. Trong một bài báo năm 2013, một cựu chủ tịch
trường RMIT-Việt Nam tỏ ra bất ngờ về số lượng sinh viên tốt nghiệp RMIT bắt đầu
có doanh nghiệp riêng của họ. Có lẽ giáo dục kiểu phương Tây (bên trong hoặc
bên ngoài Việt Nam) thu hút người ta thiên về kinh doanh, song các kỹ năng đã học
trong các trường đại học nước ngoài cũng có thể đã định hình chiến lược nghề
nghiệp cho sinh viên và triết lý kinh doanh theo những cách mới.
Việt
Nam đã đạt được tiến bộ kinh tế đáng chú ý kể từ cải cách đổi mới vào năm 1986.
Nhưng tăng trưởng sẽ không thể thực hiện được nếu không có sự khéo léo và tham
vọng của người dân Việt. Thật vậy, nước này gần đây đã được cải thiện xếp hạng
toàn cầu của mình tăng 19 bậc (để đạt thứ # 54) trong chỉ số đổi mới toàn cầu của
Tổ chức Sở hữu trí tuệ toàn cầu - World Intellectual Property Organization’s
global innovation index. Hơn nữa, hệ thống trường trung học của nước này gần
đây đã tạo ra sự chú ý khi được xếp hạng # 12 trong toán học và khoa học của những
kiểm tra do Chương trình đánh giá sinh viên quốc tế - PISA tests: Programme for
International Student Assessment. Tuy nhiên, một phần đáng lo ngại về tiềm năng
sáng tạo to lớn và trẻ trung của Việt Nam tiếp tục bị mất bởi phương Tây.
Việt
Nam phải làm việc tích cực để thúc đẩy hình ảnh của hệ thống giáo dục đại học của
mình, không chỉ trong bảng xếp hạng toàn cầu mà còn trong lòng công dân của
mình. Để cạnh tranh thành công cho việc đúc tài năng, các trường đại học trong
nước phải tiếp tục điều chỉnh và tinh túy các chương trình giảng dạy và phong
cách giảng dạy hơn là phải chạy theo một cách hụt hơi với các trường đại học
phương Tây. Đây là những gì thị trường hiện nay đòi hỏi, và sẽ là một bước quan
trọng hướng tới tăng trưởng kinh tế chuyển đổi cho Việt Nam.
Asia Clinic, 16h48' ngày
thứ Sáu, 30/10/2015
No comments:
Post a Comment