Tác giả: Nhật Nguyệt
Bài đã được xuất bản.: 11/07/2011 05:00 GMT+7
Việc để những nhà giáo, nhà khoa học xứng đáng được được tưởng thưởng, được ghi nhận phải chạy chọt, luồn cúi để đạt được một chức danh mà hiển nhiên họ phải được trịnh trọng trao tặng là đi ngược truyền thống tôn sư trọng đạo mà chúng ta vẫn luôn ra rả dạy con trẻ.
Đúng lúc xã hội đang tranh luận nóng bỏng về con số 70.000 tỷ đồng sắp sửa được rót ra hầu mong thay đổi cục diện ngành giáo dục, người viết bài này lại dở khóc dở cười khi được giao một công việc quan trọng: Tham gia vào nhóm chuẩn bị hồ sơ đề nghị công nhận chức danh Phó Giáo sư (PGS) cho… sếp.
Tưởng vậy mà không phải vậy!
Khoan hãy đặt câu hỏi tại sao chuyện đó khiến tôi dở khóc, dở cười. Tôi phải khẳng định ngay từ đầu rằng, trong con mắt cá nhân tôi và đồng nghiệp, sếp của chúng tôi thực sự xứng đáng được phong PGS. Là lãnh đạo một khoa đào tạo lớn của một trường đại học danh tiếng, sếp tôi có bằng tiến sĩ nước ngoài và quan trọng nhất là tinh thần làm việc không biết mệt mỏi. Ông còn sắp xếp chu toàn mọi công việc trong và ngoài khoa, tham gia các đề tài nghiên cứu, viết giáo trình, hướng dẫn sinh viên, học viên cao học...
Tình trạng thiếu giáo viên khiến sếp, dù là giảng viên kiêm chức, cũng phải lên lớp nhiều không kém gì các giảng viên bình thường khác. Sếp luôn phải đánh vật với hàng núi công việc chồng chất, mới xong việc này lại phát sinh việc khác trong guồng quay không bao giờ ngừng nghỉ của một năm học. Tôi thường trộm nghĩ, sếp làm việc với cường độ ấy mà không được phong PGS, thì cỡ như tôi có lẽ cả đời cũng chẳng dám mơ cái chức danh ấy.
Tưởng vậy mà không phải vậy. Hóa ra để đạt được cái chức danh PGS khó hơn tôi tưởng. Chẳng thế mà một đồng nghiệp khác của tôi đã phải chối đây đẩy khi có người gợi ý nộp hồ sơ vì mấy từ giản dị thế này: “Nhục lắm em ạ!”
Nhà báo Hồ Bất Khuất từng nói về chuyện này qua bài báo “Einstein xin phong GS ở Việt Nam cũng trượt!” cách đây không lâu, nhưng đó là câu chuyện ở hậu trường ít người biết đến. Còn những gì tôi đang chứng kiến nó lồ lộ ra trước mắt: Giảng viên nào trong giai đoạn chạy hồ sơ nước rút cũng lao đao cả.
Nào là những bài báo viết đã từ bao lâu, giờ phải bới tung lên để đưa vào hồ sơ. Nếu chẳng may lưu trữ không tốt (vì có phải ai viết bài cũng để chuẩn bị xin phong PGS?) thì phải chạy tới từng tòa soạn xin lại số báo đó, hoặc lần mò trên mạng để tìm lại từng trang mục lục. Vốn đã quá tải với công việc giảng dạy, nghiên cứu... lại còn thêm công tác quản lý, thế nên tất yếu những người như sếp tôi phải có một ban lo chạy hồ sơ, giấy tờ.
Nên có những lúc văn phòng của khoa cứ như tiệm photocopy với đủ thứ giấy tờ, tài liệu ngổn ngang. Hỏi một đồng nghiệp có kinh nghiệm tham gia vào những ban như thế này mới biết, đây mới chỉ là giai đoạn đầu, coi như bước sơ khởi, về sau sẽ còn hàng chục lần chỉnh sửa, bổ sung, chạy đôn chạy đáo ngược xuôi...
Chưa kể để kịp thời hạn, có nhiều thứ phải đẩy lên cho xong. Nào là in ấn giáo trình, nào là xét duyệt đề tài NCKH các cấp, tổ chức hội thảo...để có thêm điểm công trình. Cũng lạ cho cách tính điểm của nước ta. Vì tạo ra một cơ chế tưởng như chặt chẽ nhưng vô cùng bất hợp lý nên đã bao lần tôi nhìn vào lý lịch khoa học của các vị GS, PGS thì đều thấy chung một đặc điểm: Trước thời điểm được phong chức danh thì dồn dập công trình nọ kia; sau khi “xong việc” thì thưa thớt hẳn, thậm chí chẳng có thêm bài báo khoa học hay đề tài nghiên cứu nào!
Nếu Việt Nam cứ mãi khác người…
Theo lẽ thường tình, bất cứ một người với trí tuệ bình thường nào cũng hiểu học hàm GS hay PGS được phong cho những nhà giáo uyên thâm, nhiều năm kinh nghiệm và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp khoa học và giáo dục.
Vì thế, lẽ ra, Ủy ban chức danh lập ra là để theo dõi, để xem xét và chủ động phong tặng học hàm này cho những người xứng đáng. Việc để những nhà giáo, nhà khoa học xứng đáng được được tưởng thưởng, được ghi nhận phải chạy chọt, luồn cúi để đạt được một chức danh mà hiển nhiên họ phải được trịnh trọng trao tặng là đi ngược truyền thống tôn sư trọng đạo mà chúng ta vẫn luôn ra rả dạy con trẻ.
Có một chuyện mà ai cũng biết nhưng khi nói ra trên mặt báo, nhiều người lại nhăn mặt tỏ ra khó chịu. Số là, tôi có người thân trong đoàn giảng viên một tỉnh phía Bắc kéo về Hà Nội hồi đầu năm, để thi nâng ngạch giảng viên chính.
Trong tin tức hàng ngày tôi được cập nhật, không khi nào không có chuyện đoàn đã “đi” những cửa nào, tốn bao nhiêu tiền. Đó là chuyện chua chát hệt như nỗi đau khổ của những người muốn được phong GS, PGS. Thử hỏi nếu những người thầy khốn khổ theo một nghĩa nào đó, không phải là giảng viên chính thì ai mới là giảng viên chính? Tại sao họ lại phải đi “xin” được công nhận- một điều hiển nhiên- từ những người “leng keng” những học hàm học vị nhưng có khi cả đời chưa từng biết rát cổ vì giảng bài 12 tiết một ngày?
Tôi cũng muốn nói thêm rằng, đều đặn chúng tôi vẫn nhận được thư từ nước ngoài gửi về khoa, dù không rõ học hàm, học vị của giảng viên Việt Nam chúng ta ra sao, ngoài phong bì thư họ đều nhã nhặn gọi tất cả những người thầy đang đứng trên giảng đường đại học bằng danh xưng “Professor”.
Nói chuyện này ra không phải tôi không hiểu cuộc tranh luận dài hơi về sự khác nhau giữa chức danh giáo sư ở nước ta và giáo sư ở nước ngoài. Nhưng thế mới biết, nếu chúng ta cứ mãi khác người, thì đến bao giờ nền giáo dục mới đi được đúng hướng? Nếu những vấn đề ngang trái còn diễn ra và được chấp nhận một cách phổ quát như thể đó là nguyên tắc bất thành văn của nền giáo dục; nếu những giá trị thật phải ngoi ngóp vật lộn mới được công nhận thì dù có bỏ ra cả trăm ngàn tỉ đi chăng nữa cũng sẽ chẳng thể nào thay đổi được nền giáo dục nước nhà.
Tưởng vậy mà không phải vậy!
Khoan hãy đặt câu hỏi tại sao chuyện đó khiến tôi dở khóc, dở cười. Tôi phải khẳng định ngay từ đầu rằng, trong con mắt cá nhân tôi và đồng nghiệp, sếp của chúng tôi thực sự xứng đáng được phong PGS. Là lãnh đạo một khoa đào tạo lớn của một trường đại học danh tiếng, sếp tôi có bằng tiến sĩ nước ngoài và quan trọng nhất là tinh thần làm việc không biết mệt mỏi. Ông còn sắp xếp chu toàn mọi công việc trong và ngoài khoa, tham gia các đề tài nghiên cứu, viết giáo trình, hướng dẫn sinh viên, học viên cao học...
Tình trạng thiếu giáo viên khiến sếp, dù là giảng viên kiêm chức, cũng phải lên lớp nhiều không kém gì các giảng viên bình thường khác. Sếp luôn phải đánh vật với hàng núi công việc chồng chất, mới xong việc này lại phát sinh việc khác trong guồng quay không bao giờ ngừng nghỉ của một năm học. Tôi thường trộm nghĩ, sếp làm việc với cường độ ấy mà không được phong PGS, thì cỡ như tôi có lẽ cả đời cũng chẳng dám mơ cái chức danh ấy.
Tưởng vậy mà không phải vậy. Hóa ra để đạt được cái chức danh PGS khó hơn tôi tưởng. Chẳng thế mà một đồng nghiệp khác của tôi đã phải chối đây đẩy khi có người gợi ý nộp hồ sơ vì mấy từ giản dị thế này: “Nhục lắm em ạ!”
Nhà báo Hồ Bất Khuất từng nói về chuyện này qua bài báo “Einstein xin phong GS ở Việt Nam cũng trượt!” cách đây không lâu, nhưng đó là câu chuyện ở hậu trường ít người biết đến. Còn những gì tôi đang chứng kiến nó lồ lộ ra trước mắt: Giảng viên nào trong giai đoạn chạy hồ sơ nước rút cũng lao đao cả.
Nào là những bài báo viết đã từ bao lâu, giờ phải bới tung lên để đưa vào hồ sơ. Nếu chẳng may lưu trữ không tốt (vì có phải ai viết bài cũng để chuẩn bị xin phong PGS?) thì phải chạy tới từng tòa soạn xin lại số báo đó, hoặc lần mò trên mạng để tìm lại từng trang mục lục. Vốn đã quá tải với công việc giảng dạy, nghiên cứu... lại còn thêm công tác quản lý, thế nên tất yếu những người như sếp tôi phải có một ban lo chạy hồ sơ, giấy tờ.
Nên có những lúc văn phòng của khoa cứ như tiệm photocopy với đủ thứ giấy tờ, tài liệu ngổn ngang. Hỏi một đồng nghiệp có kinh nghiệm tham gia vào những ban như thế này mới biết, đây mới chỉ là giai đoạn đầu, coi như bước sơ khởi, về sau sẽ còn hàng chục lần chỉnh sửa, bổ sung, chạy đôn chạy đáo ngược xuôi...
Chưa kể để kịp thời hạn, có nhiều thứ phải đẩy lên cho xong. Nào là in ấn giáo trình, nào là xét duyệt đề tài NCKH các cấp, tổ chức hội thảo...để có thêm điểm công trình. Cũng lạ cho cách tính điểm của nước ta. Vì tạo ra một cơ chế tưởng như chặt chẽ nhưng vô cùng bất hợp lý nên đã bao lần tôi nhìn vào lý lịch khoa học của các vị GS, PGS thì đều thấy chung một đặc điểm: Trước thời điểm được phong chức danh thì dồn dập công trình nọ kia; sau khi “xong việc” thì thưa thớt hẳn, thậm chí chẳng có thêm bài báo khoa học hay đề tài nghiên cứu nào!
Nếu Việt Nam cứ mãi khác người…
Theo lẽ thường tình, bất cứ một người với trí tuệ bình thường nào cũng hiểu học hàm GS hay PGS được phong cho những nhà giáo uyên thâm, nhiều năm kinh nghiệm và có nhiều đóng góp cho sự nghiệp khoa học và giáo dục.
Vì thế, lẽ ra, Ủy ban chức danh lập ra là để theo dõi, để xem xét và chủ động phong tặng học hàm này cho những người xứng đáng. Việc để những nhà giáo, nhà khoa học xứng đáng được được tưởng thưởng, được ghi nhận phải chạy chọt, luồn cúi để đạt được một chức danh mà hiển nhiên họ phải được trịnh trọng trao tặng là đi ngược truyền thống tôn sư trọng đạo mà chúng ta vẫn luôn ra rả dạy con trẻ.
Có một chuyện mà ai cũng biết nhưng khi nói ra trên mặt báo, nhiều người lại nhăn mặt tỏ ra khó chịu. Số là, tôi có người thân trong đoàn giảng viên một tỉnh phía Bắc kéo về Hà Nội hồi đầu năm, để thi nâng ngạch giảng viên chính.
Trong tin tức hàng ngày tôi được cập nhật, không khi nào không có chuyện đoàn đã “đi” những cửa nào, tốn bao nhiêu tiền. Đó là chuyện chua chát hệt như nỗi đau khổ của những người muốn được phong GS, PGS. Thử hỏi nếu những người thầy khốn khổ theo một nghĩa nào đó, không phải là giảng viên chính thì ai mới là giảng viên chính? Tại sao họ lại phải đi “xin” được công nhận- một điều hiển nhiên- từ những người “leng keng” những học hàm học vị nhưng có khi cả đời chưa từng biết rát cổ vì giảng bài 12 tiết một ngày?
Tôi cũng muốn nói thêm rằng, đều đặn chúng tôi vẫn nhận được thư từ nước ngoài gửi về khoa, dù không rõ học hàm, học vị của giảng viên Việt Nam chúng ta ra sao, ngoài phong bì thư họ đều nhã nhặn gọi tất cả những người thầy đang đứng trên giảng đường đại học bằng danh xưng “Professor”.
Nói chuyện này ra không phải tôi không hiểu cuộc tranh luận dài hơi về sự khác nhau giữa chức danh giáo sư ở nước ta và giáo sư ở nước ngoài. Nhưng thế mới biết, nếu chúng ta cứ mãi khác người, thì đến bao giờ nền giáo dục mới đi được đúng hướng? Nếu những vấn đề ngang trái còn diễn ra và được chấp nhận một cách phổ quát như thể đó là nguyên tắc bất thành văn của nền giáo dục; nếu những giá trị thật phải ngoi ngóp vật lộn mới được công nhận thì dù có bỏ ra cả trăm ngàn tỉ đi chăng nữa cũng sẽ chẳng thể nào thay đổi được nền giáo dục nước nhà.
----------------------------
Tác giả: Hà Văn Thịnh
Bài đã được xuất bản.: 12-7-2011
Xã hội phải có trách nhiệm tôn vinh những nhân cách, tài năng, công lao ấy một cách xứng đáng. Có như thế thì "phần thưởng" của cuộc đời mới xứng đáng đến trọn đời.
Các thế hệ đuổi theo phiếu... Bé Ngoan
Theo truyền thuyết (hay là dã sử, huyền sử) Mặc Tử (khoảng 479-381 trước CN) có nói rằng trên đường ông chỉ thấy hai loại người: Loại đi kiếm danh, còn loại kia đi tìm lợi. Ngày nay, thời thế đổi thay, danh luôn đi kèm với lợi.
Không phải ngẫu nhiên mà khi đụng đến chuyện gì "liên quan đến" bổng lộc hay chức vụ (có danh, có phận, có lợi đủ đường) thì tất cả đều phải chạy! Chuyện chạy và xin - cho, nhiều và phổ biến đến nỗi nó trở thành một thuộc tính của thời đại nhiễu nhương, khiến cho con người, nếu không nghĩ đến thì thôi, đã ngẫm suy chút ít, nặng thì xót xa, nhẹ thì chỉ còn biết thở dài.
Thử nghĩ mà xem khi ta bắt đầu việc giáo dục cho con trẻ thành người là toàn bộ các vấn đề xoay quanh cái phiếu Bé Ngoan. Trẻ nào cũng phải có phiếu, đem về được bố mẹ trân trọng dán lên cửa tủ hay cửa ra vào, ai đến cũng khoe. Thế rồi, lâu dần thành cái nghiện của vô thức, suốt cả cuộc đời thành người, làm người, các thế hệ cứ nối tiếp nhau đuổi theo phiếu Bé Ngoan cho dù hình thức và nội hàm, ngoại diên của nó cứ thay đổi và được cuộc đời lượng hoá theo các cấp độ khác nhau.
Chế độ nào hay nhà nước nào cũng cần có sự tưởng thưởng cho người có công, người có tài những "phần thưởng" xứng đáng để tôn vinh. Nếu nó đúng về cách thức, đủ về mức độ của sự khen, ghi nhận và nó càng hiếm, càng khó thì sự vinh danh càng giá trị, người nhận được càng thấy tự hào. Ngược lại, nếu lạm dụng sự khen chê, coi sự tôn vinh như là một cái gì đó vừa "khó khăn" vừa dễ dãi, vừa phổ biến thì tác dụng ngược chiều là lẽ đương nhiên.
Không phải tự nhiên mà dư luận thời nay kêu ca nhiều đến thế về chuyện "ban cho" các danh hiệu hay học hàm, học vị. Nguyên nhân của sự xập xí xập ngầu có nhiều nhưng chung quy lại có thể tóm lược thế này ở 3 điểm.
a) Muốn được phong tặng danh hiệu phải kê khai thành tích - một cách nói cho dễ nghe của cái thực tế là phải làm đơn để được Hội đồng duyệt xét. Hãy thử nghĩ xem chuyện một cán bộ trẻ mới được giữ lại trường, vì trẻ nên được phân cho làm Bí thư Liên chi đoàn Khoa - tức là đương nhiên ngồi vào chỗ Bộ tứ (chi bộ, khoa, công đoàn, đoàn) để xét xem thử thầy mình hôm qua giữ mình lại, hôm nay có xứng đáng là giáo viên dạy giỏi hay không!).
Cái não nề khó tin ấy đã và đang là một thực tế hiển nhiên nên khiến cho người thầy thấy mình như bị xúc phạm khi phải làm đơn kê khai thành tích, photo bài báo để được học trò công nhận là giáo viên dạy giỏi(?)
Đây là nguyên nhân chính để người viết bài này suốt hàng chục năm không bao giờ kê khai thành tích nên không được công nhận giáo viên dạy giỏi, cho dù tự biết dạy dỗ không đến nỗi nào. Tại sao đã viết đến hàng trăm bài báo một năm mà cuối năm vẫn phải photo 1 bài cho Hội đồng lấy làm căn cứ?
b) Việc tính điểm các công trình để xét phong GS hay PGS vừa là sự mù loà, nửa đen nửa trắng lại mang đậm cái mùi vị khác thường. Chỉ một nhóm người đã qua truông, bỗng nhiên có quyền phán định số phận của người khác.
Vì cái sự này nên mới có chuyện cười ra nước mắt. Năm ngoái anh bị xét, năm nay anh được quyền xét! Cả một xã hội, môi trường đại học cứ rối như canh hẹ: Mời thầy từ Hà Nội vào dạy không phải vì chuyên môn mà vì thầy có trong Hội đồng xét danh hiệu trong khi ông trưởng hay phó khoa đang chờ đến lượt... Thế là, thầy cứ dạy 45 tiết trong vài ba buổi, cầm cỡ trên dưới chục triệu đồng, yên tâm và vui vẻ tất cả thầy ngoài kia, thầy trong này, chỉ khổ sinh viên khóc đứng rên ngồi buồn đau không kể xiết.
c) Nếu những vị cây đa, cây đề xứng đáng về kiến thức, sáng ngời về đạo đức để cho mọi người tâm phục khẩu phục thì chẳng phải bàn cãi làm gì. Đằng này, cứ 3 PGS, GS (trong ngành KHXH) thì có đến 2 người không xứng đáng. Tại sao không biết chuyện cố GS Trần Quốc vượng kể rằng "một người không phải là GS (tức thầy Cao Xuân Huy) dạy cho cái thằng tôi là GS mà nghe cứ thun thút"?
Có phải là để đòi... cái gì đó?
Nếu đã được xã hội thừa nhận, được sinh viên tôn vinh thì Hội đồng cần gì phải hành hạ các nhân cách, những tài năng bằng đủ thứ nhiêu khê? Suy cho đến cùng, đẻ ra đủ thứ giấy tờ, đủ thứ nguyên tắc thì một là đòi... cái gì đó, hai là để thoả mãn tính quyền lực, muốn hành hạ người khác. Tại sao cả GS, PGS, Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ sĩ Nhân dân cũng phải đi chạy vạy, quan hệ hữu hảo với hết thành viên này đến thành viên khác? Làm như thế, trên thực tế là cả một mê cung mà con người có nhân cách (có hiểu biết, có đủ lòng tự trọng) vẫn cứ tiếp tục không chịu hiểu nhau.
Tại sao không đặt ra một cơ chế rằng các thành viên Hội đồng có trách nhiệm phải tự tìm hiểu thầy giáo đó, vị nghệ sĩ kia có xứng đáng để tôn vinh hay không? Cách làm đâu có khó gì. Nếu là tầm để phong GS hay PGS, chỉ cần am hiểu chuyên môn thông qua các bài viết chất lượng là được.
Còn để phát phiếu thăm dò trong sinh viên hay giảng viên thì chỉ là một cuộc điều tra xã hội học rất nhỏ. Về nghệ sĩ cũng tương tự như thế. Nếu cách làm này được áp dụng một cách khách quan thì chắc chắn chất lượng của những người được tôn vinh sẽ tốt hơn cũng như họ chắc chắn sẽ hài lòng hơn vì được tôn trọng thât sự (tôn vinh mà không được tôn trọng thì thà đừng tôn vinh còn hơn).
Ngạn ngữ Pháp có một câu rất hay, đại ý rằng vấn đề không phải là món quà mà là cách trao quà. Tôn vinh một ai đó "món quà" GS, PGS, NSƯT, NSND là một "món quà" có ý nghĩa của cả một đời người. Xã hội phải có trách nhiệm tôn vinh những nhân cách, tài năng, công lao ấy một cách xứng đáng. Có như thế thì "phần thưởng" của cuộc đời mới xứng đáng đến trọn đời.
Hội đồng phong học hàm, học vị hay phong danh hiệu nghệ sĩ phải là những hội đồng mở, được bầu chọn tương tự như bầu danh hiệu quả bóng vàng ở châu Âu, FIFA. Đó là cung cách bầu chọn thoả đáng nhất: Các phóng viên, các cầu thủ nổi tiếng, các trọng tài, các HLV đều được tham gia. Làm thế làm sao sai, làm sao không thấy tự hào?
Tại sao chúng ta không học tập cách làm vừa quang minh chính đại, vừa đạt được tầm đúng của sự chọn lọc, đạt đến tầm cao của lòng tự trọng- danh dự đáng được ghi nhận của những nhân tài?
.
.
.
No comments:
Post a Comment