Nguyễn Hưng Quốc
Thứ Sáu, 08 tháng 10 2010
Cần phải thú thật một điều: tôi không quan tâm mấy đến các giải thưởng văn học, ngay cả giải Nobel. Bởi vậy, mấy tuần vừa rồi, mặc dù biết giải thưởng sắp được công bố, tôi cũng không có chút tò mò hay nôn nao nào cả. Cũng không có ý định viết. Nhưng sáng nay, vào mạng, đọc báo nào cũng nhắc đến Mario Vargas Llosa và cái giải thưởng Nobel văn chương mà ông vừa nhận được, tự nhiên thấy ngứa ngáy.
Thôi thì viết.
Cũng xin nói ngay, không quan tâm, không phải tôi nghĩ Vargas Llosa không xứng đáng. Không phải. Từ lâu tên tuổi ông đã vang dội khắp thế giới và được xem là một trong vài cây bút viết văn xuôi bằng tiếng Tây Ban Nha vĩ đại nhất trong nửa thế kỷ vừa qua. Tôi chưa đọc cuốn tiểu thuyết nào của ông, nhưng lại đọc khá nhiều tiểu luận và các bài ông trả lời phỏng vấn. Thích. Thấy, ở ông, cả sự uyên bác lẫn sự lịch lãm; cả sự sâu sắc lẫn sự tinh tế, vừa rất sách vở vừa rất đời thường. Nói chung, tôi phục ông. Hơn nữa, mến ông.
Cũng không phải tôi cho giải Nobel là không có giá trị. Có chứ. Giá trị ở phần thưởng: khoảng một triệu rưỡi Mỹ kim, cao hơn hẳn hàng chục, hàng trăm, thậm chí, hàng ngàn lần, bất cứ giải thưởng văn chương lớn nào khác. Giá trị ở dư luận: hầu như không có cơ quan ngôn luận nào không theo dõi và đưa tin. Giá trị ở ảnh hưởng: bao giờ tác phẩm của người được giải cũng được săn lùng ở mọi hiệu sách. Ở nơi nào người ta chưa dịch thì vội vã dịch; chưa đọc thì vội vã đọc; chưa giới thiệu thì vội vã giới thiệu. Trong rất nhiều trường hợp, từ một nhà văn cấp quốc gia, có khi chưa được lên đẳng cấp quốc gia (ví dụ Cao Hành Kiện, ở cả Pháp lẫn Trung Quốc), trong vòng một hai ngày, người ta bỗng nổi danh cả thế giới. Cuối cùng, giá trị ở uy tín: Có thể nói, trong các loại giải thưởng, không có giải thưởng nào được người ta tin cậy như là giải Nobel. Việc công bố các giải thưởng Nobel hàng năm bao giờ cũng là một trong những sự kiện quan trọng nhất không những đối với lãnh vực văn học mà còn đối với các lãnh vực khác, từ vật lý đến hoá học, y khoa và kinh tế (không kể giải thưởng hoà bình vốn nặng về chính trị).
Giá trị của giải Nobel văn chương là điều không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, không nên tuyệt đối hoá giải Nobel. Không nên xem đó như một thước đo duy nhất hay ngay cả quan trọng nhất, trong việc đánh giá một tài năng hoặc một nền văn học. Không nên nghĩ văn học ViệtNam chỉ có thể có tầm vóc lớn khi, và chỉ khi, có ai đó đoạt được giải Nobel.
Trong lãnh vực văn học nghệ thuật, bất cứ giải thưởng nào, dù nổi tiếng và có uy tín đến mấy, cũng có tính chất tương đối và đầy những hạn chế. Có những hạn chế mà ngay cả khi muốn, người ta cũng không thể vượt qua được.
Trước hết, hạn chế về quan điểm. Tiêu chí lựa chọn của giải Nobel về văn chương khá rõ ràng: xuất sắc (outstanding) và lý tưởng (idealistic tendency). Chuyện xuất sắc trong lãnh vực văn học, nhất là giữa các thể loại và đặc biệt, giữa các ngôn ngữ khác nhau, là chuyện đầy chủ quan. Nhưng quan trọng không kém là tiêu chí thứ hai: tính chất lý tưởng. Nhiều người cho tiêu chí này vốn gắn liền với chủ nghĩa lãng mạn vốn còn khá thịnh hành vào cuối thế kỷ 19, lúc Alfred Nobel lập tờ di chúc. Với tiêu chí ấy, không có gì lạ khi nhiều tài năng thuộc loại kiệt xuất nhất và giàu tính sáng tạo nhất, có nhiều cống hiến nhất trong việc mở rộng tầm nhìn mỹ học của từng thể loại bị bỏ quên. Ví dụ những tài năng như Charles Baudelaire (1821-1867) hay Arthur Rimbaud (1854-1891), cho dù ra đời muộn hơn, cũng không có chút hy vọng gì được giải với lý do tư tưởng của họ không theo “xu hướng lý tưởng”. Ngay chính Leo Tolstoi không được trao giải cũng chỉ vì một lý do tương tự: Thời ấy, không ai hoài nghi tài năng của ông, nhưng các giám khảo vẫn cứ loại ông ra chỉ vì họ cho là ông có chủ trương vô chính phủ. Nhấn mạnh vào tính “lý tưởng”, nhiều lúc ban giám khảo đi lệch ra ngoài phạm vi văn học. Đó là lý do tại sao có một số người không thực sự là nhà văn mà vẫn đoạt giải Nobel văn chương, chẳng hạn, sử gia Christian Matthais Mommsen và chính khách viết hồi ký Winston Churchill; hay các triết gia Rudolf Eucken, Henri Bergson và Bertrand Russell. Đó cũng là lý do tại sao nhiều tên tuổi kiệt hiệt như Marcel Proust, Rainer Maria Rilke, James Joyce, Jorge Luis Borges, Vladimir Nabokov, v.v... không được tặng giải (Chúng ta không tính Franz Kafka, người chỉ thực sự nổi tiếng sau khi đã qua đời).
Sau nữa là hạn chế liên quan đến con người. Ban giám khảo giải Nobel văn chương thường bao gồm từ 4 đến 5 người trong số 18 viện sĩ thường trực thuộc Hàn lâm viện Thụy Điển. Vào cuối tháng giêng, người ta có danh sách những tác giả được đề cử từ khắp nơi gửi tới. Danh sách này có thể lên đến hàng trăm người. Trong vòng hai tháng, ban giám khảo sẽ bàn bạc để rút danh sách này xuống còn khoảng từ 15 đến 20 người. Một tháng sau, họ lại rút xuống còn 5 người. Sau đó người ta bỏ ra hai tháng để đọc các tác phẩm của 5 người này. Cuối cùng, người ta có khoảng một tháng nữa để thảo luận về tài năng, phong cách và cống hiến của từng người, cân nhắc thêm nhiều yếu tố khác nữa, để vào đầu tháng 10, người ta sẽ bỏ phiếu chọn người mà họ cho là xứng đáng nhất.
Nhìn vào quá trình tuyển chọn như trên, chúng ta thấy ngay một số điều:
Thứ nhất là quy chế: Ban giám khảo chỉ làm việc trên danh sách các tác giả được đề cử. Nhưng ai có quyền đề cử? Có bốn loại. Một, thành viên của các hàn lâm viện hay viện nghiên cứu; hai, các giáo sư văn học và ngôn ngữ học ở các đại học; ba, những người đoạt giải Nobel về văn chương những năm trước; và bốn, chủ tịch của các hội nhà văn hay nghiệp đoàn các tác giả. Trên nguyên tắc, các nhà văn không được tự mình đề cử mình. Nhưng trên thực tế, không hiếm người vận động để người khác đề cử mình. Cuộc chạy đua vào giải Nobel văn chương, do đó, ít nhất ở giai đoạn đầu, đã mang rất nhiều màu sắc chính trị.
Thứ hai là về thời gian: Người ta thực sự chỉ có khoảng vài ba tháng để đọc tác phẩm của những người được đề cử. Các tác giả được đề cử đều là những người thành danh trong văn giới, số lượng tác phẩm của họ không phải ít. Năm tác giả: con số tác phẩm có thể lên đến hàng trăm. Xin lưu ý là phần lớn giải Nobel là dành cho cả sự nghiệp của một người cầm bút nào đó. Trong số trên 100 cây bút đoạt giải Nobel, chỉ có 9 người nhận giải chủ yếu từ một tác phẩm nổi bật nào đó trong sự nghiệp của họ, trong số đó, nổi bật nhất là Mikhail Scholokhov Sholokhov với tác phẩm Sông Đông êm đềm, Ernest Hemingway với Ngư ông và biển cả, v.v... Tuy nhiên, để nhận ra những tác phẩm nổi bật ấy, người ta cũng phải đọc nếu không hết thì cũng hầu hết các tác phẩm còn lại. Đọc, như thế, là rất nhiều. Dù giỏi và cần cù đến mấy, sơ sót vẫn là điều khó tránh khỏi.
Thứ ba là về ngôn ngữ. Tất cả các thành viên trong Ban giám khảo đều thông thạo nhiều ngôn ngữ. Nhưng chắc chắn phần lớn các ngôn ngữ mà họ biết đều là các ngôn ngữ châu Âu châu. Với hàng trăm ngôn ngữ khác, người ta chỉ có thể đọc được qua các bản dịch. Nhưng như vậy lại nảy ra vấn đề: yếu tố quyết định đầu tiên ở đây không phải nằm ở tài năng của tác giả mà, trước hết, nằm ở khả năng của người dịch. Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi đại đa số các tác giả được giải từ trước đến nay đều thuộc các ngôn ngữ châu Âu châu, đứng đầu là tiếng Anh (26 người đoạt giải), tiếng Pháp và tiếng Đức (mỗi thứ tiếng được 13 người), sau đó là các thứ tiếng: Tây Ban Nha (11 người ), Ý (6 người), Thụy Điển (6 người), Nga (5 người), Ba Lan (4 người), Na Uy (3 người) và Đan Mạch (3 người). Trong khi đó, hầu hết các quốc gia khác chỉ được... một lần. Và còn vô số các quốc gia khác không hề được nhắc nhở gì đến cả (trong số đó có ViệtNam !).
Thôi thì viết.
Cũng xin nói ngay, không quan tâm, không phải tôi nghĩ Vargas Llosa không xứng đáng. Không phải. Từ lâu tên tuổi ông đã vang dội khắp thế giới và được xem là một trong vài cây bút viết văn xuôi bằng tiếng Tây Ban Nha vĩ đại nhất trong nửa thế kỷ vừa qua. Tôi chưa đọc cuốn tiểu thuyết nào của ông, nhưng lại đọc khá nhiều tiểu luận và các bài ông trả lời phỏng vấn. Thích. Thấy, ở ông, cả sự uyên bác lẫn sự lịch lãm; cả sự sâu sắc lẫn sự tinh tế, vừa rất sách vở vừa rất đời thường. Nói chung, tôi phục ông. Hơn nữa, mến ông.
Cũng không phải tôi cho giải Nobel là không có giá trị. Có chứ. Giá trị ở phần thưởng: khoảng một triệu rưỡi Mỹ kim, cao hơn hẳn hàng chục, hàng trăm, thậm chí, hàng ngàn lần, bất cứ giải thưởng văn chương lớn nào khác. Giá trị ở dư luận: hầu như không có cơ quan ngôn luận nào không theo dõi và đưa tin. Giá trị ở ảnh hưởng: bao giờ tác phẩm của người được giải cũng được săn lùng ở mọi hiệu sách. Ở nơi nào người ta chưa dịch thì vội vã dịch; chưa đọc thì vội vã đọc; chưa giới thiệu thì vội vã giới thiệu. Trong rất nhiều trường hợp, từ một nhà văn cấp quốc gia, có khi chưa được lên đẳng cấp quốc gia (ví dụ Cao Hành Kiện, ở cả Pháp lẫn Trung Quốc), trong vòng một hai ngày, người ta bỗng nổi danh cả thế giới. Cuối cùng, giá trị ở uy tín: Có thể nói, trong các loại giải thưởng, không có giải thưởng nào được người ta tin cậy như là giải Nobel. Việc công bố các giải thưởng Nobel hàng năm bao giờ cũng là một trong những sự kiện quan trọng nhất không những đối với lãnh vực văn học mà còn đối với các lãnh vực khác, từ vật lý đến hoá học, y khoa và kinh tế (không kể giải thưởng hoà bình vốn nặng về chính trị).
Giá trị của giải Nobel văn chương là điều không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, không nên tuyệt đối hoá giải Nobel. Không nên xem đó như một thước đo duy nhất hay ngay cả quan trọng nhất, trong việc đánh giá một tài năng hoặc một nền văn học. Không nên nghĩ văn học Việt
Trong lãnh vực văn học nghệ thuật, bất cứ giải thưởng nào, dù nổi tiếng và có uy tín đến mấy, cũng có tính chất tương đối và đầy những hạn chế. Có những hạn chế mà ngay cả khi muốn, người ta cũng không thể vượt qua được.
Trước hết, hạn chế về quan điểm. Tiêu chí lựa chọn của giải Nobel về văn chương khá rõ ràng: xuất sắc (outstanding) và lý tưởng (idealistic tendency). Chuyện xuất sắc trong lãnh vực văn học, nhất là giữa các thể loại và đặc biệt, giữa các ngôn ngữ khác nhau, là chuyện đầy chủ quan. Nhưng quan trọng không kém là tiêu chí thứ hai: tính chất lý tưởng. Nhiều người cho tiêu chí này vốn gắn liền với chủ nghĩa lãng mạn vốn còn khá thịnh hành vào cuối thế kỷ 19, lúc Alfred Nobel lập tờ di chúc. Với tiêu chí ấy, không có gì lạ khi nhiều tài năng thuộc loại kiệt xuất nhất và giàu tính sáng tạo nhất, có nhiều cống hiến nhất trong việc mở rộng tầm nhìn mỹ học của từng thể loại bị bỏ quên. Ví dụ những tài năng như Charles Baudelaire (1821-1867) hay Arthur Rimbaud (1854-1891), cho dù ra đời muộn hơn, cũng không có chút hy vọng gì được giải với lý do tư tưởng của họ không theo “xu hướng lý tưởng”. Ngay chính Leo Tolstoi không được trao giải cũng chỉ vì một lý do tương tự: Thời ấy, không ai hoài nghi tài năng của ông, nhưng các giám khảo vẫn cứ loại ông ra chỉ vì họ cho là ông có chủ trương vô chính phủ. Nhấn mạnh vào tính “lý tưởng”, nhiều lúc ban giám khảo đi lệch ra ngoài phạm vi văn học. Đó là lý do tại sao có một số người không thực sự là nhà văn mà vẫn đoạt giải Nobel văn chương, chẳng hạn, sử gia Christian Matthais Mommsen và chính khách viết hồi ký Winston Churchill; hay các triết gia Rudolf Eucken, Henri Bergson và Bertrand Russell. Đó cũng là lý do tại sao nhiều tên tuổi kiệt hiệt như Marcel Proust, Rainer Maria Rilke, James Joyce, Jorge Luis Borges, Vladimir Nabokov, v.v... không được tặng giải (Chúng ta không tính Franz Kafka, người chỉ thực sự nổi tiếng sau khi đã qua đời).
Sau nữa là hạn chế liên quan đến con người. Ban giám khảo giải Nobel văn chương thường bao gồm từ 4 đến 5 người trong số 18 viện sĩ thường trực thuộc Hàn lâm viện Thụy Điển. Vào cuối tháng giêng, người ta có danh sách những tác giả được đề cử từ khắp nơi gửi tới. Danh sách này có thể lên đến hàng trăm người. Trong vòng hai tháng, ban giám khảo sẽ bàn bạc để rút danh sách này xuống còn khoảng từ 15 đến 20 người. Một tháng sau, họ lại rút xuống còn 5 người. Sau đó người ta bỏ ra hai tháng để đọc các tác phẩm của 5 người này. Cuối cùng, người ta có khoảng một tháng nữa để thảo luận về tài năng, phong cách và cống hiến của từng người, cân nhắc thêm nhiều yếu tố khác nữa, để vào đầu tháng 10, người ta sẽ bỏ phiếu chọn người mà họ cho là xứng đáng nhất.
Nhìn vào quá trình tuyển chọn như trên, chúng ta thấy ngay một số điều:
Thứ nhất là quy chế: Ban giám khảo chỉ làm việc trên danh sách các tác giả được đề cử. Nhưng ai có quyền đề cử? Có bốn loại. Một, thành viên của các hàn lâm viện hay viện nghiên cứu; hai, các giáo sư văn học và ngôn ngữ học ở các đại học; ba, những người đoạt giải Nobel về văn chương những năm trước; và bốn, chủ tịch của các hội nhà văn hay nghiệp đoàn các tác giả. Trên nguyên tắc, các nhà văn không được tự mình đề cử mình. Nhưng trên thực tế, không hiếm người vận động để người khác đề cử mình. Cuộc chạy đua vào giải Nobel văn chương, do đó, ít nhất ở giai đoạn đầu, đã mang rất nhiều màu sắc chính trị.
Thứ hai là về thời gian: Người ta thực sự chỉ có khoảng vài ba tháng để đọc tác phẩm của những người được đề cử. Các tác giả được đề cử đều là những người thành danh trong văn giới, số lượng tác phẩm của họ không phải ít. Năm tác giả: con số tác phẩm có thể lên đến hàng trăm. Xin lưu ý là phần lớn giải Nobel là dành cho cả sự nghiệp của một người cầm bút nào đó. Trong số trên 100 cây bút đoạt giải Nobel, chỉ có 9 người nhận giải chủ yếu từ một tác phẩm nổi bật nào đó trong sự nghiệp của họ, trong số đó, nổi bật nhất là Mikhail Scholokhov Sholokhov với tác phẩm Sông Đông êm đềm, Ernest Hemingway với Ngư ông và biển cả, v.v... Tuy nhiên, để nhận ra những tác phẩm nổi bật ấy, người ta cũng phải đọc nếu không hết thì cũng hầu hết các tác phẩm còn lại. Đọc, như thế, là rất nhiều. Dù giỏi và cần cù đến mấy, sơ sót vẫn là điều khó tránh khỏi.
Thứ ba là về ngôn ngữ. Tất cả các thành viên trong Ban giám khảo đều thông thạo nhiều ngôn ngữ. Nhưng chắc chắn phần lớn các ngôn ngữ mà họ biết đều là các ngôn ngữ châu Âu châu. Với hàng trăm ngôn ngữ khác, người ta chỉ có thể đọc được qua các bản dịch. Nhưng như vậy lại nảy ra vấn đề: yếu tố quyết định đầu tiên ở đây không phải nằm ở tài năng của tác giả mà, trước hết, nằm ở khả năng của người dịch. Bởi vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi đại đa số các tác giả được giải từ trước đến nay đều thuộc các ngôn ngữ châu Âu châu, đứng đầu là tiếng Anh (26 người đoạt giải), tiếng Pháp và tiếng Đức (mỗi thứ tiếng được 13 người), sau đó là các thứ tiếng: Tây Ban Nha (11 người ), Ý (6 người), Thụy Điển (6 người), Nga (5 người), Ba Lan (4 người), Na Uy (3 người) và Đan Mạch (3 người). Trong khi đó, hầu hết các quốc gia khác chỉ được... một lần. Và còn vô số các quốc gia khác không hề được nhắc nhở gì đến cả (trong số đó có Việt
Liên quan đến ngôn ngữ là vấn đề thể loại. Nếu với tiểu thuyết, người ta có thể dịch; với thơ, dịch hầu như là điều bất khả. Đọc tiểu thuyết dịch, người ta có thể cảm nhận được rất nhiều cái hay trong nguyên tác. Đọc thơ dịch rất hiếm khi người ta quên đó là thơ dịch. Nhưng biết một bài thơ dịch nào đó là thơ dịch cũng có nghĩa là nhận ra tính chất bất toàn của nó. Hậu quả là, cho đến nay, trong số các cây bút đoạt giải, giới viết tiểu thuyết vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất, kế đó là thơ, sau nữa mới đến kịch.
Thứ tư là về phái tính. Trong số 18 thành viên Viện Hàn Lâm Thụy Điển, chỉ có bốn là nữ. Hậu quả là số tác giả nữ đoạt được giải Nobel rất hiếm hoi. Tổng cộng, trong số 107 người đoạt giải, chỉ có 12 người là phụ nữ. Trong số 12 người này, có một nửa đoạt giải trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 và thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Điều chắc chắn là do ảnh hưởng của nữ quyền luận vốn càng ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Dĩ nhiên còn nhiều hạn chế khác. Nhưng kể ra như vậy có lẽ cũng đủ. Ít nhất để chứng minh điều này: Giải Nobel văn chương chủ yếu là giải thưởng dành cho các cây bút nam giới người da trắng. Chủ yếu. Thời gian gần đây, dưới ảnh hưởng của nữ quyền luận và hậu thực dân luận, người ta bắt đầu nhìn sang các cây bút nữ cũng như các cây bút ngoài châu Âu châu và châu Mỹ châu. Nhưng dù sao thì cũng chỉ mới là khởi đầu. Và cũng mang rất nhiều hơi hướm chính trị.
Biết vậy, giới cầm bút ViệtNam khỏi cần sốt ruột.
Thứ tư là về phái tính. Trong số 18 thành viên Viện Hàn Lâm Thụy Điển, chỉ có bốn là nữ. Hậu quả là số tác giả nữ đoạt được giải Nobel rất hiếm hoi. Tổng cộng, trong số 107 người đoạt giải, chỉ có 12 người là phụ nữ. Trong số 12 người này, có một nửa đoạt giải trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 20 và thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Điều chắc chắn là do ảnh hưởng của nữ quyền luận vốn càng ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Dĩ nhiên còn nhiều hạn chế khác. Nhưng kể ra như vậy có lẽ cũng đủ. Ít nhất để chứng minh điều này: Giải Nobel văn chương chủ yếu là giải thưởng dành cho các cây bút nam giới người da trắng. Chủ yếu. Thời gian gần đây, dưới ảnh hưởng của nữ quyền luận và hậu thực dân luận, người ta bắt đầu nhìn sang các cây bút nữ cũng như các cây bút ngoài châu Âu châu và châu Mỹ châu. Nhưng dù sao thì cũng chỉ mới là khởi đầu. Và cũng mang rất nhiều hơi hướm chính trị.
Biết vậy, giới cầm bút Việt
---------------------------------------
* Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Thứ sáu 08 Tháng Mười 2010
Ngày hôm qua 7/10, nhà văn Tây Ban Nha gốc Peru, ông Mario Vargas Llosa được Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển trao tặng giải thưởng Nobel văn học. Mặc dù một tác phẩm mang tựa đề “Dì Hulia và nhà văn quèn”, đã từng được dịch ra tiếng Việt trong thập niên 1980, các tác phẩm của nhà văn Mỹ Latinh này gần như rất ít người biết tại Việt Nam .
Trả lời phỏng vấn của RFI, nhà nghiên cứu văn học Lại Nguyên Ân giải thích vì sao giải Nobel văn học 2010 lại rất ít được độc giả Việt Nam biết đến.
NGHE : Nhà phê bình Lại Nguyên Ân
Thứ sáu 08 Tháng Mười 2010
Cả châu Mỹ Latinh tự hào về giải Nobel Văn học năm nay, Mario Vargas Llosa. Nhà văn người Peru này định nghĩa vai trò của người cầm bút : "Bảo vệ tự do, dân chủ để đóng góp vào các tiến bộ xã hội (...) Văn học là một mối nguy hiểm đối với các chế độ độc tài".
Giải Nobel Văn học 2010 về tay nhà văn người Peru mang quốc tịch Tây Ban Nha, Mario Vargas Llosa. Cả châu Mỹ Latinh từ Mêhicô đến Brazil, từ Achentina đến Colombia đều tự hào khi thấy một gương mặt nổi bật trong văn đàn khu vực được vinh danh.
Tại Cuba, chính quyền La Habana bất chấp những bất đồng sâu đậm với giải Nobel Văn học năm nay cũng phải nhìn nhận ông Vargas Llsa là nhà văn lớn nhất ” trong thế giới sử dụng ngôn ngữ Tây Ban Nha". Tổng thống Peru nói đến một hiện tượng văn học, một niềm tự hào của cả một dân tộc, một quốc gia.
Đây là lần thứ ba ban giám khảo vinh danh nền văn học Châu Mỹ Latinh, sau nhà văn Mêhicô Octavio Paz (1990) và cây đại thụ của văn đàn Colombia, Gabriel Garcia Marquez (1982). Viện Hàn lâm Thụy Điển vinh danh những sáng tác « phản ánh xác thực về cơ cấu quyền lực và những hình ảnh sắc bén của sự kháng cự, nổi dậy và thất bại của cá nhân »
Là tác giả của hơn 30 tác phẩm bao gồm nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, tiểu luận cùng với một vài vở kịch, đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, kể cả tiếng Việt Nam, năm 1994 nhà văn Mario Vargas Llosa được trao tặng giải thưởng Cervantes. Đây là giải thưởng cao quý nhất của văn đàn Tây Ban Nha.
Phát biểu ngay sau khi hay tin được trao tặng giải Nobel Văn học năm nay, văn sĩ Mario Vargas Llosa cho biết ông thật bất ngờ :
"Không, tôi thực sự không nghĩ là mình sẽ được vinh dự này. Thậm chí tôi còn không nghĩ là được có tên trong danh sách các ứng viên. Nhưng đương nhiên là tôi rất vui mừng đón nhận tin vui này. Đây là một vinh dự đối với nền văn học châu Mỹ La tinh và đối với những tác phẩm được viết bằng tiếng Tây Ban Nha.
Tôi sẽ tiếp tục làm việc với tinh thần trách nhiệm của một người cầm bút như đã từng làm trong suốt thời gian qua và sẽ bảo vệ tất cả những gì quan trọng đối với Peru, đối với châu Mỹ La tinh cũng như là đối với cả thế giới : tự do, dân chủ. Đó là bổn phận của một nhà văn”
Từ 10 năm nay tên tuổi của ông nằm trong danh sách của Viện Hàn lâm Thụy Điển.
Tên thật là Jorge Mario Pedro Vargas Llosa, sinh năm 1936 ở miền Nam Peru. Thuở bé ông từng sống với mẹ và ông bà ngoại tại Bolivia, mãi đến năm lên 10 ông mới về lại Peru. Mario Vargas Llosa tốt nghiệp cử nhân văn khoa đại học Lima, một thành phố không để lại cho ông nhiều kỷ niệm đẹp. Ám ảnh trong thời kỳ sống ở Lima là nguồn cảm hứng để ông cho ra đời một trong những tác phẩm nổi tiếng sau này : "La ciudad y los perros" (1963).
Hoàn tất luận án tiến sĩ tại Madrid, Mario Vargas Llosa đã đến định cư tại Paris. Tại đây ông đã sống bằng nghề dịch thuật, dậy học và viết báo. Cũng tại Paris cây bút người Peru này cho ra mắt tập truyện ngắn đầu tay mang tựa đề « Los Jefes ».
Mario Vargas Llosa thành danh với "La ciudad y los perros" và hai năm sau đó tiểu thuyết “Conversación en La Catedral” hay “Đối thoại trong quán rượu La Catedral” được xem là một tuyệt tác.
Trả lời đài RFI hồi năm ngoái nhân dịp trường đại học Bordeaux 3 vinh danh sự nghiệp của ông, nhà văn Mario Vargas Llosa nhấn mạnh đến vị trí riêng biệt của văn học Pháp trong con đường sáng tác của ông :
« Văn học Pháp có một vị trí hết sức quan trọng trước hết là đối với cuộc đời tôi và tiếp theo đó là đối với sự nghiệp của tôi. Chính các văn hào Pháp đã đã làm tôi say mê với văn học. Tôi đã tìm thấy những tấm gương nơi các nhà văn Pháp như là Jean paul Sartre hay Albert Camus. Họ đã đem lại cho tôi rất nhiều : từ cách sáng tác, đến văn phong và cả về phương diện tư tưởng. Trong tất cả các nền văn học tôi được tiếp cận thì văn học Pháp vẫn có một chỗ đứng riêng biệt ».
Đoạn tuyệt với chủ nghĩa cộng sản
Ngoài sự nghiệp văn chương nhà văn Mario Vargas Llosa còn nặng nợ với con đường chính trị. Năm 1990, ông ra tranh cử tổng thống Peru trong liên minh trung hữu nhưng đã bị ứng cử viên Alberto Fujimori đánh bại. Ba năm sau đó ông sang định cư hẳn tại Madrid và trở thành công dân Tây Ban Nha.
Vào thập niên 60 thế kỷ trước, ông đã bị nhân vật Fidel Castro và cuộc cách mạng Cuba làm mê hoặc.
Ông từng đến La Habana sinh sống một thời gian. Nhưng không hiểu vì lý do gì, năm 1971, nhà văn người Peru này đã đột ngột trở lại Châu Âu. Từ đó trở đi ông không ngừng chỉ trích lãnh tụ Cuba. Vargas Llosa vĩnh viễn quay lưng lại với chủ nghĩa cộng sản, đoạn tuyệt luôn với người bạn văn thân thiết là Marquez.
Trả lời báo chí hôm qua (7/10) từ New York giải Nobel Văn học 2010 giải thích về sự dấn thân của mình : “Văn học giúp cho chúng ta có một cái nhìn phê phán. Đấy chính là yếu tố vì sao tất cả mọi chế độ độc tài đều có những biện pháp kiểm duyệt (…) Các nhà độc tài đều tìm cách kiểm soát giới nhà văn do văn chương luôn là một mối đe dọa tiềm tàng của quyền lực (…) Những áng văn hay tạo ra những con người không dễ dậy bảo”
Và ông kết luận : phát huy văn học là khuyến khích một xã hội tự do, dân chủ, đa nguyên và chấp nhận sự đa dạng trong cuộc sống.
Thế nhưng theo giải Nobel Văn học năm nay thì : « Viết văn là một công việc của một con người đơn độc. Họ giam mình với những bóng ma. Để tạo dựng nên một cốt truyện thì phải mất nhiều tháng, mà cũng có khi là nhiều năm, ta không thể biết trước được. Độc giả là những người phán xét để biết được là nhà văn đó có làm việc nghiêm chỉnh hay không, có xứng đáng cầm bút hay không. Giải thưởng Nobel là điều hết sức khích lệ. Điều đó chứng tỏ là tôi đã không hoài công ».
.
.
.
No comments:
Post a Comment