Từ
chuyện Cuba, giới thiệu một quyển sách cũ về “thể chế”
Nguyễn
Quốc Tấn Trung | Tiếng Dân
18/08/2025
https://baotiengdan.com/2025/08/18/tu-chuyen-cuba-gioi-thieu-mot-quyen-sach-cu-ve-the-che/
Việc
ủng hộ Cuba hay không là quyền tự do cá nhân. Chính quyền kêu gọi, ai dư dả và
muốn thì ủng hộ, không muốn thì thôi. Có lẽ chúng ta không cần thiết phải cãi
nhau về vấn đề này.
Tuy
nhiên, về câu chuyện Cuba nghèo khó với lý do “duy nhất” là Hoa Kỳ cấm vận thì
có vẻ hơi sai lý thuyết và thiếu góc nhìn toàn cảnh, nên Trung xin được phép
chia sẻ vài dòng lẫn giới thiệu một quyển sách cũ mà sau một khoảng thời gian
nghe lại, mình nghĩ rằng người muốn tìm hiểu về kinh tế, chính trị, thể chế nói
chung, không thể không có.
Một
phần lý do để giới thiệu lại nữa là mình thấy đây là một quyển sách có chiều
sâu và can thiệp được vào rất nhiều những tranh cãi đương đại, nhưng phần giới
thiệu sách bằng tiếng Việt trên các sàn sách của Việt Nam không làm nổi bật được
sự thú vị của nó.
***
1.
CUBA KHÔNG “MỘT MÌNH”
Trước
tiên, cần làm rõ rằng Hoa Kỳ không phải thị trường và nhà đầu tư duy nhất của
Cuba. Và Hoa Kỳ cũng không còn đủ sức khuynh đảo kinh tế thế giới như những năm
1990s – 2000s.
Lệnh
cấm vận của Hoa Kỳ là có thật, và các vấn đề liên quan đến tính hợp pháp của nó
trong công pháp quốc tế là một câu chuyện dài. Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc cũng
đã nhiều lần thông qua nghị quyết đề nghị chấm dứt cấm vận. Song có một điểm cần
làm rõ là Cuba chưa từng đơn độc trong đời sống kinh tế của họ.
Ví
dụ, Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, vẫn tiếp tục chống các lệnh cấm
vận của Hoa Kỳ và tiếp tục giao thương, đầu tư, chuyển giao công nghệ cho Cuba.
Thậm chí, họ còn có một hệ thống counter-sanction riêng để đối phó với cấm vận
của Hoa Kỳ. Hiển nhiên, thị trường của Trung Quốc luôn rộng mở với hàng hóa
Cuba.
Tương
tự, Nga, nền kinh tế mà nhiều Putinistas tự nhận là thứ tư thế giới (bằng cách
nào đó?!), cũng có động thái hoàn toàn tương tự suốt nhiều thập niên qua. Thị
trường, hàng hóa, tài chính, hỗ trợ nhân đạo… đều là những cánh cửa mở rộng giữa
mối quan hệ hai nước.
Các
quốc gia Nam Mỹ và châu Phi (cụ thể như Brazil, Venezuela, Nam Phi…) cũng thường
có cái nhìn thiện cảm ủng hộ Cuba, và hoạt động kinh tế giữa họ cũng có thể gọi
là business-as-usual, dù không thể công khai và rầm rộ như Nga hay Trung Quốc.
Nói
cách khác, dù đúng là thị trường Tây Âu và thị trường Bắc Mỹ đóng cửa với Cuba
(dù thật ra kinh tế ngầm vẫn diễn ra), vốn hoàn toàn có thể lấy đi một phần cơ
hội tăng trưởng của quốc gia này, họ vẫn còn không gian phát triển với ⅔
phần còn lại của thế giới. Những khó khăn ngặt nghèo và rất căn bản mà Cuba
đang gặp phải (thiếu điện/nước, hạ tầng xuống cấp, đời sống kinh tế trì trệ –
nghèo nàn, dân sinh hạn chế…) không thể chỉ đến từ việc không làm ăn với nước Mỹ.
Hoa Kỳ không còn là thế lực kinh tế có ảnh hưởng bao quát như vậy nữa.
Hoặc
là chúng ta thừa nhận rằng các hoạt động giao thương, kinh tế, công nghệ, nghĩa
tình mà Cuba có với các quốc gia rất hùng mạnh còn lại trên thế giới (như Trung
Quốc và Nga chẳng hạn) đều là nghĩa tình “hão”, tức là chúng không tạo ra được
bất kỳ động lực tăng trưởng nào cho Cuba. Cuba có thể chỉ là một thị trường để
pump&dump hàng giá rẻ của Trung Quốc thôi, và làm ăn một cách đường hoàng với
người Mỹ mới là cách mà một quốc gia có thể thật sự phát triển (?).
Hoặc
là chúng ta phải thừa nhận rằng còn có lý do khác khiến cho Cuba khó khăn đến
như vậy.
2.
VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI: HIỂU ĐÚNG “EXTRACTIVE INSTITUTIONS”
Đây
có lẽ là điểm mà quyển sách Vì sao các quốc gia thất bại (Why Nations Fail?, xuất
bản 2013) của Daron Acemoglu, Simon Johnson, và James A. Robinson, vừa đạt giảI
Nobel Kinh tế năm 2024 vừa rồi, có thể can thiệp và giải thích.
https://baotiengdan.com/wp-content/uploads/2025/08/4-3-1024x859.jpg
Ảnh
chụp bìa sách: “Why Nations Fail” Nguồn: Internet
Hiển
nhiên, giới thiệu quyển như cách này: “… hai tác giả lập luận rằng những quốc gia thất bại là
những đất nước bị cai trị bởi một nhóm quyền thế tập trung, và những nhóm này
đã tổ chức xã hội để phục vụ cho quyền lợi riêng của họ trong khi đại đa số quần
chúng nhân dân phải trả giá…” là hoàn toàn không sai. Vấn đề là mình
nghĩ rằng nó đơn giản hóa quá mức những chi tiết và đóng góp rất đáng giá mà
quyển sách này đưa ra.
Đóng
góp có thể nói là trọng tâm của quyển sách là việc đưa ra và hoàn thiện hai
khái niệm: Extractive institutions (tạm dịch là Thể chế trích xuất), và
Inclusive institutions (tạm dịch là Thể chế hòa hợp).
“Thể
chế trích xuất” không đơn thuần chỉ là “một nhóm quyền thế tập trung và phục vụ
lợi ích của riêng mình”. Quyển sách đưa ra rất nhiều ví dụ về những nền kinh tế
“trích xuất” nơi mà người dân được “lo lắng” tận răng.
Đế
chế La Mã từng có khoản thời gian dài khi mà công dân La Mã được cấp dầu olive,
bánh mì và nhiều dịch vụ thiết yếu khác miễn phí.
Tương
tự, nền kinh tế bao cấp và tập trung quản lý của Liên Xô cũng lo hết mọi thứ
cho công dân của họ, từ việc làm, mức lương, nhà ở…
Vấn
đề của “Thể chế trích xuất”, theo quyển sách (hoặc ít nhất là cách hiểu của
mình), là việc nó tách biệt con người khỏi thành quả lao động của họ, và từ đó
thất bại hoàn toàn trong việc khuyến khích sự sáng tạo, lao động tự thân của mỗi
cá thể. Vì lý do này, để tiếp tục duy trì năng lực sản xuất của quốc gia, các
nhà nước theo mô hình “Extractive institutions” không còn cách nào khác là dùng
các biện pháp “trích xuất” cưỡng ép sức lao động của quần chúng.
Nói
cách khác, dù không đánh đồng nền kinh tế nô lệ với nền kinh tế tá điền hay nền
kinh tế bao cấp, các tác giả cho rằng chúng đều là những phiên bản khác nhau của
“Thể chế trích xuất” – buộc con người phải lao động, sản xuất và sáng tạo, chứ
không tạo cảm hứng cho họ lao động, sản xuất, và sáng tạo.
(Đây
có thể nói là một thesis có trọng lực chống lại xu thế phân kỳ lịch sử Marxist,
một cách tiếp cận cực kỳ thú vị mà ngay cả nhiều chuyên gia nước ngoài cũng
chưa nói đủ về nó.)
Quyển
sách chứa đầy các ví dụ để cho thấy vì sao các “thể chế trích xuất” có thể tồn
tại ngay cả trong những chính thể được cho là đại đồng nhất và vì dân nhất.
Ở
Liên Xô, vì sản xuất công nghiệp đều do chính quyền quản lý tập trung, từ đưa
ra quyết định về sản lượng, về nơi tiêu thụ, giá cả, lương bổng, chương trình
sáng tạo… mọi nỗ lực hiện đại hóa và thúc đẩy tăng trưởng đều rơi vào bế tắc:
–
Các sản phẩm đèn treo được tính sản lượng theo tấn, nên các xí nghiệp sản xuất
tạo ra những quả đèn treo sập trần.
–
Khen thưởng từ trên xuống được đặt ra để khuyến khích tăng năng suất, sản lượng
bị biến tướng thành việc các xí nghiệp cố tình tăng sản lượng nhỏ giọt để mỗi
năm đều có khen thưởng.
–
Hình sự hóa các hành vi “lười biếng” trong lao động thì khiến cho hàng triệu
người phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt khác nhau, tiếp tục khiến năng
suất lao động lao dốc.
3.
TỪ THỰC DÂN ĐẾN ĐỘC LẬP: SỰ DAI DẲNG CỦA THỂ CHẾ TRÍCH XUẤT
Một
trong những điểm đặc biệt thú vị khác của quyển sách, là họ cho rằng ngay cả
khi các quốc gia chiến thắng được chủ nghĩa thực dân, nhiều quốc gia chưa bao
giờ từ bỏ “Thể chế trích xuất”.
Nền
kinh tế thực dân chắc chắn là một “thể chế trích xuất” tàn bạo, quyển sách khẳng
định, nhưng quá trình chuyển đổi sang một nền “độc lập” tự thân cũng chưa bao
giờ thật sự từ bỏ mô hình trích xuất và đó mới chính là cái gốc của các quốc
gia “thất bại”. Các nhóm chóp bu, tinh hoa dân tộc chủ nghĩa mới ở Mexico, châu
Phi, châu Á… tiếp tục duy trì hoặc xây dựng những “thể chế trích xuất” của
riêng họ.
Một
lần nữa, quyển sách cho thấy tính phản phân kỳ (anti-periodization) của mình. Hậu
thực dân, tân thực dân… chỉ là bề nổi của ngôn ngữ để đổ thừa của các nền kinh
tế “trích xuất” thất bại mà thôi.
Đến
đây, có lẽ độc giả nào cũng có thể dùng khung phân tích của Daron Acemoglu,
Simon Johnson, và James A. Robinson để giải thích những thất bại kinh tế của
Cuba. Các độc giả để lại phần bình luận phân tích của mình và nhận được sự quan
tâm cao có thể sẽ nhận được một món quà nhỏ từ HDC.
Nói
về quyển sách, mình nghĩ bản dịch sang tiếng Việt do thầy Vũ Thành Tự Anh hiệu
đính sẽ rất hay (dù có thể “trống” và “thiếu” một vài chỗ vì đặc trưng xuất bản
ở Việt Nam), mọi người nên tìm mua để dành. Quyển Nexus mình dịch lần trước
cũng có những lý luận tương tự, dù tập trung vào vấn đề mạng lưới thông tin.
Mong mọi người cũng chú ý đến quyển sách này, vì hai vạn cuốn cuối cùng cũng gần
hết rồi.
No comments:
Post a Comment