Úc
và Philippines tập trận quy mô lớn ở sát Biển Đông
Phan Minh - RFI
Đăng ngày: 16/08/2025 - 13:24 - Sửa
đổi ngày: 16/08/2025 - 15:35
Hôm
qua 15/08/2025, Úc đã khởi động cuộc tập trận lớn nhất với Philippines, với hơn
3.600 binh sĩ tham gia các bài tập bắn đạn thật, diễn tập chiến đấu và đổ bộ
lên bãi biển tại một thị trấn của Philippines, hướng ra Biển Đông. Hai nước
lo ngại trước những hành động gây hấn của Trung Quốc tại
khu vực này. Lực lượng quân sự từ các nước như Mỹ, Canada, Nhật Bản, Hàn
Quốc, New Zealand và Indonesia cũng tham gia với tư cách quan sát viên.
HÌNH :
Ảnh do Lực lượng vũ trang Philippines cung cấp
: Tổng tham mưu trưởng quân đội Philippines, tướng Romeo Brawner Jr. phát biểu
tại lễ khai mạc cuộc tập trận quân sự chung Úc - Philippines (Alon), tại tỉnh
Palawan, Philippines, ngày 15/08/2025. AP
Cuộc tập trận mang tên Alon (có nghĩa
là "sóng" trong tiếng Philippines) nhằm thể hiện sức
mạnh quân sự của Úc. Theo hãng tin Mỹ AP, các phương tiện tham gia tập trận bao
gồm tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường, máy bay chiến đấu siêu thanh F/A-18,
máy bay vận tải C-130, tên lửa chống tăng Javelin và vũ khí của lính bắn tỉa đặc
nhiệm.
Phó đô đốc Justin Jones của Hải quân Hoàng
gia Úc cho biết cuộc tập trận thể hiện cam kết của Canberra trong việc hợp tác
với các đối tác để bảo vệ chủ quyền quốc gia, tuân thủ luật pháp quốc tế. Ông
Jones cũng nhấn mạnh đây là cơ hội để các lực lượng cùng tập luyện đối phó với
các thách thức an ninh chung và tăng cường năng lực triển khai quân đội tầm xa
trong khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương. Cuộc tập trận kéo dài đến ngày 29/08.
Úc là quốc gia thứ hai sau Mỹ ký hiệp định
quân sự với Philippines, cho phép điều động quân đội tập trận chung. Nhật
Bản cũng đã ký một hiệp định tương tự và sẽ có hiệu lực vào tháng tới.
Philippines cũng đang đàm phán các thỏa thuận phòng thủ với các nước
khác như Pháp và Canada.
Về phần mình, Trung Quốc phản đối các cuộc tập
trận đa quốc gia gần Biển Đông, lên án Mỹ và các đồng minh đang quân sự
hóa khu vực này và "liên kết chống lại" Bắc Kinh.
---------------------------
Các nội dung liên quan
BIỂN ĐÔNG - PHILIPPINES - MỸ - TRUNG QUỐC
Mỹ
điều tàu chiến đến Biển Đông sau vụ hai tàu Trung Quốc va chạm khi truy đuổi
tàu Philippines
Philippines
và Ấn Độ tổ chức tập trận hải quân chung đầu tiên ở Biển Đông
Hải
quân Mỹ - Nhật - Philippines tập trận mô phỏng va chạm trên biển
===========================
Tổng
thống Mỹ được Trung Quốc bảo đảm là sẽ không xâm chiếm Đài Loan ?
Thanh
Hà - RFI
Đăng ngày: 16/08/2025 - 13:31 - Sửa
đổi ngày: 16/08/2025 - 21:06
Ngày
15/08/2025, vào lúc mọi chú ý tập trung vào kết quả thượng đỉnh Vladimir Putin
- Donald Trump và kỳ vọng chấm dứt chiến tranh Ukraina, thì bất ngờ tổng thống
Hoa Kỳ loan báo ông được chủ tịch Trung Quốc trấn an là sẽ không xâm chiếm Đài
Loan chừng nào ông Trump vẫn còn ở Nhà Trắng.
HÌNH :
Ảnh minh họa - Tổng thống Mỹ Donald Trump
cùng chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trong một buổi lễ chào đón tại Đại Lễ Đường
Nhân Dân ở Bắc Kinh, Trung Quốc, vào ngày 9 tháng 11 năm 2017. AP - Andy Wong
Phát biểu này được đưa ra trong khuôn khổ
chương trình Special Report trên đài truyền hình Fox News, trước khi tổng thống
Mỹ đến căn cứ quân sự ở Alaska họp thượng đỉnh với nguyên thủ Nga để tìm cách
chấm dứt xung đột Ukraina. Ông Trump quả quyết chủ tịch Tập Cận Bình đã nói với
ông rằng Bắc Kinh sẽ « không bao giờ xâm chiếm Đài Loan chừng nào
mà tổng thống Trump còn 'tại vị' ». Chủ nhân Nhà Trắng bình luận thêm
là « ông rất cảm kích » trước những lời lẽ này của
lãnh đạo Trung Quốc, đồng thời ông và Trung Quốc cùng « rất kiên
nhẫn ». Hãng tin Anh Reuters cho biết là trước mắt đại sứ quán
Trung Quốc ở Washington chưa phản hồi khi được yêu cầu bình luận về những phát
biểu này.
Từ đầu nhiệm kỳ 2 của tổng thống Trump, lãnh
đạo Hoa Kỳ và Trung Quốc đã có một cuộc gọi đầu tiên hồi tháng 6/2025. Và cũng
Donald Trump từng cho biết là đã trao đổi với chủ tịch Tập Cận Bình vào tháng
Tư vừa qua. Nguyên thủ Mỹ không đi sâu thêm vào chi tiết cuộc điện đàm và cũng
tỏ ra mơ hồ về thời điểm cuộc trao đổi đó. Bắc Kinh chưa từng lên tiếng về những
phát biểu của ông Trump hồi tháng 4/2025.
Reuters nhắc lại Trung Quốc coi Đài Loan là một
phần lãnh thổ của mình và đã tuyên bố sẽ « thống nhất » hòn
đảo dân chủ tự trị này, kể cả bằng vũ lực nếu cần. Đài Loan mạnh mẽ bác bỏ các
tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Chiến tranh Ukraina và chính sách của Mỹ đối
với Kiev hiện đang làm dấy lên nhiều nghi vấn tại Đài Bắc về khả năng Đài Loan
có tiếp tục được Mỹ yểm trợ hay không trong trường hợp bị Bắc Kinh thôn tính.
-------------------------
Các nội dung liên quan
Trung
Quốc sẽ xâm lược Đài Loan vào năm 2027 ?
Ukraina
và Đài Loan, hai ẩn số cho Donald Trump
ĐÀI
LOAN - TRUNG QUỐC - DIỄN TẬP
Đài
Loan mô phỏng kịch bản Trung Quốc tấn công trong cuộc diễn tập trên toàn đảo
===============================
Thượng
đỉnh Alaska : Trump trải thảm đỏ cho Putin nhưng đành ra về tay không
Thụy
My - RFI
Đăng ngày: 17/08/2025 - 01:06 - Sửa
đổi ngày: 17/08/2025 - 01:07
==============================
Thượng
đỉnh Nga-Mỹ không mang lại lệnh ngừng bắn ở Ukraina, TT Trump gây áp lực với
Zelensky
Phan Minh|Thanh Hà|Thùy Dương - RFI
Đăng ngày: 16/08/2025 - 11:15 - Sửa
đổi ngày: 16/08/2025 - 16:15
Cuộc
họp thượng đỉnh giữa tổng thống Mỹ Donald Trump và đồng nhiệm Nga Vladimir
Putin hôm qua 15/08/2025 tại Alaska, Hoa Kỳ, đã không mang lại thỏa thuận nào để
chấm dứt, hoặc ít nhất là để thiết lập một lệnh ngừng bắn ở Ukraina. Mặc dù vậy,
hai nhà lãnh đạo vẫn khẳng định các cuộc thảo luận diễn ra “trên tinh
thần xây dựng” và để ngỏ khả năng “sớm gặp lại nhau” ở
Matxcơva.
HÌNH :
Tổng thống Mỹ Donald Trump và đồng nhiệm Nga
Vladimir Putin gặp nhau tại căn cứ quân sự Elmendorf-Richardson, bang Alaska, Mỹ,
cùng với các quan chức thân cận, ngày 15/08/2025. AP - Julia Demaree
Nikhinson
Cuộc họp kéo dài gần ba tiếng đồng hồ. Sau
đó, hai nguyên thủ cùng nhau xuất hiện trước giới truyền thông và thông báo đã
đạt được tiến triển về một số vấn đề. Vladimir Putin bày tỏ hy vọng rằng
Ukraina và các đồng minh châu Âu của Kiev đón nhận một cách tích cực kết quả cuộc
đàm phán Nga - Mỹ. Chủ nhân điện Kremlin kêu gọi phương Tây không cản trở “tiến
triển đang hình thành” và cho rằng những tiến triển này có thể trở
thành nền tảng không chỉ để giải quyết vấn đề Ukraina mà còn để khôi phục quan
hệ giữa Nga và Mỹ.
Từ Alaska, đặc phái viên Pierrick
Leurent tường trình :
Mặc dù hai nhà lãnh đạo cho biết đã có những
cuộc thảo luận hiệu quả và đạt được tiến triển thực sự trong một cuộc họp báo
ngắn sau đó, nhưng cho đến nay, mọi chuyện vẫn cực kỳ mơ hồ. Các nhà báo
cũng không có cơ hội đặt câu hỏi.
Chắc chắn là Donald Trump đã đặt mục tiêu đạt
được một lệnh ngừng bắn giữa Nga và Ukraina, nhưng điều đó đã không xảy
ra. Ông từng cam kết sẽ ban hành thêm các biện pháp trừng
phạt nhắm vào Nga nếu thất bại, nhưng điều này cũng không còn được đề
cập. Cuối cùng, Donald Trump vẫn tự cho mình là một nhà đàm
phán kiệt xuất, nhưng ông đã không nhận được bất kỳ nhượng bộ nào từ
Vladimir Putin.
Ngược lại, đối với tổng thống Nga, đây là một
thành công vang dội. Với hội nghị thượng đỉnh không khác gì một
chuyến thăm cấp Nhà nước này, Vladimir Putin đã phục hồi vị thế
trên trường quốc tế và quay trở lại như một đối tác đáng tin cậy, mặc
dù quân đội Nga vẫn tiếp tục tấn công Ukraina. Do đó, trong bối cảnh này,
một lối thoát cho cuộc xung đột vẫn là viễn cảnh rất xa vời, mặc dù tổng
thống Mỹ dường như vẫn còn hy vọng, trong một cuộc phỏng vấn với Fox
News ngay sau cuộc gặp giữa hai lãnh đạo.
Đối thoại Trump - Putin : Mỹ không đạt
được những kết quả mong muốn
Việc thượng đỉnh đã bị rút ngắn so với thông
báo ban đầu và nguyên thủ Nga và Mỹ không đưa ra bất kỳ thông báo cụ thể nào về
mục đích ngừng bắn tại Ukraina bị xem là một thất bại của Washington. Thông tín
viên Juliette Gheerbrant từ New York giải thích :
Không ai sập cửa ra về, bỏ ngang cuộc họp.
Donald Trump nhấn mạnh đến những đồng thuận và hai nhà lãnh đạo đã tỏ quyết tâm
muốn cùng nhau làm việc. Có thể nói là tổng thống Hoa Kỳ đã cứu vãn thể diện của
đồng nhiệm Nga. Ông cũng đã hài lòng khi thấy Vladimir Putin khẳng định là quả
thực nếu hồi 2022 quyền lực trong tay Donald Trump thì có lẽ đã không xảy ra
chiến tranh.
Nhưng nhìn vào kết quả thực chất, không có một
công bố nào, không có một thỏa thuận nào được đưa ra và cũng không ai nhắc đến
một thỏa thuận ngừng bắn. Không có dấu hiệu cho thấy các cuộc tấn công nhắm vào
dân thường sẽ chấm dứt, và ngay cả ý tưởng về một cuộc gặp ba bên lần tới với tổng
thống Ukraina Volodymyr Zelensky cũng không được nhắc đến.
Các mục tiêu từng được tổng thống Mỹ đề ra
trước cuộc họp còn rất xa vời. Như báo Washington Post ghi nhận, điều này cho
thấy những giới hạn của các màn phỉnh nịnh, tâng bốc trong chính sách ngoại
giao của tổng thống Mỹ.
Hơn nữa, xin nói thêm, đây cũng là hậu quả từ
thái độ ngưỡng mộ một cách ngây thơ của tổng thống Hoa Kỳ đối với đồng cấp Nga.
Hôm qua lẽ ra đã phải là một bước ngoặt trong cuộc xung đột tại Ukraina và cũng
phải là cơ hội để ông Trump khẳng định vai trò của một nhà kiến tạo hòa bình. Một
nhà phân tích đã đặt câu hỏi : với kết quả ấy thì liệu có bõ công để tổng
thống Hoa Kỳ tổ chức một sự kiện rầm rộ đến như vậy hay không ?
Kết quả thượng đỉnh Alaska : Ukraina thất
vọng nhưng không ngạc nhiên
Như Nhà Trắng đã thông báo, chia tay với tổng
thống Nga, nguyên thủ Mỹ Donald Trump lập tức điện đàm với đồng cấp Ukraina và
các lãnh đạo châu Âu trong khối Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO). Tổng thống
Volodymyr Zelensky cho biết ông đã được “thông báo” về những
trao đổi tại thượng đỉnh ở Alaska và chuẩn bị bay sang Washington hội kiến tổng
thống Hoa Kỳ vào thứ Hai, 18/08/2025.
Các ông Trump - Zelensky sẽ “thảo luận
về tất cả những chi tiết nhằm chấm dứt các hành vi sát hại và chiến tranh”.
Kiev đặc biệt cám ơn chính quyền Washington về những nỗ lực ngoại giao, đồng thời
nhấn mạnh đến “tầm mức quan trọng để châu Âu, cùng với Hoa Kỳ tham gia
mọi giai đoạn bảo đảm những cam kết về an ninh cho Ukraina”.
Nhưng đại đa số công luận Ukraina đều thất vọng
về thượng đỉnh Vladimir Putin - Donald Trump hôm qua ở Alaska, như giải thích của
Emmanuelle Chaze, thông tín viên RFI từ Kiev :
Quả thực là phía Ukraina không ngạc nhiên
chút nào về kết quả ở Alaska. Mọi người ở đây biết trước rằng Vladimir Putin
không muốn một thỏa thuận ngừng bắn, bởi vì đơn giản là hiện tại trên chiến trường
không mảy may có bất kỳ một thay đổi nào.
Hôm qua, Nga dội bom xuống một khu chợ ở
trung tâm thành phố Soumy. Các thành phố khác ở Zaporijia và Dnipro cùng bị
oanh kích. Như mọi ngày, drone của Nga vẫn bay lượn trên bầu trời Ukraina và
chiến sự dọc các chiến tuyến vẫn tiếp diễn. Thành thử ra phía Ukraina không hề
ngạc nhiên.
Điều duy nhất khiến công luận ở đây thất vọng
là tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump thay vì gây áp lực với đồng nhiệm Nga
Vladimir Putin thì lại đẩy quả bóng sang sân chơi của Ukraina khi tuyên bố là
giờ đây đến lượt Kiev phải nỗ lực để đạt được một thỏa thuận ngừng bắn. Tựu
trung, không ai ngạc nhiên về thất vọng của Ukraina.
Nga : thượng đỉnh Alaska là thành công lớn
mang lại uy tín cho điện Kremlin
Khi đến Alaska, tổng thống Putin đã được tiếp
đón trọng thị với thảm đỏ, được Donald Trump chào đón nồng nhiệt cùng với sự hiện
diện của máy bay quân sự Mỹ trên bầu trời. Mặc dù Nhà Trắng đã giảm bớt kỳ vọng
trước thềm hội nghị, cuộc gặp này vẫn rất quan trọng đối với Donald Trump, vốn
xem khả năng đạt được thỏa thuận hòa bình tại Ukraina như một cơ hội để giành
Nobel Hòa bình, điều mà ông rất khao khát. Còn đối với Vladimir Putin, chỉ
riêng việc hội nghị này được tổ chức đã là một chiến thắng về mặt ngoại giao, bất
luận kết quả đàm phán.
Từ Matxcơva, thông tín viên Anissa El Jabri gửi
về bài tường trình :
Donald Trump và Vladimir Putin đã lần lượt rời
Alaska mà không trả lời các câu hỏi của báo chí. Và cuộc gặp chỉ kéo dài 3 tiếng
đồng hồ thay vì 6-7 tiếng như phát ngôn viên điện Kremlin từng nói. Xin nhắc lại
là đã không có cuộc trao đổi nào ở cấp bộ trưởng để phê chuẩn các thỏa thuận
kinh tế. Và cuối cùng, không có chi tiết nào về những gì sẽ được trình bày với
Ukraina và các nước châu Âu. Thông tin được đưa ra ở Matxcơva là như vậy. Nhưng
nhìn từ thủ đô nước Nga, đây không thực sự là điều gây bất ngờ.
Chưa từng có lúc nào dư luận trong nước được
chuẩn bị cho một bước đột phá nhanh chóng và cụ thể. Tuy nhiên, trong những
ngày gần đây và sáng thứ Bảy này, các chuyên gia được truyền thông Nga trích dẫn
dường như tin rằng những điều được loan báo đó là có lợi cho Matxcơva.
Tất cả họ đều nhấn mạnh rằng không có lời đe
dọa trừng phạt nào được đưa ra, và điều cuối cùng, cũng là điều quan trọng nhất,
đó là cuộc gặp thượng đỉnh lần này đang được mô tả như một thành công lớn mang
lại uy tín cho điện Kremlin : một tấm thảm đỏ được trải cho Vladimir
Putin, những nụ cười và nhiều cái bắt tay, rồi chuyến đi chung bất ngờ với
Donald Trump trên chiếc xe Cadillac của ông Trump từ lúc ông Putin bước xuống
máy bay cho đến tận nơi diễn ra thương lượng. Tất cả được phát lặp đi lặp lại
tràn ngập trên các phương tiện truyền thông Nga. Mục tiêu trên hết của điện
Kremlin là hợp pháp hóa quyền lực của Nga trên trường quốc tế.
Theo AFP, cuối buổi họp báo chung, tổng thống
Nga Vladimir Putin nói với nguyên thủ Mỹ Donald Trump là cuộc gặp mặt “lần
tới là tại Matxcơva”. “Thật thú vị. Tôi hình dung là chuyện này sẽ
có thể diễn ra”, ông Trump đáp lại.
Về phía cố vấn ngoại giao của điện Kremlin,
theo hãng tin Nga TASS, được Reuters trích dẫn, hôm nay ông Yury Ushakov nói rằng
chưa biết khi nào tổng thống Vladimir Putin và đồng nhiệm Mỹ Donald Trump sẽ gặp
lại nhau. Cũng theo ông, chủ đề về hội nghị thượng đỉnh ba bên giữa tổng thống
Nga, Mỹ và Ukraina chưa từng được thảo luận.
---------------------------
Các nội dung liên quan
Trump-Putin :
Mối quan hệ cá nhân « khó hiểu và mờ ám »
THƯỢNG ĐỈNH TRUMP-PUTIN TẠI ALASKA
Chiến
tranh Ukraina : Tổng thống Mỹ Trump họp với tổng thống Nga Putin tại Alaska
Điện
Kremlin : Thượng đỉnh Putin - Trump sẽ bàn về Ukraina và an ninh quốc tế
==============================
Donald Trump
và nỗi ám ảnh về giải Nobel Hòa Bình
Chi
Phương - RFI
Đăng ngày: 16/08/2025 - 09:19
Nỗi
khát khao đoạt giải Nobel Hòa Bình của Donald Trump qua thượng đỉnh Nga - Mỹ,
Tư tưởng « Đại Israel » gây bất ổn Trung
Đông, Thế giới quay lưng với nỗi thống khổ của phụ nữ Afghanistan dưới ách
Taliban, là những chủ đề chính trong tạp chí Thế Giới Đó Đây tuần này.
HÌNH :
Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump tại phòng Bầu
Dục ở Nhà Trắng, Washington, ngày 16/07/2025. AP - Alex Brandon
Nếu thượng đỉnh Trump - Putin cuối tuần này tại
Alaska, khiến cả thế giới đổ dồn sự chú ý, với hy vọng cuộc chiến kéo dài hơn
ba năm ở Ukraina sẽ chấm dứt, thì tại Nhà Trắng, « hòa bình cho
Ukraina » dường như chỉ là cái cớ để tăng uy tín và để giúp
Donald Trump đến gần với giải Nobel Hòa Bình, mà chủ nhân Nhà Trắng khao khát từ
bao năm qua.
Nhật báo Dagens Naeringsliv của Na Uy ngày 14/08 đưa
tin tổng thống Mỹ Donald Trump đã gọi điện cho bộ trưởng Tài Chính Na Uy Jens
Stoltenberg vào tháng Bảy để thảo luận về thuế quan, đồng thời cũng đề cập đến
giải Nobel Hòa bình. Đây không phải là lần tiên Donald Trump đề cập đến giải
thưởng cao quý này. Nhật báo Na Uy cho biết, nguyên thủ Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần nêu vấn
đề này với ông John Stoltenberg, cựu tổng thư ký Liên Minh Bắc Đại
Tây Dương.
Ngay từ nhiệm kỳ đầu, Donald Trump đã tự mô tả
mình là một người “vì hòa bình”, với nỗi ám ảnh thua kém “giải
thưởng” so với các tổng thống tiền nhiệm, đặc biệt là Obama. Điểm khác
biệt là trong nhiệm kỳ thứ hai này, “Trump thật sự muốn nhận được giải”,
theo như nhận định của một quan chức Mỹ. Điều này cũng nằm trong tầm
nhìn “First America” (Nước Mỹ trên hết) của ông Trump. Một
quan chức của Nhà Trắng chia sẻ, “đối với Trump, trong mỗi thảo
thuận hòa bình được ký kết, Hoa Kỳ đều có một lợi ích kinh tế nào đó”.
Thời gian gần đây, Nhà Trắng tích cực vận động
hành lang để thỏa mãn ám ảnh đó của chủ nhân Donald Trump. Hồi tháng Hai vừa
qua, trong một cuộc gặp với thủ tướng Israel tại phòng Bầu Dục, tổng thống
Trump bộc bạch : “Thật đáng tiếc, tôi xứng đáng nhận được giải
Nobel Hòa bình, nhưng họ sẽ không bao giờ trao cho tôi giải này”.
Khi trở lại Nhà Trắng, ông khẳng định cuộc
chiến tại Ukraina là chiến tranh của Biden, và cả cuộc tấn công khủng bố của
Hamas vào Israel, dẫn đến cuộc trả đũa dẫn đến thảm họa ở Gaza… tất cả
những cuộc chiến đó sẽ không bao giờ xảy ra nếu ông là tổng thống vào lúc
đó.
Trên mạng xã hội Truth Social, ông tự nhận
công lao về mình, với những lời lẽ cay đắng, cho rằng dù có làm gì chăng nữa
thì cũng sẽ chẳng nhận được giải Nobel Hòa bình. Ông đưa ra một danh sách
dài các cuộc xung đột “nhờ Trump” đã chấm dứt. Chẳng hạn như
cuộc xung đột giữa Ấn Độ và Pakistan, thỏa thuận giữa Rwanda và CH Congo, hay
hiệp ước giữa Azerbaidjan và Armenia. Thậm chí, “dù có giải quyết được xung đột
giữa Israel và Iran, hay giữa Nga và Ukraina”, thì giải cũng không đến tay ông.
Hôm thứ Năm vừa qua, trong phòng Bầu Dục, tổng
thống Hoa Kỳ một lần nữa khẳng định “tôi đã giải quyết 6 cuộc chiến
trong vòng 6 tháng qua, và tôi rất tự hào về điều này”.
Giải thưởng này cũng trở thành một cách để
các lãnh đạo quốc tế lấy lòng ông Trump. Theo trang Politico, nhiều lãnh đạo quốc
tế, từ các nước châu Phi, đến các nước Đông Nam Á, như Cam Bốt, Pakistan, hay
Israel cũng kêu gọi đề cử giải thưởng này cho ông Trump.
Định nghĩa hòa bình của Donald Trump song
song với tư tưởng bành trướng
Song song với các chiến dịch quảng bá hình ảnh
về hòa bình, theo Le Monde, Donald Trump lại đưa ra đe dọa bành trướng,
từ việc sáp nhập Groenland, vốn thuộc Đan Mạch, cho đến việc giành quyền kiểm
soát kênh đào ở Panama và không loại trừ khả năng dùng vũ lực, và vô lý hơn là
việc biến láng giềng Canada thành bang thứ 51 của Hoa Kỳ.
Chính quyền Trump cũng đã cắt viện trợ cho
châu Phi, giải tán Cơ quan hỗ trợ phát triển quốc tế (USAID ), một hành
động bị lên án là “dẫn đến cái chết của những đứa trẻ nghèo nhất thế giới”.
Chính quyền Trump cũng đã trục xuất những người di dân khỏi lãnh thổ Hoa Kỳ mà
không cần tuân thủ những quy định của Nhà nước pháp quyền.
Với hàng trăm người được đề cử mỗi năm, những
người chiến thắng sẽ được chọn bởi Ủy ban Nobel Na Uy, gồm 5 thành viên, do Quốc
hội Na Uy bổ nhiệm, theo như mong muốn của Alfred Nobel từ thế kỷ 19.
Trang NBC News, trích dẫn một nhà ngoại giao, cho rằng Nobel Hòa
Bình không phải là giải cần phải vận động để được trao. Giải thưởng này được
đưa ra bởi những người độc lập, có ý kiến riêng, các cuộc thảo luận được bảo mật
và “không ai có thể mua giải. Na Uy cũng không cần tiền”. Ủy
ban của Na Uy nhận danh sách đề cử đến hết tháng Giêng và công bố kết quả vào
tháng 10.
Trong chuyến thăm Nhà Trắng hồi tháng 4, khi
được hỏi về triển vọng ông Trump giành giải Nobel Hòa bình, thủ tướng Na Uy
Jonas Gahr Støre đã trả lời : “Giải thưởng đó do một ủy ban riêng biệt
chịu trách nhiệm hoàn toàn theo cách riêng của họ và tôi không thể bình luận
về điều đó”.
Trước những áp lực, từ các chiến dịch quảng
bá hình ảnh, cách xây dựng liên minh chính trị, vốn là những yếu tố then chốt
mà Trump am hiểu, báo Mỹ NBC News đặt câu hỏi : “Không ai rõ liệu Ủy
ban Nobel có dễ bị thuyết phục hay không ?” Nhưng định chế này lại
hoàn toàn tách biệt với thế giới đó. Trong di chúc của mình, Alfred Nobel đã
tuyên bố rằng giải thưởng này sẽ được trao cho những “người đã làm nhiều
nhất hoặc tốt nhất công việc vì tình hữu nghị giữa các quốc gia”.
Một tổ chức tư vấn của Na Uy đã nêu ra một
danh sách những người có khả năng đoạt giải Nobel hòa bình 2025, gồm Liên đoàn
phụ nữ vì hòa bình và tự do, Cơ quan xử lý khẩn cấp Sudan, Thủ tướng Qatar, Văn
phòng OSCE về các Thể chế Dân chủ và Nhân quyền, nhưng không đề cập đến tên của
Trump.
Nga tăng cường giám sát trẻ em nhập cư để « ngăn
chặn hành vi phạm tội »
Tại Nga, hôm 13/08 vừa qua, báo Nga Vedomosti đưa tin các giáo viên tại Nga được khuyến
nghị giám sát những đứa trẻ có nguồn gốc nhập cư để phát hiện khả năng có hành
vi phạm tội. Một văn bản hướng dẫn cụ thể của bộ Giáo Dục và bộ Nội Vụ
được đăng tải trên trang web của sở Giáo Dục tại một số khu vực như
Bachkortostan, Sverdlovsk và Smolensk.
Văn bản này đưa ra một danh sách các hành vi
cần giám sát, kiểm tra các học sinh có những thái độ, hành động lệch lạc. Ví dụ,
những học sinh nộp bài viết thể hiện sự coi thường đối với lịch sử, các giá trị
truyền thống của Nga và các biểu tượng Nhà nước. Cách ăn mặc, tác phong, đồ vật
mang theo, có những đặc điểm của tôn giáo, chủ nghĩa cực đoan, tôn giáo cực
đoan… Giáo viên cũng phải lưu ý đến các cuộc trò chuyện giữa các học sinh về
các chủ đề chính trị, xã hội và tôn giáo, trong đó những phán đoán cực đoan và
dấu hiệu của sự không khoan dung được thể hiện.
Để ngăn chặn những hành vi này, các trường có
thể tổ chức những sự kiện để giảng dạy học sinh về các giá trị tinh
thần và tâm linh của Nga, học về những nền tảng pháp luật, các ứng xử xã hội và
lịch sử của Liên Bang Nga, hoặc tổ chức các giờ học về « Học cách
sống không xung đột », « tình hữu nghị giữa các dân tộc »,
« chúng ta khác nhau nhưng vẫn đoàn kết »…
Các giáo viên cũng được khuyến nghị có các cuộc
trò chuyện với từng học sinh riêng biệt, và ẩn danh, « một cách
không chính thức », để hiểu rõ hơn về tinh thần, thái độ của học
sinh.
Những biện pháp này được áp dụng đối với những
học sinh đến từ các gia đình nhập cư ở Nga, và cả cho cha mẹ của các em,
vì « trường học là nơi gặp gỡ giữa những người nhập cư và thế
giới chính thức ». Sứ mệnh của các giáo viên là « xây dựng
mối quan hệ hợp tác dựa trên liên lạc và tin tưởng ».
Theo chủ tịch Ủy ban Điều tra Nga Alexander
Bastrykin, "hành vi phạm tội của trẻ vị thành niên nhập cư là một vấn đề
đáng quan ngại. Số vụ phạm tội đã tăng 8 % vào năm 2024, từ 253 lên 381". Báo
Nga nêu rõ là tài liệu chỉ mang tính khuyến nghị, nhưng không mang tính bắt buộc
và các trường có thể không cần thực hiện.
Tư tưởng « Đại Israel » vẫn tồn tại
ở Nhà nước Do Thái
Về thời sự Trung Đông, trong một cuộc phỏng vấn
trên kênh i24news, ngày 12/08, thủ tướng Israel Benjamin Netayahu tuyên bố
nhận thấy một liên kết mạnh với tầm nhìn « Đại Israel ».
Đây là một chủ trương, hệ tư tưởng chính trị, ủng hộ việc mở rộng biên giới
Israel, bao gồm Cisjordanie và dải Gaza, cũng như một phần của Liban,
Syria, Jordanie, và vùng Sinai ở Ai Cập. Đại Israel cũng ám chỉ đến « Vùng
đất hứa cho những người con của Israel » được đề cập đến trong
Sách Sáng Thế.
Tiến sĩ về nghiên cứu khoa học chính trị tại
EHESS, chuyên gia về khu vực Trung Đông, Thomas Vescovi trả lời RFI Pháp Ngữ,
cho biết : « Tư tưởng này vẫn tiếp tục có nhiều người ủng hộ
tại Israel, đặc biệt là phe cực hữu trong chính phủ đương nhiệm. (Ví dụ, bộ trưởng
tài chính Bezalel Smotrich đã công khai đệ trình bản đồ bao gồm một số
nước Ả Rập, được đề cập đến trong hệ tư tưởng này.) Tuy nhiên, mọi người thường
quên rằng Netanyahu đi lên từ đảng Likud, cũng có cùng hệ tư tưởng này, và tiếp
tục thúc đẩy tầm nhìn « Đại Israel », có thể nói là có chút gì đó
« mang tính cứu thế trong chiến lược chính trị của Israel ».
Ngay sau phát biểu của ông Netanyahu, nhiều
nước Ả Rập đã mạnh mẽ chỉ trích Israel và yêu cầu giải trình. Bộ Ngoại Giao Ai
Cập lên án những tuyên bố mang tính khiêu khích, gây bất ổn khu vực. Ả Rập Xê
Út thì lên án tư tưởng và các dự án thuộc địa manh tính bành trướng của
Israel. Bộ Ngoại Giao Jordanie mô tả tầm nhìn của ông Netanyahu
là « ảo tưởng, vô lý », và nêu ra vấn đề về « quyền
hợp pháp và bất khả xâm phạm của người dân Palestine ». Liên đoàn
Ả Rập cũng lên án « ảo tưởng thực dân hung hăng của Israel »,
và sự coi thường nguy hiểm của ông Netanyahu đối với chủ quyền của các nước Ả Rập,
đe dọa nghiêm trọng đến an ninh của khu vực, đồng thời kêu gọi Hội đồng Bảo An
can thiệp.
Tuyên bố của thủ tướng Israel được đưa ra
không lâu sau khi quân đội Nhà nước Do Thái thông qua kế hoạch tái chiếm Gaza,
và bộ trưởng Tài Chính Bezalek Smotrich cũng phê duyệt dự án xây dựng 3000
nhà ở tại vùng « thuộc địa mới ». Dự án này có thể
chia cắt vùng Cisjordanie bị chiếm đóng làm hai, và cô lập miền tây Jerusalem.
4 năm sau khi Taliban lên nắm quyền, phụ nữ
Afghanistan đang bị quên lãng ?
Thứ Sáu, ngày 15/08/2025, đánh dấu 4 năm thủ
đô Kabul của Afghanistan rơi vào tay của Taliban. Kể từ khi giành lại quyền kiểm
soát Afghanistan, Mỹ rút quân, chính quyền Taliban dần củng cố quyền lực, áp dụng
luật Hồi giáo Sharia hà khắc. Phụ nữ và các bé gái dần bị « loại bỏ » khỏi
không gian công cộng, trường học. Taliban cũng bị quốc tế áp đặt nhiều lệnh trừng
phạt, bị cắt nguồn viện trợ, bị thế giới cô lập. Tòa án Hình sự Quốc
tế (CPI) đã phát lệnh bắt giữ hai lãnh đạo của Taliban vì hành quyết phụ nữ
Afghanistan, cấm họ đến trường, đến tập thể thao, hoặc đến các cơ sở làm đẹp,
ngăn cấm họ làm nhiều công việc. Liên Hiệp Quốc đã báo động Taliban
đang xây dựng một xã hội « không có phụ nữ ».
Khosrav Mani, nhà báo, nhà văn người
Afghanistan, sống tị nạn tại Paris từ 10 năm qua, nhận định với RFI Pháp
ngữ như sau : « Những gì đang xảy ra ở Afghanistan, theo tôi là một triệu
chứng của một thế giới bệnh hoạn, thu mình lại, vị kỷ đến tàn nhẫn. Hàng triệu
người, hàng triệu phụ nữ đã bị tước đi những quyền cơ bản nhất, ấy vậy mà chẳng
ai quan tâm. Không ai lên tiếng. Câu chuyện đã rơi vào quên lãng. Theo tôi, đó
là căn bệnh vô cảm, một kiểu thờ ơ mang tính thời đại và điều này rất nghiêm trọng, bởi
hậu quả sẽ khôn lường. Ngày nay, người ta nói đến 50.000, 100.000 lính Taliban
cực đoan, những kẻ khủng bố. Với thực trạng giáo dục hiện nay, hay nói đúng hơn
là thực trạng không có một hệ thống giáo dục ở Taliban, viễn
cảnh sẽ trở nên đen tối hơn trong nay mai ».
Chính phủ Taliban nay đã được Nga, thành viên
thường trực của Hội Đồng Bảo An công nhận. Taliban cũng duy trì quan hệ chặt chẽ
với nhiều nước ở Trung Á, với trung Quốc và Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất,
dù không được các nước này chính thức công nhận.
------------------------------
Các nội dung liên quan
Chiến
tranh Ukraina : Donald Trump thực tâm muốn trừng phạt Nga ?
Trump-Putin :
Mối quan hệ cá nhân « khó hiểu và mờ ám »
THƯỢNG ĐỈNH TRUMP-PUTIN TẠI ALASKA
Chiến
tranh Ukraina : Tổng thống Mỹ Trump họp với tổng thống Nga Putin tại Alaska
==========================
Không ngừng bắn,
không thỏa thuận: Thượng đỉnh Alaska có ý nghĩa gì với Trump, Putin và Ukraine?
BBC News Tiếng Việt
16 tháng 8 2025, 11:08 +07
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cvgpk9188xzo
VIDEO :
Tóm tắt diễn biến thượng đỉnh Trump-Putin
trong 82 giây
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cvgpk9188xzo
Tổng thống Mỹ Donald Trump và người đồng cấp
Nga Vladimir Putin đã rời Alaska mà không đạt được một thỏa thuận ngừng bắn ở
Ukraine.
Sau cuộc họp kéo dài gần ba giờ đồng hồ, hai
nhà lãnh đạo đã đưa ra tuyên bố chung trước giới truyền thông rồi rời đi mà
không trả lời bất kỳ câu hỏi nào.
Ba phóng viên BBC có mặt tại thành phố
Anchorage, bang Alaska, Mỹ, để theo dõi hội nghị thượng đỉnh đã đánh giá ý
nghĩa của cuộc gặp đối với các nhà lãnh đạo Mỹ và Nga cũng như những diễn biến
tiếp theo của cuộc chiến ở Ukraine.
Tổn hại danh tiếng ‘nhà đàm phán’ của ông
Trump
Nhận định của phóng viên Bắc Mỹ Anthony Zurcher
"Sẽ không có thỏa thuận nào cho đến khi
có một thỏa thuận", Tổng thống Donald Trump nói ngay từ đầu bài phát biểu
sau hội nghị thượng đỉnh tại Anchorage.
Đó là một cách vòng vo để thừa nhận rằng sau
nhiều giờ đàm phán, vẫn chưa có thỏa thuận nào. Không ngừng bắn. Không có gì cụ
thể để thông báo.
Tổng thống Trump nói rằng mình cùng ông
Vladimir Putin đã đạt được "một số tiến triển tuyệt vời", nhưng không
đưa ra các chi tiết, khiến thế giới phải tự tưởng tượng phần còn lại.
"Chúng tôi đã không đạt được điều
đó", ông Trump nói, trước khi rời phòng mà không trả lời bất kỳ câu hỏi
nào từ hàng trăm phóng viên có mặt ở đó.
Ông Trump đã đi một chặng đường
dài để chỉ để đưa ra những
phát biểu mơ hồ như vậy, dù các đồng minh châu Âu của Mỹ và giới chức Ukraine
có thể nhẹ nhõm vì ông không đưa ra nhượng bộ đơn phương hay các thỏa thuận có
thể làm suy yếu các cuộc đàm phán trong tương lai..
Đối với một người thích coi mình là người kiến
tạo hòa bình và một nhà đàm phán, có vẻ như nếu không đạt được một điều gì đó
thì ông Trump sẽ không rời Alaska.
Cũng không có dấu hiệu nào cho thấy một hội
nghị thượng đỉnh có sự tham gia của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky sẽ diễn
ra trong tương lai, bất chấp câu nói đùa "lần tới ở Moscow" của ông
Putin về cuộc gặp tiếp theo của họ.
Mặc dù ông Trump không có nhiều thứ để mất
trong các cuộc đàm phán này so với Ukraine hay Nga, nhưng kết quả này vẫn sẽ
làm tổn hại uy tín của ông, cả trong nước và quốc tế, nhất là sau những lời hứa
trước đó rằng khả năng thất bại của cuộc họp chỉ là 25%.
Hơn nữa, ông Trump rõ ràng đã phải trải qua cảm
giác bẽ bàng khi đứng im lặng trong lúc ông Putin bắt đầu cuộc họp báo bằng những
phát biểu dài dòng đáng lẽ không nên có.
Điều này rất khác với thông lệ tại Phòng Bầu
dục của Nhà Trắng, nơi tổng thống Mỹ thường là người kiểm soát cuộc họp trong
khi lãnh đạo nước ngoài thường im lặng quan sát.
Mặc dù Alaska là lãnh thổ của Mỹ, ông Putin
dường như cảm thấy thoải mái hơn khi các quan chức Nga thường nhắc đến vùng đất
mà họ gọi là "nước Nga tại
châu Mỹ" trước khi nơi này được bán cho Mỹ vào thế kỷ 19.
Điều này có thể khiến Tổng thống Mỹ càng thêm
bực bội trong những ngày tới, cũng như các bài báo sẽ gọi hội nghị này là một
thất bại.
===========================
'Lần tới tại
Moscow?': Năm điểm đáng chú ý hậu thượng đỉnh Trump - Putin tại Alaska
Laura Gozzi
BBC News
16 tháng 8 2025, 17:13 +07
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cly73kz4p4eo
Cuộc gặp mang tính quyết định giữa Tổng thống
Mỹ Donald Trump và Tổng thống Nga Vladimir Putin được mô tả là bước tiến quan
trọng hướng đến hòa bình cho cuộc chiến tại Ukraine.
VIDEO :
Thượng đỉnh Trump – Putin: ‘Tiến triển đáng kể, nhưng
không đạt thoả thuận
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/cly73kz4p4eo
Tuy nhiên, với việc không đạt được thỏa thuận
ngừng bắn, cùng với lời mời tới Moscow, cuộc hội đàm kéo dài gần ba giờ giữa
hai nhà lãnh đạo lại để ngỏ nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời.
Dưới
đây là năm điểm nổi bật từ hội nghị thượng đỉnh tại Alaska.
Putin trở lại sân khấu quốc tế trên thảm đỏ
Khi Tổng thống Vladimir
Putin chính
thức tái xuất trên sân khấu quốc tế vào hôm 15/8 (giờ Mỹ), bầu trời Alaska phủ
đầy mây. Đón ông tại Căn cứ liên hợp Elmendorf-Richardson là Tổng thống Mỹ
Donald Trump, với thảm đỏ đã được trải sẵn dọc đường băng.
Khi ông Putin tiến lại gần, ông Trump vỗ tay
chào đón. Hai nhà lãnh đạo bắt tay nồng nhiệt và trao nhau nụ cười thân thiện.
Đó là một khoảnh khắc đáng chú ý với ông
Putin - nhà lãnh đạo đang bị phần lớn các quốc gia phương Tây cô lập kể từ khi
Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine năm 2022. Từ đó, các chuyến
công du của ông gần như chỉ giới hạn ở các quốc gia thân thiện với Nga như Triều
Tiên, Belarus hay Việt Nam.
Việc hội nghị thượng đỉnh Alaska diễn ra đã
là một chiến thắng ngoại giao cho ông Putin. Nhưng màn tiếp đón long trọng này
có lẽ còn vượt xa cả kỳ vọng lớn nhất của Điện Kremlin. Chỉ trong vòng sáu
tháng, ông Putin từ "người bị ruồng bỏ" của phương Tây đã được chào
đón trên đất Mỹ như một đối tác và là một người bạn.
Cuối cùng, như để tô điểm thêm, trong một khoảnh
khắc tưởng chừng không nằm trong kịch bản: ông Putin bất ngờ nhận lời đi cùng
ông Trump trong chiếc limousine bọc thép của tổng thống Mỹ, thay vì dùng xe
công vụ mang biển số Moscow.
Khi chiếc xe lăn bánh rời khỏi sân bay, ống
kính truyền hình lia cận cảnh ông Putin ngồi ở hàng ghế sau, tươi cười.
Ông Trump chào đón ông Putin tại Căn cứ Liên
hợp Elmendorf-Richardson vào ngày 15/8/2025 tại thành phố Anchorage, bang
Alaska
Putin đối mặt với những câu hỏi ông chưa từng
bị chất vấn
Suốt 25 năm cầm quyền, Tổng thống Nga
Vladimir Putin đã thiết lập quyền kiểm soát tuyệt đối với truyền thông trong nước, bóp nghẹt tự do báo
chí và
thay thế thông tin bằng tuyên truyền.
============================
Tuần làm việc bốn
ngày tốt cho sức khỏe - vậy tại sao chúng ta không thực hiện?
Sofia Bettiza, BBC World Service
16 tháng 8 năm 2025
https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c626lv73xx7o
Làm việc năm ngày một tuần, tận hưởng cuối tuần
- rồi lại chuẩn bị tinh thần đối mặt với tâm trạng chán nản khi quay lại công
việc. Nhưng nếu mọi thứ không nhất thiết phải như vậy thì sao?
Một nghiên cứu mang tính bước ngoặt, được
công bố trên tạp chí Nature Human Behaviour - nghiên cứu quy mô nhất về vấn đề
này - phát hiện rằng rút ngắn tuần làm việc xuống còn bốn ngày giúp cải thiện
đáng kể sức khỏe tinh thần và thể chất của con người.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Boston đã theo
dõi bốn chỉ số chính: kiệt sức (burnout), mức độ hài lòng với công việc, sức khỏe
thể chất và tinh thần tại 141 công ty tại Mỹ, Anh, Úc, Canada, Ireland và New
Zealand.
"Chúng tôi nhận thấy sự cải thiện rõ rệt
trong sức khỏe và tinh thần của người lao động," tác giả chính Wen Fan nói
với BBC.
"Các công ty cũng ghi nhận mức tăng năng
suất và doanh thu. Giờ đây, khi thử nghiệm đã kết thúc, 90% số công ty tham gia
quyết định tiếp tục áp dụng tuần làm việc bốn ngày."
Phát hiện này bổ sung thêm vào khối lượng
ngày càng lớn của các nghiên cứu cho thấy tuần làm việc ngắn hơn có liên quan đến
sức khỏe tốt hơn, cân bằng giữa công việc và cải thiện cuộc sống, và nhìn chung
là sự hài lòng trong cuộc sống cao hơn.
Nghiên cứu này được thực hiện ngay sau một
nghiên cứu gần đây cho thấy làm việc quá nhiều giờ có thể làm thay đổi cấu trúc
não.
Vậy nếu lợi ích sức khỏe đã rõ ràng như thế -
điều gì đang ngăn chúng ta lại?
Văn hoá làm việc quá sức
Ở nhiều nền văn hoá, làm việc quá sức được
coi là một tấm huy hiệu danh dự, các tác giả của nghiên cứu cho hay
Trung Quốc được biết đến với văn hóa làm việc
"996", tức nhân viên làm từ 9 giờ sáng đến 9 giờ tối, sáu ngày một tuần.
Tại các ngành công nghệ và tài chính đang
phát triển mạnh ở Ấn Độ, nhân viên thường phải chịu áp lực làm việc liên tục,
giờ giấc thất thường để đáp ứng nhu cầu toàn cầu.
"Ở những nơi như Trung Quốc, Ấn Độ, Mỹ
và Anh, làm việc nhiều giờ được coi là một tấm huy hiệu danh dự," Giáo sư
Fan nói.
Tại Nhật Bản, tình trạng làm thêm giờ không
lương phổ biến đến mức nước này có hẳn một từ để chỉ "chết vì làm việc quá
sức": karoshi.
"Ở Nhật Bản, công việc không chỉ là công
việc – nó gần như là một nghi lễ xã hội," ông Hiroshi Ono, chuyên gia về
thị trường lao động và văn hóa nơi làm việc ở Nhật Bản, nhận định.
"Mọi người đến sớm và về muộn ngay cả
khi không có nhiều việc, chỉ để thể hiện sự tận tâm. Đó là một hành động mang
tính trình diễn. Giống như võ thuật, có hẵn một 'chiêu thức' để làm điều
đó."
Ông giải thích thêm rằng văn hóa tập thể của
Nhật Bản thúc đẩy điều này: "Có sự kỳ thị mạnh mẽ đối với những người 'ăn
theo'. Nếu một người bắt đầu nghỉ thứ Sáu, người khác sẽ nghĩ – 'tại sao họ lại
được nghỉ hôm nay?'"
Điều đáng chú ý là ngay cả những quyền lợi hợp
pháp như nghỉ phép khi vợ sinh con ở Nhật Bản cũng thường bị bỏ qua.
"Nam giới có thể nghỉ phép tới một năm,
nhưng rất ít người làm vậy – họ không muốn gây phiền phức cho đồng nghiệp,"
ông Ono nói.
Dù vậy, Giáo sư Wen Fan tin rằng những thử
nghiệm như của bà đang bắt đầu thay đổi nhận thức – ngay cả ở những nơi có truyền
thống làm việc quá sức mạnh mẽ.
-=========================
Stalin và Tưởng Giới
Thạch: Hai chính sách tương phản đối với quân dân chiến bại
Trần Văn Thọ
16/08/2025
Hôm nay (15/8) đánh dấu 80 năm chấm dứt Thế
chiến II. Rất nhiều sự kiện làm ta suy nghĩ. Nhiều bài học có thể rút ra về nỗ
lực tránh chiến tranh, về phương thức kết thúc chiến tranh, về chính sách đối xử
với quân dân chiến bại, v.v…
Gần đây có dịp đọc nhiều hơn về Tưởng Giới Thạch
tôi thấy nhân vật này có thể đối chiếu với Stalin trong việc đối xử với quân
dân nước bại trận, cụ thể là đối với Nhật Bản tại Trung Quốc khi Thế chiến II kết
thúc.
Sáng sớm ngày 9/8/1945, ngày mà trưa đó quả
bom nguyên tử thứ hai của Mỹ thả xuống Nagasaki, Liên Xô tuyên chiến với Nhật.
Liên Xô đơn phương phá bỏ Hiệp ước Trung lập Xô – Nhật và tuyên chiến khi Nhật
đã kiệt quệ, sắp phải đầu hàng đồng minh.
Một mặt Liên Xô đưa quân chiếm 4 đảo phía bắc
của Nhật và mặt khác tiến quân vào Mãn Châu, thuộc địa của Nhật tại phía bắc
Trung Quốc. Tại Mãn Châu, Liên Xô bắt 57 vạn quân dân Nhật Bản làm tù binh và
đưa về Tây Bá Lợi Á (Siberia). Ở vùng băng giá và thiếu thức ăn, không chịu nổi
đói lạnh và lao động khổ sai, gần sáu vạn người đã bỏ mình. Số còn lại phải nhiều
năm sau mới được trở về Nhật (những người cuối cùng về Nhật là năm 1956).
Tại Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch đóng vai trò
chủ đạo trong kháng chiến chống Nhật và tham gia vào nhiều quyết định trong việc
kết thúc chiến tranh ở mặt trận Thái Bình dương. Trưa ngày 15/8/1945, tại Trùng
Khánh, qua radio, Tưởng Giới Thạch đọc diễn văn tuyên bố thắng lợi trong cuộc
kháng chiến chống Nhật. Diễn văn nầy được thế giới đánh giá là “Diễn văn lấy đức
báo oán” hoặc “Tuyên ngôn thắng lợi của hòa bình”.
Quân đội thua trận của Nhật lo sợ Trung Quốc
sẽ trả thù đối với hành động của họ trong thời gian chiếm đóng (1937-1945), khi
nghe tuyên bố của Tưởng Giới Thạch họ yên tâm ngay. Tưởng Giới Thạch cho rằng
không được lấy oán báo oán mà phải lấy đức báo oán mới chấm dứt hận thù và mở một
tương lai mới giữa hai nước, hai dân tộc.
Phương châm lớn là như vậy nhưng ấn tượng nhất
là hành động cụ thể. Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho cán bộ phụ trách giải giới
quân đội Nhật không được tỏ thái độ của người chiến thắng, chỉ tước vũ khí,
nghiêm cấm chiếm đoạt tư trang, tiền bạc của quân và dân Nhật. Trong vòng chưa
tới một năm, khoảng hai triệu quân và dân Nhật tại Trung Quốc lần lượt trở về
nước an toàn.
Ngoài ra, Tưởng Giới Thạch không đòi Nhật bồi
thường chiến tranh và còn phản đối Liên Xô trong âm mưu chia cắt Nhật Bản khi
bàn về phương thức xử lý khi Nhật đầu hàng. Theo nhiều sử gia, điểm nầy liên
quan đến suy nghĩ chiến lược của Tưởng Giới Thạch về viễn ảnh một tương lai mà
Trung Quốc sẽ phải cùng với Mỹ và Nhật đối phó với phe cộng sản do Liên Xô lãnh
đạo.
Do chính sách của Stalin, sau Thế chiến II,
suốt một thời gian dài dư luận nói chung ở Nhật là ghét Liên Xô. Ngược lại, Nhật
có cảm tình với Đài Loan, đặc biệt nhiều người tỏ lòng biết ơn đối với Tưởng Giới
Thạch. Sau khi ông Tưởng mất (1975), ở tỉnh Chi Ba có lập Bia Dĩ Đức Báo Oán
(1985), ở Yokohama có Bia Dĩ Đức Báo Oán Tưởng Công Tụng Đức (1987, kỷ niệm 100
năm ngày sinh Tưởng Giới Thạch), ở tỉnh Aichi có đền thờ Trung Chính (1990,
Trung Chính là tên húy của Tưởng Giới Thạch).
Tính nhân văn của lãnh đạo trong những quyết
định lớn luôn được người sau trân trọng.
-----------
1 comment
So sánh Stalin và Tưởng là chuyện đối với
cùng một kẻ bại trận Nhât bản, là nước ngoài. Sẽ là hay hơn khi so sánh sự khác
nhau lúc kết thúc nội chiến Bắc- Nam của Hoa kỳ và của Việt Nam. Cả hai cuộc đều
là chiến tranh huynh đệ tương tàn và đều kết thúc bằng chiến thắng của miền bắc),
===================================
Những bài học lịch sử đắt giá cho tham
vọng lãnh thổ của Trump
Syrus Solo Jin | Foreign Policy
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
Lịch sử đã để lại những bài học đắt giá cho
tham vọng bành trướng của Trump.
Tháng 12/1899, John Barrett, cựu đại sứ Mỹ tại
Xiêm (ngày nay là Thái Lan), người từng dành nhiều tháng đi theo hạm đội Hải
quân Mỹ đã đánh bại hạm đội Tây Ban Nha ở Philippines, viết trên tờ New York
Times: “Chúng ta hiện đã đủ mạnh để lên tiếng trong thương mại và chính trị của
toàn bộ Thái Bình Dương.” Barrett lập luận rằng việc giành được một phần lãnh
thổ của Philippines “sẽ khiến chúng ta không chỉ trở thành cường quốc tối cao của
Thái Bình Dương, mà còn của toàn thế giới.”
Hơn một thế kỷ sau khi Barrett kêu gọi sự vĩ
đại toàn cầu, Donald Trump đã đưa vấn đề thâu tóm lãnh thổ trở lại bàn nghị sự
chính sách đối ngoại. Trong nhiệm kỳ đầu, ông bày tỏ ý định mua lại Greenland
và suýt chút nữa đã trì hoãn việc ký kết thỏa thuận hòa bình với Taliban để bảo
vệ quyền tiếp cận khoáng sản của Mỹ tại Afghanistan. Trong nhiệm kỳ thứ hai,
Trump đã thể hiện mong muốn kiểm soát Kênh đào Panama; liên tục khiến châu Âu
lo ngại khi tái đề xuất mua Greenland; kêu gọi Canada trở thành tiểu bang thứ
51; và cố gắng gắn chặt thỏa thuận hòa bình Nga-Ukraine với việc đảm bảo Mỹ có
quyền tiếp cận khoáng sản của Ukraine.
Tham vọng về lãnh thổ và tài nguyên của Trump
phù hợp với hai ưu tiên của nhiệm kỳ đầu của ông: gia tăng quyền tiếp cận kinh
tế cho các công ty Mỹ và củng cố an ninh quốc gia. Tuy nhiên, chính quyền Trump
thứ hai còn nhiều lần liên kết các chính sách bành trướng này với việc khôi phục
uy tín cho nước Mỹ – từ khẩu hiệu “Làm cho Greenland Vĩ đại Trở lại” đến tuyên
bố của Trump rằng “Mỹ sẽ giành lại vị thế xứng đáng, là quốc gia vĩ đại nhất,
hùng mạnh nhất, được kính trọng nhất trên Trái Đất, khơi dậy sự kính nể và ngưỡng
mộ của toàn thế giới.”
Bài đang hot
17/08/1877: Billy the Kid sát hại nạn nhân đầu
tiên
Sự kết hợp giữa lợi ích kinh tế, an ninh quốc
gia, và uy tín thông qua thâu tóm lãnh thổ không phải là chưa từng có tiền lệ
trong lịch sử. Quá trình Mỹ mở rộng lãnh thổ vào thế kỷ 18 và 19 cũng thường được
biện minh bằng những lý do tương tự. Chẳng hạn, Tổng thống Thomas Jefferson lập
luận rằng việc mua Louisiana là “có lợi cho hòa bình và an ninh quốc gia,” giúp
bổ sung “những vùng lãnh thổ rộng lớn và màu mỡ,” và lan tỏa “phước lành của tự
do và quyền tự quản” của Mỹ ra khắp châu lục.
Nhưng cuối cùng, Mỹ đã từ bỏ tham vọng bành
trướng lãnh thổ, và những lý do tại sao họ làm vậy cho thấy những vấn đề nan giải
mà Trump có thể phải đối mặt nếu ông theo đuổi mong muốn đã tuyên bố là chiếm hữu
và duy trì quyền kiểm soát những vùng đất mới. Khác với thế kỷ 18 và 19, sức mạnh
toàn cầu của Mỹ trong thế kỷ 20 và 21 tăng lên là bởi vì họ đã từ bỏ lãnh thổ,
thay vì sáp nhập chúng.
Việc sáp nhập nhiều vùng lãnh thổ của Mỹ
trong thế kỷ 18 và 19, từ Ohio đến Texas, thường được khởi xướng bởi những người
định cư và sau đó được chính phủ liên bang ủng hộ.
Một số nhà lập quốc của Mỹ đã khuyên không
nên can thiệp vào nước ngoài vì điều này có thể dẫn đến rắc rối, nhưng họ lại
xem việc mở rộng lãnh thổ trên khắp lục địa là điều tự nhiên. Ví dụ, Tổng thống
John Quincy Adams, người nổi tiếng với lời cảnh báo chống lại việc tham gia vào
các cuộc chiến ở nước ngoài, đã viết vào năm 1811 rằng “với tôi, toàn bộ Lục địa
Bắc Mỹ dường như đã được Thượng Đế định sẵn là nơi cư trú của một Quốc gia duy
nhất.” Việc mở rộng lãnh thổ trên lục địa được mô tả là dân chủ và không gây
xung đột, hoặc là nhằm bảo vệ sinh kế của những người định cư đã di chuyển về
phía tây, và thường được trích dẫn như một lý do để ca ngợi sự vĩ đại của đất
nước.
Xuyên suốt thế kỷ 19, Mỹ đã mở rộng lãnh thổ
khắp lục địa và tiến đến Thái Bình Dương. Năm 1898, Philippines trở thành thuộc
địa của Mỹ sau khi nước này giành chiến thắng trong Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ.
Nhưng những người chỉ trích đã cảnh báo rằng
việc biến Philippines thành thuộc địa của Mỹ sẽ không dễ dàng. Thứ nhất, quần đảo
này có rất ít người Mỹ định cư, và việc chinh phục sẽ đòi hỏi một cuộc can thiệp
quân sự quy mô lớn. Dân số của Philippines khi đó lên tới hơn 5 triệu người, cộng
thêm phong trào đấu tranh giành độc lập đang diễn ra mạnh mẽ.
Tuy nhiên, cũng giống như những lập luận ủng
hộ việc mua Greenland ngày nay, những người Mỹ ủng hộ việc biến Philippines
thành thuộc địa khi ấy đã nhấn mạnh các cơ hội kinh tế, giá trị chiến lược, và
uy tín mà nơi này mang lại.
Các bài xã luận trên báo chí thảo luận về lượng
việc làm sẽ được tạo ra, trong khi các tạp chí thương mại tranh luận về lợi nhuận
của khoản đầu tư dài hạn. Thống đốc quân sự đầu tiên của quần đảo, Arthur
MacArthur Jr., đã ra làm chứng trước Quốc hội về “giá trị vô giá và không thể
diễn tả được của quần đảo, cả về mặt chiến lược lẫn thương mại,” đồng thời lập
luận rằng việc Mỹ rút quân sẽ tạo ra một khoảng trống bất ổn. Tổng thống Mỹ
tương lai William Taft, người từng là thống đốc Philippines, cũng nhấn mạnh
“triển vọng phát triển trong tương lai của ngành công nghiệp và thương mại của
quần đảo” như một lý do để duy trì thuộc địa này.
Uy tín đóng vai trò đáng kể trong mong muốn
xâm chiếm Philippines của Mỹ. Thập niên 1890 là giai đoạn mà người Mỹ tương đối
bất an, với các cuộc khủng hoảng kinh tế, bất bình đẳng thu nhập gia tăng, tham
nhũng chính trị, các chuẩn mực xã hội thay đổi, và tâm lý bi quan về tương lai
của đất nước.
Tổng thống William McKinley, người mà đảng của
ông đã phải đối mặt với cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ đầy khó khăn năm 1898, rất muốn
nêu bật Philippines như một ví dụ về những thành tựu của chính quyền ông. Ngay
trong đêm Hải quân Mỹ đánh bại lực lượng Tây Ban Nha tại Vịnh Manila, McKinley
nói rằng ông đã yêu cầu một người vẽ bản đồ “đưa Philippines vào bản đồ nước Mỹ…
và nó sẽ ở đó chừng nào tôi còn là Tổng thống!” Việc sáp nhập lãnh thổ này đã
mang lại cho chính quyền một nguồn cung cấp tính chính danh trong thời điểm thiếu
các lựa chọn khác.
Dù vậy, cuối cùng, những người chỉ trích đã
đúng: Chiếm Philippines không phải việc dễ dàng. Mỹ đã phải điều 125.000 quân đến
để khuất phục quần đảo này bằng một cuộc phản công tàn bạo, ước tính gây ra cái
chết cho 200.000 dân thường. Binh lính Mỹ, những người phải sống xa nhà và đang
mong chờ một chiến thắng nhanh chóng, đã phải chật vật với chiến tranh du kích.
Các nhóm đối lập ở Mỹ đã công khai những câu chuyện rùng rợn về các vụ thảm sát
thường dân và đốt phá nhà thờ.
Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1902 và
Mỹ củng cố quyền cai trị, đã có những bất đồng nội bộ về cái giá để duy trì thuộc
địa Philippines. Một số người Mỹ phản đối viễn cảnh hợp nhất cộng đồng không phải
người da trắng vào nước Mỹ nếu họ được cấp quyền công dân.
Đến năm 1914, Theodore Roosevelt – lúc đó đã
là cựu tổng thống và từng là một người theo chủ nghĩa đế quốc nhiệt thành, người
đã kiên quyết bảo vệ việc sáp nhập vĩnh viễn Philippines – lại lập luận rằng
Philippines là một gánh nặng chiến lược, gây căng thẳng cho Hải quân Mỹ trong
việc bảo vệ hàng ngàn dặm bờ biển cách xa chính quốc.
Khi quyết định phải làm gì với lãnh thổ này,
cuối cùng Mỹ đã chọn một giải pháp trung dung: chuyển giao phần lớn nhiệm vụ an
ninh cho phía Philippines, đồng thời “Philippines hóa” hầu hết các hoạt động quản
lý dân sự, và – để đáp lại các hoạt động kích động mang tính dân tộc chủ nghĩa
của giới tinh hoa Philippines – cam kết trao trả độc lập cho quần đảo, điều đã
được thực hiện sau Thế chiến thứ II.
Nhưng việc từ bỏ giấc mơ lãnh thổ không chỉ
phản ánh xu hướng phi thực dân hóa rộng lớn hơn, mà còn là một tính toán địa
chính trị. Đến năm 1946, các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã đảm bảo được những
lợi ích quan trọng nhất mà Philippines có thể mang lại: một chuỗi các căn cứ
quân sự và các thỏa thuận thương mại có lợi. Không cần phải cai trị nhưng vẫn đảm
bảo lòng trung thành của Philippines, Mỹ đã tìm ra những cách thức linh hoạt
hơn để đạt được điều mình muốn.
Đã có những ngoại lệ, nhưng nhìn chung, chúng
ta có thể mô tả chính sách đối ngoại của Mỹ kể từ đó đến nay là tìm kiếm quyền
lực mà không cần lãnh thổ. Các thuộc địa cần phải được quản lý; còn các thỏa
thuận căn cứ quân sự với đồng minh thì không.
Xin nói rõ: việc thâu tóm quyền lực thông qua
các biện pháp phi lãnh thổ không hề vô hại. Kể từ năm 1945, Mỹ đã gây ra và
dung túng bạo lực kinh hoàng thông qua các chiến dịch bí mật, can thiệp quân sự
quy mô nhỏ, thay đổi chế độ, hỗ trợ đảo chính, viện trợ quân sự, bán vũ khí, và
nhiều hình thức khác.
Tuy nhiên, bằng cách từ bỏ việc sáp nhập lãnh
thổ, Mỹ đôi khi đã bảo vệ được lợi ích của mình một cách khéo léo, đồng thời
tránh được những cái giá khủng khiếp khi sở hữu thêm nhiều bất động sản trên thế
giới. Thay cho các cuộc chinh phạt, các tổng thống đã có thể trích dẫn những
nguồn lực khác tạo nên “sự vĩ đại” của nước Mỹ trong các diễn văn nhậm chức và
Thông điệp Liên bang, chẳng hạn như tăng trưởng kinh tế trong nước, sự thịnh vượng,
hay những thành công ngoại giao. Khi tạm thời gạt sang một bên những vấn đề về
chuẩn mực, đạo đức, hay phúc lợi con người, các nhà lãnh đạo Mỹ đã nhiều lần nhận
định rằng uy tín tiềm tàng từ việc sáp nhập lãnh thổ không liên quan gì đến việc
theo đuổi vị thế siêu cường toàn cầu.
Không phải ngẫu nhiên mà trong thời điểm công
chúng bi quan sâu sắc về tương lai của đất nước như hiện nay, chính quyền Trump
lại cân nhắc việc mua lại Greenland và Panama.
Việc tô điểm thêm nhiều vùng trên bản đồ thế
giới bằng màu sắc của nước Mỹ dường như là một cách đơn giản để khôi phục niềm
tự hào dân tộc và uy tín quốc gia cho một chính quyền ưu tiên các giải pháp
“thân thiện với truyền thông” – dù đó là video ASMR về các vụ trục xuất, hay
các cuộc tấn công tên lửa được phát sóng rầm rộ trên truyền hình cáp – hơn là
việc hoạch định chính sách một cách cẩn trọng. Nhưng quá trình để thực sự giành
được một vùng lãnh thổ lại không hề đơn giản. Chiếm Greenland là một nguồn uy
tín thay thế cho một chính quyền không quan tâm đến việc giải quyết những vấn đề
nội bộ khó khăn đang khiến hầu hết người dân Mỹ lo lắng.
Sau cùng thì, tất cả uy tín trên thế giới
cũng không thể xóa bỏ những thách thức và rủi ro của việc sáp nhập lãnh thổ mới,
như Mỹ đã học được từ Philippines hơn một thế kỷ trước. Nếu Trump có được món
quà lãnh thổ mà ông mong muốn, có lẽ ông sẽ bắt đầu ước có một chính sách để
hoàn trả nó.
Syrus Solo Jin là học giả về lịch sử quân sự
hiện đại tại Đại học New York. Ông chuyên nghiên cứu lịch sử quân sự Mỹ, vai
trò của Mỹ trên thế giới và quan hệ Mỹ – Đông Á.
=========================
Trump, Putin, và tương lai của Ukraine
Gideon Rachman, “Trump, Putin and the
future of Ukraine,” Financial Times
Nguyễn Thị Kim Phụng, biên dịch
https://nghiencuuquocte.org/2025/08/14/trump-putin-va-tuong-lai-cua-ukraine/
====================
ĐỂ CÓ MỘT CHÂU ÂU VÀ
UKRAINE HÒA BÌNH VÀ ỔN ĐỊNH, PUTIN PHẢI RA ĐI
Những
điểm chính trong bài dài này:
- Lý lịch của Putin
- Giấc mơ của Putin về thời vàng son của Đế
Quốc Nga
- Putin chiếm bán đảo Crimea chỉ là bước thăm
dò
- Putin Và Nhóm Đặc Quyền Lợi Ích Nga
(Russian Oligarch)
- Tài sản của Putin
- Liệu Putin có dám dùng bom nguyên tử
- Ukraine Và Niềm Tin Vào Sức Mạnh Của Nền
Dân Chủ
- Giải pháp duy nhất cho nền hòa bình của
Ukraine và ổn định của Châu Âu là, ngoài chính phủ Ukraine, các lãnh đạo Mỹ,
Châu Âu và thế giới yêu chuộng tự do dân chủ phải áp dụng mọi biện pháp buộc
Putin phải ra đi.
Cơ chế chính trị Nga đặt cơ sở trên Hiến Pháp
1993 là một nước Dân Chủ Liên Bang. Lời Mở Đầu của Hiến Pháp Nga ghi rõ “…khẳng
định sự vững chắc của nền tảng dân chủ, nỗ lực đảm bảo sự thịnh vượng và hạnh
phúc của nước Nga, xuất phát từ trách nhiệm đối với Tổ quốc trước các thế hệ hiện
tại và tương lai, nhận thức mình là một phần của cộng đồng thế giới, thông qua
HIẾN PHÁP LIÊN BANG NGA.” Cũng theo hiến pháp 1993, không có một hệ tư tưởng
nào chiếm giữ vai trò thống trị tuyệt đối nhưng tôn trọng các giá trị nhân quyền
phù hợp với công pháp quốc tế.
Nói chung các điểm căn bản của Hiến Pháp Nga
cũng giống như hầu hết hiến pháp của các quốc gia dân chủ.
Sự thất bại trong các chính sách kinh tế,
chính trị của Tổng thống Boris Yeltsin từ 1991 đến 1996 đã tạo ra hàng loạt các
cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị và cơ hội cho những cá nhân và tập đoàn quyền
lực mới lên nắm quyền. Đứng đầu nhóm đó là Vladimir Vladimirovich Putin và các
Oligarch, những tài phiệt xuất hiện trong thời kỳ tư nhân hóa nền kinh tế.
Putin không thay đổi hiến pháp từ chế độ dân
chủ sang độc tài chuyên chế mà chỉ sửa đổi hiến pháp hay bầu cử gian lận để kéo
dài quyền cai trị.
Không ai muốn chiến tranh. Dân tộc Ukraine lại
càng không muốn chiến tranh lần nữa trên đất nước họ. Chỉ trong vòng 100 năm trở
lại đây, dân tộc bất hạnh này đã chịu đựng quá nhiều từ Nạn Đói 1933, Thế chiến
Thứ Hai đến Nạn Đói 1946.
Tháng 4, 2014, một tháng sau khi Nga cưỡng
chiếm bán đảo Crimea, trong một bài viết về chính sách đối ngoại của Mỹ, người
viết có nhấn mạnh “Rất nhiều bài viết và phân tích về tham vọng bành trướng của
Putin. Điều quan trọng nên nhớ, tham vọng của Putin không dừng lại ở bán đảo
Crimea mà là Ukraine.” (Chính Luận Trần Trung Đạo, Cổ Loa xuất bản 2014, trang
149)
Nhận định “tham vọng của Putin không dừng lại
ở bán đảo Crimea mà là Ukraine” không phải là một lời tiên đoán vu vơ nhưng rút
ra từ các luận điểm về nhân cách, tham vọng quyền lực của Putin, chủ nghĩa dân
tộc Nga và các mối quan hệ chính trị Châu Âu trong thời kỳ này.
Biết rõ lý lịch cá nhân, điều kiện trưởng
thành, quan điểm về lịch sử và tham vọng quyền lực của Putin sẽ hiểu ông ta hơn
và đối phó với ông ta thích hợp hơn.
Vladimir Vladimirovich Putin là ai?
Vladimir Vladimirovich Putin sinh tháng 10
năm 1952 tại Saint Petersburg trong một gia đình có cha là thương phế binh
trong mặt trận Leningrad. Trong giai đoạn đó, hầu hết học sinh đều mơ ước trở
thành Yuri Alekseyevich Gagarin, phi hành gia Liên Xô bay vòng quanh trái đất,
Putin lại mơ ước trở thành một nhân viên mật vụ KGB. Tác phẩm “Thanh kiếm và Lá
Chắn” được chuyển thành phim nhiều tập đã làm say mê cậu thiếu niên hiếu động
Putin. Khoảng mười tuổi, cậu Putin theo học võ Sambo, một loại võ thuật Nga phối
hợp giữa Judo, Karate và đô vật.
Báo USA Today giới thiệu tám tác phẩm viết về
Putin mà độc giả nên đọc nếu muốn biết về Putin, trong số đó có tác phẩm Người
Không Mặt (The Man Without A Face) của Masha Gessen. “Người Không Mặt” vẽ lại
con đường Putin đã đi qua từ khi sinh ra, khôn lớn và trưởng thành. Putin có một
thời thiếu niên phá phách được nuôi dưỡng trong nhà tập thể vì có cha là thương
phế binh.
Sau khi tốt nghiệp trường luật Leningrad
State University năm 22 tuổi, Putin gia nhập KGB. Putin được huấn luyện trong
các trường đào tạo phản gián Nga. Những năm sau đó hoạt động của ông ta hoàn
toàn đóng khung trong lãnh vực an ninh tình báo. Vì có một đời sống khá bí mật
nên phần lớn chi tiết trong tiểu sử của Putin đều do ông kể lại và không thể kiểm
chứng. Putin bắt đầu như một nhân viên KGB cấp thấp ở Saint Petersburg cho đến
khi được điều sang làm nhân viên tình báo ở thành phố Dresden, Đông Đức.
Dù sao, sau 16 năm trong nghề và không có nhiều
cơ hội tiến thân, Putin cũng được thăng đến chức vụ trung tá KGB. Nghề an ninh
tình báo của Putin chấm dứt sau sự sụp đổ của Liên Xô. Ông trở về Saint
Petersburg và bắt đầu các hoạt động chính trị.
Putin, Mầm Mống Độc Tài
Năm 1996 Putin lên Moscow để tham gia chính
quyền của Boris Yeltsin. Vận dụng cơ hội bất ổn chính trị và khoảng trống lãnh
đạo Nga trong nhiệm kỳ sau của Boris Yeltsin, chỉ ba năm, từ một người mới đặt
chân vào sinh hoạt chính trị ở thủ đô Moscow,Vladimir Putin trở thành thủ tướng,
quyền tổng thống và tổng thống.
Năm 1999, quan điểm lịch sử của Putin thể hiện
trong bài viết Nước Nga Trước Thềm Thiên Niên Kỷ (Russia At The Turn Of The
Millennium) ký tên ông ta mặc dù được các nhà phân tích cho là kết quả của một
nhóm trong đó có Putin: “Tôi chống lại việc khôi phục hệ tư tưởng nhà nước
chính thức ở Nga dưới mọi hình thức. Không nên có một hiệp ước dân sự cưỡng bức
trong một nước Nga dân chủ. Hiệp ước xã hội chỉ có thể là tự nguyện. Đó là lý
do tại sao điều quan trọng là phải đạt được sự đồng thuận xã hội về các vấn đề
cơ bản như mục tiêu, giá trị và định hướng phát triển, điều mà phần lớn người
Nga mong muốn và hấp dẫn. Sự thiếu vắng các hiệp định và thống nhất dân sự là một
trong những lý do tại sao cải cách của chúng ta rất chậm chạp và đau đớn. Phần
lớn sức lực được dành cho việc tranh giành chính trị, thay vì xử lý các nhiệm vụ
cụ thể của công cuộc đổi mới nước Nga.”
“Đồng thuận xã hội” trong quan điểm Putin
không đặt trên các giá trị dân chủ phổ quát mà đặt trên các “giá trị truyền thống”
từ thời Nga Hoàng. Giá trị đó theo Putin phát xuất từ ba đặc điểm (1) lòng yêu
nước (patriotism), (2) chế độ trung ương tập quyền (statism), (3) đoàn kết xã hội
(social solidarity).
Cũng trong bài viết đó, Putin cho rằng “Nga
đã và sẽ vẫn là một cường quốc. Quốc gia được quy định trước bởi các đặc điểm
không thể tách rời về địa chính trị, kinh tế và nền văn hóa đang tồn tại. Các đặc
tính này xác định tâm lý của người Nga và chính sách của chính phủ trong suốt lịch
sử và không thể làm khác hơn trong hiện tại.”
Putin và Bộ Máy Tuyên Truyền
Là một người được rèn luyện và học tập dưới
chế độ CS, các phương pháp Putin dùng để đối nội cũng như đối ngoại đều là các
phương pháp CS. Putin xem tuyên truyền và bạo lực là hai vũ khí quan trọng để
duy trì cai trị. Thay vì dựng Putin thành những “anh hùng xã hội chủ nghĩa” như
anh hùng mỏ than Alexey Stakhanov thời LX, bộ máy tuyên truyền qua các công ty
quan hệ công chúng (PR) do Putin thuê mướn dựng Putin thành những nhân vật
trong phim hoạt họa hay trò chơi điện tử thích hợp với thị hiếu trẻ em như Putin
dũng sĩ, Putin câu cá, Putin đấu võ, Putin săn bắn, Putin đấu bò v.v..
Hiện đại hơn các kỹ thuật tuyên truyền CS trước
đây, các công ty PR ngày nay áp dụng các phương pháp tâm lý học để chinh phục ý
thức của người nghe. Không ít người Nga thật sự tin Ukraine là một quốc gia
phát-xít và một ngày không xa sẽ tấn công Nga. Những lời tố cáo dối trá này
không chỉ phát ra từ đội ngũ dư luận viên mà chính từ cửa miệng của Putin.
Putin Và Giấc Mơ Về Thời Vàng Son Của Đế Quốc
Nga
Nhận thức về “giá trị truyền thống” của Putin
phản ảnh truyền thống hay nói khác hơn là quan điểm chủ nghĩa dân tộc của Nga
thời đế quốc kéo dài gần 200 năm (1721-1917) từ thời Peter Đại Đế cho đến khi
Nicholas II và gia đình bị CS giết ngày 17 tháng 7, 1918.
Lãnh thổ của Đế Quốc Nga thời cực thịnh trải
rộng 36 triệu cây số vuông từ Bắc Băng Dương, xuống Hắc Hải qua Biển Baltic,
sang Alaska và ngay tại Bắc California của Mỹ cũng từng có vùng Fort Ross thuộc
lãnh thổ Nga. (Mỹ mua lại Alaska của Nga năm 1867 giá 7.2 triệu dollar, khoảng
2 xu một mẫu. Fort Ross do một người Mỹ mua lại của một công ty Nga giá 19,788
dollar ).
Quan điểm lịch sử Nga của Putin thể hiện khá
rõ trong luận văn “Về Sự Thống Nhất Lịch Sử Của Người Nga Và Người Ukraine” (On
the Historical Unityof Russiansand Ukrainians) công bố vào 12 tháng 7, 2021 để
biện minh cho hành động xâm lược Ukraine sắp tới.
Luận văn cho thấy Putin quả thật sống trong
quá khứ. Ông viết: “Người Nga, người Ukraine và người Belarus đều là con cháu của
Rus cổ đại, là nhà nước lớn nhất ở châu Âu. Người Slav và các bộ lạc khác trên
toàn lãnh thổ rộng lớn - từ Ladoga, Novgorod, Pskov đến Kiev và Chernigov - được
ràng buộc với nhau bởi một ngôn ngữ (mà ngày nay chúng ta gọi là tiếng Nga cổ),
quan hệ kinh tế, sự cai trị của các hoàng tử của triều đại Rurik... Sự lựa chọn
tâm linh của Thánh Vladimir, người vừa là Hoàng tử của Novgorod vừa là Hoàng tử
của Kiev, vẫn quyết định phần lớn mối quan hệ của chúng ta ngày nay.”
Nếu giải thích lịch sử theo cách của Putin,
phần lớn các quốc gia Châu Âu hiện đại sẽ không còn tồn tại vì hoặc là phần của
Nga hay của Đức hay của Ba Lan hay của Thụy Điển, hay thậm chí của những tay cướp
biển Viking. Với đầu óc thiên triều đó, Putin vẫn nhìn sang các nước lân bang
trong cách nhìn của các Nga Hoàng thế kỷ 18.
Putin Và Hàng Rào An Ninh Chung Quanh Nga
Công tâm mà nói, việc quan tâm đến an ninh
ngoài biên giới Nga của Putin là một quan tâm có cơ sở. Tuy nhiên các biện pháp
mà Vladimir Putin áp dụng đối với các nước nhỏ có cùng biên giới với Nga là những
chính sách có tính cưỡng bách, lỗi thời và phi nhân không khác gì Hitler trước
đây và Tập Cận Bình hiện nay.
Bán đảo Crimea chỉ là bước thăm dò phản ứng của
Phương Tây tương tự như trường hợp của Hitler khi chiếm vùng Sudetenland của Tiệp
Khắc dọn đường cho việc tiến chiếm toàn bộ Cộng Hòa Tiệp vào tháng 3, 1939. Dù
là Nga Hoàng, Nga Cộng hay Nga Putin đều nhấn mạnh đến việc thiết lập một hàng
rào an ninh chung quanh Nga. Bán đảo Crimea chỉ là một khoảng nhỏ trong “không
gian sinh tồn” của Nga. An ninh chính của Nga là hành lang Ukraine, lãnh thổ lớn
thứ hai, nằm ở phía tây.
Putin nuôi dưỡng các thành phần cai trị độc
tài và thần phục ông ta chẳng khác gì các nước chư hầu thần phục Nga Hoàng thời
phong kiến. Khi có một biến cố xảy ra trong nội bộ một quốc gia láng giềng có
thể tạo ảnh hưởng bất lợi cho Nga, Putin thường cất quân sang đánh dẹp dưới
danh nghĩa “bảo vệ hòa bình và ổn định” theo “lời mời” của nước nhỏ như trường
hợp xung đột Armenia-Azerbaija vào tháng 5, 2021.
Các nhà độc tài như Alyaksandr Lukashenka của
Belarusia, Nursultan Nazarbayev của Kazakhstan hay cha con nhà Aliyev của
Azerbaijan là những bằng chứng dùng độc tài cai trị chư hầu của Putin.
Lukashenka cai trị Belarusia suốt 28 năm qua
từ khi Liên Xô tan rã tới nay. Nazarbayev làm tổng thống Kazakhstan suốt năm
nhiệm kỳ. Năm 2019, Nazarbayev từ chức nhưng vẫn tiếp tục cai trị đất nước với
chức vụ danh dự “lãnh đạo quốc gia”. Heydar Aliyev và sau đó con trai Ilham
Aliyev cai trị Azerbaijan từ 1993 đến nay.
Các dân tộc bất hạnh vùng Trung Á chịu đựng
dưới ách CS bảy mươi năm để rồi khi ách CS vừa được tháo gỡ lại phải thay bằng
ách độc tài từ 1991 tới nay.
Putin Và Nga Trong Thế Kỷ 21
Nếu không có khối lượng vũ khí nguyên tử kế
thừa từ thời Liên Xô, Nga không phải là một cường quốc.Trong một cuộc chiến
tranh quy ước (không dùng vũ khí hóa học, sinh học hay hạt nhân), Nga không phải
là đối thủ của Mỹ và nhiều nước khác.
Nga cũng không phải là một siêu cường kinh tế.
Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP) của Nga đứng hàng 11
trên thế giới, sau Ý, Canada và cả Ba Tây.
Nền kinh tế Nga phát triển một chiều vì tùy
thuộc rất nhiều vào giá dầu hỏa. Nga là quốc gia sản xuất dầu lớn thứ ba trên
thế giới. Các nguồn lợi tức từ tài nguyên thiên nhiên chiếm tới 60 phần trăm
trong GDP của Nga. Khi giá dầu cao, GPD của Nga tăng nhưng khi giá dầu hạ GPD
giảm và nền kinh tế lâm vào suy thoái như trường hợp suy thoái kinh tế tài
chánh Nga vào những năm 2009 và 2014.
Một bài học về sự sụp đổ của LX còn đang được
đem ra bàn là bài học về chiến tranh năng lượng. Năm 1986, Saudi Arabia tăng sức
bơm từ 2 triệu thùng lên 10 triệu thùng một ngày làm giá dầu từ 30 dollar hạ xuống
tới mức chỉ còn khoảng 10 dollar một thùng. Nợ nước ngoài của Liên Xô tăng vọt
lên tới 50 tỉ dollar. Giá dầu quá thấp đã đẩy nền kinh tế đang suy thoái của
Liên Xô xuống vực và là một trong nhiều lý do làm sụp đổ cả cơ chế Cộng Sản.
Châu Âu tùy thuộc nhiều vào dầu hỏa Nga. Để
tránh khủng hoảng năng lượng, trong đợt đầu khi trừng phạt Nga, Mỹ và đồng minh
tránh trừng phạt trực tiếp vào dầu hỏa. Nhưng để đánh gục nền kinh tế Nga, trừng
phạt về dầu hỏa và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là biện pháp không tránh khỏi.Trong
nền kinh tế toàn cầu hóa, quốc gia bị trừng phạt chịu nhiều thiệt hại không có
nghĩa các quốc gia trừng phạt không bị thiệt hại. Nhưng trường hợp Mỹ và Nga
thì khác. Khi trừng phạt Nga, Mỹ và đồng minh cũng thiệt hại nhưng không nhiều
so với sự thiệt hại của Nga. Mỹ chỉ xuất cảng sang Nga 6.3 tỉ Mỹ Kim và nhập cảng
23.6 tỉ Mỹ Kim trị giá hàng hóa. Hai con số đó quá nhỏ so với việc Mỹ xuất cảng
306 tỉ sang Canada, 276 tỉ sang Mexico, 150 tỉ sang Trung Cộng. Theo nghiên cứu
của Hendrik Mahlkow, một nhà nghiên cứu thương mại tại Viện Kiel về Kinh Tế Thế
Giới ( Kiel Institute for the World Economy), Đức, cho biết “các lệnh cấm vận
thương mại sẽ ảnh hưởng nặng nề hơn đến Nga so với các đồng minh phương Tây.”
Về đời sống người dân, Nga vẫn còn là một nước
nghèo. Putin tự hào Nga là một cường quốc nhưng GDP theo đầu người của Nga chỉ
mới đạt tới 14,889.02 USD (2024), đứng tận hàng thứ 68 trên thế giới sau cả những
nước đang phát triển như Chile, Thổ Nhỉ Kỳ, Argentina và nhiều nước khác.
Putin Và Nhóm Đặc Quyền Lợi Ích Nga (Russian
Oligarch)
Để làm giàu nhờ chia chác và củng cố chiếc ghế
quyền lực, Putin dựng chung quanh ông ta một hàng rào gồm những Oligarch trong
nhiều lãnh vực, đặc biệt là kinh tế tài chánh. Danh từ Oligarch rút ra từ danh
từ Cổ Hy Lạp có nghĩa “cai trị bởi một nhóm nhỏ” và tại Nga phần đông nhóm nhỏ
này là những thương gia xuất hiện trong thời kỳ tư nhân hóa nền kinh tế.
Nhiều trong số các Oligarch Nga trước 1991
còn hai bàn tay trắng. Những nhà giàu nhờ “móc ngoặc” này thường thích khoe
khoang qua hình thức các siêu du thuyền. Cảnh sát Ý bắt một siêu du thuyền trị
giá 65 triệu euro của tỉ phú Nga Alexey Mordashov. Một siêu du thuyền khác trị
giá 50 triệu euro thuộc quyền sở hữu của Gennady Timchenko cũng bị giữ. Các việc
bắt giữ du thuyền tương tự đã diễn ra tại Pháp, Đức. Hai Dân Biểu Mỹ Tom
Malinowski (Dân Chủ) và Joe Wilson (Cộng Hòa) còn dự tính soạn thảo Đạo luật Du
Thuyền Vì Ukraine (Yachts for Ukraine Act) với nội dung tịch thu và bán các du
thuyền của các Oligarch Nga bị trừng phạt lấy tiền viện trợ nhân đạo cho
Ukraine.
Các nhà tư bản Mỹ và Châu Âu cũng làm giàu
nhưng phần lớn họ dùng lợi nhuận để đầu tư trở lại giúp kích thích nền kinh tế
phát triển cao hơn. Các Oligarch Nga không nhìn thấy những chân trời phát minh
hay thậm chí sở hữu những kiến thức đó. Các tỉ phú Nga thường gởi tiền lời bất
chính của họ vào các ngân hàng Thụy Sĩ. Bà Brooke Harrington, giáo sư xã hội học
tại Dartmouth College viết trên tạp chí The Atlantic qua so sánh cách khoe
khoang tiền của giữa các tỉ phú Nga và tí phú Mỹ và Anh: “Các tỉ phú như Elon
Musk, Jeff Bezos và Richard Branson đua nhau khoe khoang để phóng phi thuyền
vào không gian giữa sự phô trương rầm rộ của các phương tiện truyền thông, thay
vì kín đáo tận hưởng vận may của họ một cách riêng tư.”
Nga, Quốc Gia Tham Nhũng Trầm Trọng Nhất Châu
Âu
Theo Transparency International Index of
Corruption năm 2019 và 2020, Nga là quốc gia tham nhũng tệ hại nhất Châu Âu.
Tại Nga, giống như mọi chế độ độc tài khác,
làm ăn nhỏ “móc ngoặc” với các cấp nhỏ, làm ăn lớn “móc ngoặc” với cấp lớn và
làm ăn lớn nhất nước “móc ngoặc” với không ai khác hơn là Vladimir Putin. Mức
chia chác giữa Putin và tầng lớp Oligarch Nga đối với công chúng vẫn còn là một
bí mật nhưng với tình báo Mỹ chắc là không.
Tài sản của Putin
Theo tạp chí Fortune, Putin khai tài sản của
ông ta chỉ có tiền lương 149 ngàn dollar một năm, sống trong căn nhà rộng 70
mét vuông, một chiếc xe kéo và ba chiếc xe riêng. Nhưng cũng theo tạp chí uy
tín này, tài sản của Putin có thể lên đến 200 tỉ dollar. Theo điều tra của
Reuter, chỉ riêng khu nhà bên Hắc Hải được gọi là “Putin’s Country Cottage” đã
trị giá tới 1.4 tỉ dollar. Bản tuyên bố của Bộ Ngoại Giao Mỹ ngày 3 tháng 3,
2022 viết về tội ác của các Oligarch Nga: “Những cá nhân này đã làm giàu cho
chính mình với chi phí của người dân Nga, và một số đã nâng các thành viên
trong gia đình của họ lên những vị trí cao cấp …Những cá nhân này và các thành
viên gia đình của họ sẽ bị cắt khỏi hệ thống tài chính của Hoa Kỳ, tài sản của
họ ở Hoa Kỳ sẽ bị đóng băng và sẽ bị chặn sử dụng.”
Putin Sa Lầy Tại Ukraine
Như đã chứng minh nhiều lần trong lịch sử
loài người, trong đó có Nga, cuộc chiến bảo vệ tổ quốc khác với nội chiến. Một
Đề Đốc Hoàng Hoa Thám của Việt Nam với võ khí thô sơ đã giữ Yên Thế 30 năm cho
đến khi ngài bị ám sát. Một Đại Úy Władysław Raginis của Ba Lan với quân số chỉ
từ 350 đến 700 người đã giữ căn cứ Wizna, biên giới Ba Lan-Đức, ba ngày chống lại
đạo quân 42 ngàn dưới quyền Thống chế Đức Heinz Guderian. Khi hết đạn, đại úy
Władysław Raginis ra lịnh binh sĩ sống sót đầu hàng riêng ông ta chọn tự sát bằng
lựu đạn.
Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống can đảm
Volodymyr Zelensky, cuộc chiến bảo vệ đất nước của Ukraine đã chinh phục tình cảm
và hậu thuẫn của cả thế giới. Bộ máy tuyên truyền Nga đem nghề nghiệp đóng phim
cười của TT Volodymyr Zelensky để mỉa mai nhưng quên rằng ông ta đã học đủ năm
năm từ 1995 đến 2000 tại trường luật thuộc Viện Đại Học Kinh Tế Quốc Gia Kyiv
(Kyiv National Economic University). TT Mỹ Ronald Reagan, cha đẻ của chiến lược
“Hòa Bình Qua Sức Mạnh” đánh gục LX cũng từng là diễn viên điện ảnh. Putin vẽ
chân dung TT Zelensky như một Phát-xít nhưng không soi gương để thấy chính mình
mới là Phát-Xít. Tổng thống Zelensky hỏi lại Putin “Làm thế nào tôi có thể là một
Phát-Xít?” Tổng thống Zelensky gốc Do Thái. Ông nội của ông ta may mắn sống sót
nhưng ông cố và ba anh em của ông nội đều bị giết trong Holocaust. Quyết định
cùng sống cùng chết với Ukraine của ông đã thay đổi hướng đi của lịch sử châu
Âu.
Putin dám dùng bom nguyên tử?
Putin đem vũ khí nguyên tử ra hù dọa, nhưng
điều đó không biểu hiện sức mạnh của Nga mà thể hiện sự tuyệt vọng trong đường
cùng của Putin. Ông ta sẽ làm gì với kho võ khí hạt nhân? Không đợi gì Mỹ mà
ngay cả các cấp cao nhất trong quân đội Nga cũng buộc lòng có phản ứng nếu
Putin thật sự muốn dùng tới đòn nguyên tử. Một đất nước mênh mông bao bọc bằng
12 biển lớn nhưng Nga chỉ có vỏn vẹn một hàng không mẫu hạm Admiral Kuznetsov.
Suốt ba chục năm dưới sự cai trị của Putin, Nga không chế tạo được một hàng
không mẫu hạm nào. Trong lãnh vực kỹ thuật tiên tiến, theo tạp chí Global
Finance, Nga đứng hàng thứ 46 trên thế giới sau cả Ukraine, thứ 44.
Putin và đồng minh Tập Cận Bình
Chính trị thế giới đang thay đổi cấp bách và
sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng Nga, Mỹ, NATO mà ảnh hưởng cả Trung Cộng.
Hơn cường quốc nào khác, Tập Cận Bình cần ổn định để chạy đua với Mỹ và từng bước
bành trướng ra Thái Bình Dương.
Tập Cận Bình không thể bỏ Putin, đồng minh cần
thiết trong giai đoạn này, nhưng cũng không thể ủng hộ công khai. Họ Tập có nghị
trình riêng, ngắn hạn trong kế hoạch năm năm lần thứ 14 và dài hạn trở thành cường
quốc hàng đầu thế giới như ông ta đã phác họa trong diễn văn dài ba tiếng rưỡi
đồng hồ tại Đại Hội Đảng CSTQ lần thứ 19 năm 2017, nên không thể để xung đột
Nga-Ukraine làm gián đoạn.
Chuyến đi thăm Trung Cộng của Putin được báo
chí Nga thổi phồng nhân dịp Thế Vận Hội Mùa Đông về ý định không khác nhiều so
với chuyến đi thăm Mỹ của Đặng Tiểu Bình, 29 tháng 1, 1979, trước khi xâm lăng
Việt Nam. Putin muốn có sự ủng hộ công khai của Trung Cộng trong chiến tranh với
Ukraine. Tuy nhiên, Thông Cáo Chung Trung-Nga công bố ngày 4 tháng 2, 2022 dài
đến 5392 chữ bản tiếng Anh, không bàn trực tiếp đến xung đột Nga-Ukraine và thậm
chí không có một chữ Ukraine nào.
Mục đích trước mắt của Putin, giống như mọi
chế độ xâm lược khác trong lịch sử hiện đại, có thể đoán được theo thứ tự từng
bước:
(1) Bằng mọi giá chiếm cho được Ukraine,.
(2) Dùng khẩu hiệu cùng một nguồn gốc Rus cổ
đại để ổn định đời sống và lấy lòng dân Ukraine.
(3) Thiết lập một chế độ bù nhìn lâm thời và
sau đó bầu lên một lãnh đạo thân Nga qua bầu cử gian lận.
(4) Đàm phán có điều kiện với Mỹ, Châu Âu và
đồng minh để rút quân.
Mục đích đó của Putin sẽ không đạt được.
Ukraine Và Niềm Tin Vào Sức Mạnh Của Nền Dân
Chủ
Giả thiết vì một bất đồng nào đó giữa Putin
và Alexander Lukashenko, nhà độc tài Belarus, khiến Putin tức giận cất quân
sang đánh Belarus, liệu Mỹ và đồng minh có trừng phạt Nga cùng một mức độ như
khi Nga đánh Ukraine hiện nay? Câu trả lời là không. Ngoại trừ những tuyên cáo
ngoại giao, các quốc gia dân chủ sẽ không có biện pháp ủng hộ Belarus nào đáng
kể.
Một chế độ độc tài sống trên xương máu và sự
chịu đựng của cả dân tộc không xứng đáng được bênh vực hay bảo vệ.
Đồng ý rằng nhiều thế hệ lãnh đạo Ukraine đã
phạm phải những sai lầm như Viktor Yanukovych hiện còn đang trốn tránh ở Nga và
xã hội Ukraine vẫn còn nhiều tham nhũng. Tuy nhiên, nền tảng dân chủ vẫn còn
đó. Cơ chế dân chủ như cánh buồm giữ con tàu Urkaine không bị chệch hướng sang
độc tài quân phiệt hay hoàn toàn lệ thuộc vào Nga như Belarus hay những nước
Trung Á. Với niềm tin vào chế độ cộng hòa và sự ủng hộ của đại đa số nhân loại,
Ukraine sẽ thắng trận chiến cuối cùng chống xâm lược Nga.
Nhưng phải chăng sự ủng hộ quốc tế là yếu tố
quyết định cho tương lai của Ukraine? Không phải. Máu và nước mắt của từng người
dân và từng người lính Ukraine đang chảy trên sông Dnieper, chảy trên đường phố
Kyiv, Kharkiv, Mariupol, Kherson mới thực sự tưới lên những mầm xanh hy vọng của
cộng hòa Ukraine hôm nay và mai sau.
Với một tài sản khổng lồ hàng trăm tỉ dollar,
ngồi trên chiếc ghế quyền lực suốt 30 năm, căn bịnh chủ nghĩa dân tộc cực đoan
ăn sâu vào xương tủy, Putin không dễ dàng từ bỏ những gì ông ta đang có. Do đó,
giải pháp duy nhất cho nền hòa bình của Ukraine và ổn định của Châu Âu là,
ngoài chính phủ Ukraine, các lãnh đạo Mỹ, Châu Âu và thế giới yêu tự do dân chủ
phải áp dụng mọi biện pháp buộc Putin phải ra đi.
Trần Trung Đạo
(Phần lớn nội dung được trích trong Chính Luận
4 “Bài Học Từ Thế Giới” xb tháng 4, 2025)
https://www.facebook.com/photo?fbid=24801790316084954&set=a.424767094213949&locale=vi_VN
Vladimir Vladimirovich Putin
.
==============================
Tại sao Ukraine không phải là hình mẫu
cho đổi mới quốc phòng?
Vitaliy Goncharuk, “Ukraine Isn’t the
Model for Winning the Innovation War”, War on the Rocks,
12/08/2025
Viên Đăng Huy, biên dịch - Nghiên
Cứu Quốc Tế
No comments:
Post a Comment