Tạ Duy Anh
03/08/2025
https://baotiengdan.com/2025/08/03/buoc-qua-loi-nguyen-phan-1/
Theo
đề nghị của nhiều bạn đọc, nhân kỉ niệm 35 năm ngày “Bước qua lời nguyền” và
“Lũ vịt giời” được “vinh danh”, tôi xin lần lượt đăng lại cả 2 truyện.
Sau
đây là nhận xét của giáo sư Hoàng Ngọc Hiến:
“Đọc
truyện của Tạ Duy Anh, một câu hỏi được đặt ra: Giã từ thế kỉ XX bão táp và máu
lửa này và chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI “lý trí và nhân bản”, những lời nguyền
nào là đáng nguyền rủa? Những lời nguyền nào nhân loại trước sau phải bước qua?
Phải chăng câu hỏi bức thiết này cũng được đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia?
Phải chăng truyện của Tạ Duy Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới, dòng văn
học “Bước qua lời nguyền”…
***
Năm
lên bảy tuổi, tôi đã được giáo dục khá cẩn thận về vị trí mà tôi đang chiếm một
khoảng tí teo giữa cuộc đời mênh mông này. Tôi phải nhớ rằng thành phần gia
đình mình bần nông. Dĩ nhiên bần nông là gì, nó khác địa chủ phú nông ở chỗ nào
thì tôi không biết. Đầu óc trẻ con của tôi làm sao hiểu được những quy định phức
tạp ấy.
Khi
lật tập hồ sơ mỏng teo, có lẽ cũng đơn sơ như tâm hồn tôi, cô giáo dạy vỡ lòng,
xinh đẹp như tiên sa, lẩm bẩm: “Thành phần cơ bản. Được”. Rồi cô trịnh trọng
tuyên bố: “Kể từ hôm nay em có nghĩa vụ phải làm sáng danh cha anh mình”.
“Làm
sáng danh cha anh mình”. Nghe mù mờ mà hấp dẫn quá. Bởi ít nhất có một đứa
trong lớp “không được làm sáng danh cha anh mình”.
Con
bé có cái tên rất thành thị: Quý Anh. Nó kém tôi một tuổi, là đứa duy nhất
trong lớp có lý lịch phức tạp như lời người lớn vẫn nói. Ngày ngày nó đi học
cùng với chúng tôi nhưng bao giờ cũng sau một đoạn:
–
Mày là con địa chủ bóc lột!
Văng
vẳng bên tai Quý Anh suốt thời cấp một là những lời trêu chọc như vậy. Dường
như ý thức được số phận của mình, nó luôn luôn sợ hãi nhìn xung quanh, chiếc mũ
rơm bao giờ cũng che sụp gần hết mặt. Vào lớp nó khép nép ngồi ở bàn cuối.
Khi
cô giáo của chúng tôi giảng bài “Đôi bạn” thì Quý Anh trở thành một tên tội phạm
thực sự. Đoạn con hươu được con rùa mách, đá lão địa chủ ngã nhào, một đứa ngồi
giữa lớp hét toáng lên: “Bố con Quý Anh đấy! Chết cha bọn địa chủ đi”. Cả lớp
khoái chí trong khi Quý Anh gằm mặt nhìn xuống bàn. Nó không khóc nhưng gương mặt
đờ đẫn tới mức chính cô giáo phải chữa lại: “Không phải bố Quý Anh đâu. Chỉ là
một thằng bạn của bố em ấy thôi”.
Tan
học, đám trẻ con chúng tôi ùa chạy trên đê Chùa. Quý Anh tụt lại, lủi thủi như
con chó con bị đàn ruồng bỏ. Nó tưởng thế là thoát, nào ngờ hôm đó chúng tôi
quyết định phải “đấu” con bé thay bố nó.
Mặt
tái mét. Quý Anh bị xô đi đẩy lại, đứng vào giữa vòng tròn. Thoạt đầu một đứa
con gái trong đám bần nông cầm roi quất vào người Quý Anh:
–
Tại sao mày bóc lột nhân dân?
Quý
Anh ôm chặt chiếc cặp sách, mắt trống rỗng nhìn đám đông. Một hòn đất nát bay
thẳng vào mặt con bé: “Khai mau!”. Lại một hòn nữa rồi cả trận mưa đất trút lên
toàn thân Quý Anh. Nó vội ngồi thụp xuống đưa tay lên gỡ đất và xoa vết thương,
không hé nửa lời.
–
Thôi tha cho nó, hôm sau lại đấu tiếp.
Hôm
sau, tháng sau và suốt một thời trẻ con, chúng tôi không ngớt hành hạ Quý Anh.
Có hôm mặt nó tím bầm. Cũng có bận nó khóc, còn đa phần nó gắng chịu đựng. Một
sự chịu đựng mà ngay cả lúc lớn tôi vẫn không sao giải thích được.
Bố
Quý Anh là lão địa chủ nòi. Thấy bảo trước kia lão gian ác có hạng. Sau Cải
cách ruộng đất, gia sản của lão bị xé nát và vợ chồng lão phải dựng lều ra ở
rìa làng. Chẳng biết ngày xưa lão lý trưởng ăn gan uống máu ra sao, nhưng khi
tôi lớn lên chỉ thấy lão nhu mì như hòn đất. Suốt ngày lão câm lặng, cặm cụi
cùng vợ con cày xới mảnh vườn bé tí tẹo. Ra đồng, lão lý trưởng xưa kia cũng đứng
riêng một chỗ. Gặp từ đứa trẻ lên sáu, nhất nhất lão đều lên tiếng chào trước.
Một
hôm tôi bảo với bố tôi:
–
Ông Hứa ngày xưa ác bá ra sao, mà ngày nay ông ấy hiền thế.
Bố
tôi trợn mắt:
–
Mày sắp quên mối thù rồi đấy. Chẳng qua thời nay là thời của bần – cố nông thì
lão phải chịu đấy con ạ. Mẹ tiên sư, giá lúc nó xua tuần đến đốt nhà ông nội
mày mà mày được chứng kiến nhỉ!
–
Lão Hứa xua hả bố?
–
Chứ còn ai vào đấy. Thằng Tư Vê đeo kiếm dài chấm đất lúc nào chẳng cặp kè với
lão Hứa, ai dám ho he. Gớm, nó chả hiền sớm cho đấy.
Và
để tôi ghi mối thù vào xương tủy, mỗi ngày bố tôi lại kể cho tôi nghe một chuyện
thời xưa về sự tàn ác của lão Hứa. Mỗi ngày một chuyện, lời kể của ông tuyệt vời
như kể chuyện cổ tích, khiến tâm hồn tôi thấm đẫm những hồi ức kinh hoàng không
bao giờ còn hong khô được nữa.
***
Sau
trọn mười năm, kể từ ngày khóc thầm ra đi, tôi lại trở về cái nơi ghi dấu mãi
tuổi thơ cay đắng của tôi. Bố tôi già đi ghê gớm. Tóc ông bạc như cước, xơ xác
trên chiếc trán bị thời gian đào rãnh lô xô. Em út tôi lớn phổng lên thành một
thiếu nữ xinh đẹp. Mười năm trước, chính nó từng họa theo lời bố tôi để thét
lên: “Anh hèn hạ lắm! Anh cút đi cho bớt tai tiếng”. Lúc đó nó mới mười hai tuổi,
nổi tiếng là đứa bé có bản lĩnh. Nó giống bố tôi như đúc cả về hình thức lẫn
tính cách. Giờ đây em tôi, con bé chỉ thích đeo kiếm đóng vai nữ tướng hồi bé,
vồ lấy tôi khóc nức nở. Nó khóc thổn thức, ai oán đến nỗi tôi phải ngồi thụp xuống
gạt nước mắt. Đến lượt mẹ tôi, bà chỉ dám khóc thầm sau tấm màn che gió. Lâu
lâu bà mới cất tiếng:
–
Đưa anh đi rửa ráy, con!
Đấy
là bà bảo em tôi. Ôi trái tim người mẹ, bao giờ cũng có chỗ cho ta, sau khi mệt
mỏi về trú ngụ. Bố tôi thì khác, ông xúc động theo kiểu người cha. Ông ngồi ở
bàn, vầng trán vằng vặc như chính người đang tính toán tiếp con đường công nghiệp
mà người mơ cho tôi, bị đứt đoạn mười năm. Cặp mắt người vốn nổi tiếng một vùng
vì độ thấu xa, không mảy may biểu lộ người mừng hay coi đó chỉ là chuyện trẻ
con.
Tôi
đến ngồi bên chiếc tràng kỷ nhẵn bóng, đối diện với bố tôi:
–
Mười năm anh đi những đâu?
–
Thưa thầy, con đi gần hết cái đất nước này.
–
Anh thấy nó rộng hay hẹp?
–
…
–
Chưa vượt biên chứ?
Tôi
vẫn im lặng, bắt gặp cái nhìn chia sẻ từ sau cánh cửa của em gái tôi. Tiếng bố
tôi vẫn đều đều:
–
Mười năm anh học được cái gì mang về?
–
Con học được nhiều thứ. Nhưng thứ quý nhất mà cuộc đời cho con là phải biết tự
định đoạt lấy mình.
–
Nghe nam nhi đấy. Giỏi!
Tiếng
“giỏi” mà bố tôi buông ra như dấu chấm hết một đoan văn hay nhưng với ông không
lọt được lỗ tai. Tiếng “giỏi” ấy còn có nghĩa “Được, để xem”. Hết chuyện. Tôi uể
oải đứng dậy theo em gái tôi ra phía bể nước. Nó cầm chiếc khăn mặt chờ sẵn ở cửa,
nắm tay tôi kéo như chạy.
–
Anh chấp bố làm gì! Càng lớn em càng thương bố. Cuộc đời cũ vầy vật bố đến mức
bố không thể quên được nó. Nhưng thôi, thế là thoát.
Đứng
xem tôi hành hạ chiếc khăn mặt, nó tỉ tê:
–
Anh về mà xem làng xóm, thay đổi khủng khiếp. Mấy chục năm xây dựng mà cứ xác
xơ như trong cảnh “Tắt đèn”. Lớp người lớp tuổi bố chết gần hết rồi. Vẫn hẹn
nhau xuống mồ nữa cơ.
–
Những ai mà chết gần hết?
–
Ngoài bố ra còn ba vị nữa đang thập thò miệng lỗ. Cho các vị đi hết đi để đến
lượt anh em mình làm chủ thế giới. Đến khổ với các vị.
–
Vẫn thù nhau à?
–
Thù càng ác liệt. Ngày mai anh sang chơi ông Mịch mà xem. Tuy tím tái hết chân
tay đấy nhưng vẫn luôn mồm hỏi con thằng ấy, thằng nọ có vác mặt đến không thì
lót lá dắt ra ngõ hộ.
Nước
mát làm đầu óc tôi bớt nặng nề. Nhưng càng tỉnh táo tôi càng như bị ném vào
tình thế phải che chắn tứ bề. Sẽ ứng xử ra sao cho ba vuông bảy tròn giữa những
con người cứng đờ vì thiên kiến. Cuộc đời chiến sĩ chỉ dạy tôi điều đơn giản, nếu
kẻ thù ở hướng nào phải quay súng về hướng ấy. Còn nó ở bốn phía thì chính mình
phải nổ tung! Trong trường hợp này, quá lắm tôi cũng chỉ đến mức – như mười năm
trước – gào to lên lời nguyền rủa độc địa cho cái mảnh đất đầy thù hận này chìm
lặng đi.
Tôi
theo em gái ra thăm khu nghĩa địa. Quê tôi vẫn có thói quen chỉ tin vào người
chết! Khu nghĩa địa của làng tôi lúc đầu chỉ có độc chiếc mả ngựa. Một vị tướng
không rõ từ thời nào, đã an táng con chiến mã của mình khi con ngựa đầy chiến
tích ấy đến làng tôi thì gục xuống chết. Khi tôi lớn lên người ta vẫn gọi khu đất
hoang ấy là “gò con ngựa” mặc dù chính thức là nơi yên nghỉ của những người đã
hưởng đủ của trời. Giờ đây bãi nghĩa địa bị chia cắt làm năm, bảy mảnh. Những
người bình thường khi sống, thì khi chết ngôi mộ của họ xem ra cũng hiền lành.
Nhấp nhô hàng trăm mô đất sàn sàn như nhau, cỏ mọc xanh rì. Làng tôi gọi đấy là
khu bình dân. Sau hàng rào quét sơn trắng nổi lên đám mộ được xây cất công phu
thò ra thụt vào, chạy song song nhau. Rồi lại một đám khác, lù lù mấy nấm đất
cao ngang đầu, trên nóc đều có cây thiên tuế uốn éo một cách dị dạng. Tách biệt
với khu bình dân và khu phú quý lại có một khu khác thập thò vài chục mô đất sè
sè, nom hiu quạnh như lũ mộ vô chủ, cả năm may lắm được một lần hương khói vào
dịp Thanh minh.
Em
gái tôi trở thành người hướng dẫn đắc lực:
–
Đám trắng toát kia là của mấy ông phó Cả, phó Hai, phó Ba. Lần này thì chắc
không bị đào nữa.
–
Sao? Ai đào?
–
Người ta đồn các ông phó mang theo vàng xuống âm phủ nên dân đào vàng bán sới họ
đào…
–
Còn đám kia?
–
Đám ấy của cha con ông phó Hội. Thật là lúc chết vẫn muốn lù lù trước thiên hạ.
–
Cuối cùng cũng chỉ là nấm đất với một dúm xương tàn.
Tôi
nói bâng quơ như một ý tưởng đến bất chợt.
–
Đúng – em tôi đồng tình – Giá lúc sống các vị biết cho điều ấy nhỉ.
Ngừng
một lát, em gái tôi tiếp:
–
Trông thì “gia phong” thế thôi- Là em bảo cái đám mộ kia kìa. Chứ lúc hấp hối
các vị mới lộ chân tướng thật, nghĩ mà rùng mình.
–
Có chuyện gì thế?
–
Khi cụ Hộ – bố của các ông phó – hấp hối, cụ mới đưa ra bảng phân vai. Đứa trước
đây là cháu bây giờ thành con. Đứa trước đây là em thì bây giờ lên thành chú… đến
nỗi đám con cháu thảm hại ấy như lạc vào mê cung ngôi bậc. Hóa ra thời mấy chục
năm trước, khi các ông phó đi lính đồn trú cho Pháp thì cụ Hộ ngủ cả với mấy cô
con dâu. Bà nào có mang liền lên bốt ở với chồng vài tháng…
–
Mảnh đất chết tiệt! – Tôi muốn gào thật to vào bầu trời thẳm sâu, tôi muốn gào
xuống tận âm ti địa ngục cho quỷ thần nghe thấy, biết rằng chẳng để làm gì.
–
Thôi anh ạ! Cuối cùng họ chỉ còn lại trước cuộc đời bằng độc một mô đất. Cứ
chia đều cho mỗi vị một nén.
Tôi
làm theo lời em gái tôi, lòng không chút cảm xúc. Những nấm đất! Những nấm đất
vô tri, lạnh lẽo. Các vị sống thế nào thì chết cũng thế ấy – Tôi nguyền thầm.
Chợt tôi phát hiện có một mô đất bẹp gí ở rìa khu bình dân, sát mép nước. Tuồng
như nó cố tình lút xuống để người sống khỏi ngứa mắt. Thấy tôi ngẩn ngơ nghi hoặc,
em gái tôi vội nói:
–
Lão Hứa đấy. Lão chết hồi năm kia sau bảy, tám năm ỉa đái ra quần. Làng không
cho lão vào nghĩa địa nên lão đành tạm ở đấy. Hôm đưa tang lão, thối khắp cả
làng đến nỗi ruồi xanh đuổi theo quan tài đông hơn ong vỡ tổ. Mấy ngày sau thán
khí vẫn còn chưa hết khiến mấy chục con chó hóa dại một lúc rồi theo lão cả. Chỉ
tội cho chị Q..u..ý Anh và cái Quý Hương…
“Quý
Anh!” – Ký ức tôi bật chồm dậy như con ngựa chứng chưa thuần. Phút chốc những kỷ
niệm mặn chát một thời của tôi vụt hiện lên, tươi rói như vết thương đang ứa
máu.
–
Cô ta bây giờ thế nào? – Giọng tôi như vọng về từ một thế giới khác.
-…
Chị ấy vẫn chờ anh. Cả làng bảo chị ấy mắc nghiệp chướng do lão Hứa gây ra.
Nhưng chỉ mình em biết chị ấy vẫn chờ anh…
***
Trong
những câu chuyện bố tôi kể thì ông và cuộc đời xưa kia là hai nhân vật chính, đối
nghịch nhau suốt cuốn tiểu thuyết đầy máu và nước mắt. Ông tổ bốn đời của tôi vốn
nghèo rớt mồng tơi. Chẳng hiểu sao cụ rất giỏi chữ Nho. Chính nhờ cái vốn chữ
Thánh hiền ấy mà cụ tôi, dù suốt đời cùng đinh vẫn được đám hào lý gờm nhất.
Sau vụ cha con lão Lý Bá khuynh gia bại sản chỉ vì một bài thơ của cụ, thì cụ bốn
đời của tôi bị liệt vào hạng nguy hiểm cho đám chức sắc từ chánh tổng trở xuống.
Vậy mà cụ tôi vẫn sống ngoài tám chục tuổi, ung dung thoát tục như một ông
tiên.
Ông
nội tôi không thừa hưởng được số chữ của cụ tôi nên bị đám hào lý coi nhờn. Sẵn
mối thù “bố nợ con trả” ông tôi bị chèn ép suốt một đời. Tuy thế ông nội tôi
cũng nuôi chí lớn lắm. Ông tôi vờ cúi rạp dưới chân đám quan lại, xin được một
chân trương tuần. Kỳ thực ông ngầm thu nạp khoảng hai chục thanh niên trai
tráng định đánh úp nhà Chánh tổng. Việc bại lộ, ông tôi bị trói nghiến giữa
đình hàng tháng trời, kỳ đến tróc hết da vì đòn mới thôi. Bị bãi chức, ông tôi
quay về cày chia cấy rẽ, lòng vẫn ôm ấp một mưu đồ lớn.
Chuyện
ông tôi bị lão Hứa đánh giập phổi là chuyện sau này. Chỉ biết rằng lúc hấp hối,
ông tôi dặn lại truyền cho con cháu “Còn làng Đồng thì còn mối thù với thằng Hứa
và con cháu hắn”.
Bố
tôi kể: “Chú Hai tôi chết vì thiếu đúng một bát cơm nguội. Sau này cứ vào ngày
5 tháng 3 âm lịch bố lại dậy từ nửa đêm, xúc một bát cơm nguội để trước mặt.
Ông ngồi lặng hàng giờ, mặt đanh lại như sắt thép. Chú Hai tôi chết quá tang
thương. Chuyện đó tôi thuộc lầu từ bé. Mãi khi đã lớn thi thoảng tôi vẫn nằm mơ
gặp chú, hoàn toàn do tôi tưởng tượng lại từ lời bố tôi mô tả: “Đầu to, cao
lòng khòng, toàn thân là một cái khung bằng xương”. Nhưng thôi, để yên cho bố
tôi kể.
Dạo
ấy, bố tôi mười sáu tuổi, làm thằng ở chăn trâu cho chánh tổng. Hằng ngày bố
tôi sống chết cũng phải ăn cắp được một giỏ cơm nguội cho bà nội và hai chú
tôi. Hôm ấy, không hiểu sao bố tôi không về. Bà tôi và hai chú tôi chờ mãi cho
đến khi chú Ba tôi chết lả trong giấc ngủ. Chú Hai tôi đói quá tính đường đi ăn
cướp. Chú đi dật dờ ở chợ, mắt vờ không thấy gì. Kỳ thực chú đã liếc thấy ở dãy
hàng quà có người đang đưa lá bánh vừa bóc lên miệng liếm. Chú tôi dật dờ đến gần.
Vụt! Chú tôi chao mất miếng bánh của người đàn bà nọ trong nháy mắt. Thế là loạn
chợ. Tiếng kêu cướp, tiếng đuổi nhau, tiếng đòn gánh nện chát chúa… Chú Hai tôi
phóng vù xuống mép sông, phồng mồm nhai miếng bánh, lưng ròng máu vì mấu đòn
gánh bổ dọc.
Bố
tôi lại ăn cắp được cơm. Bố tôi đi tìm chú Hai. Anh em gặp nhau, chú sợ ăn đòn
bỏ chạy. Bố tôi cầm bọc cơm gào đứt hơi suốt mấy làng ven sông Đáy. Hôm sau bố
tôi tìm được chú Hai tôi ở Tràng Cát, một làng nổi tiếng nhiều cướp. Chú tôi ăn
cắp ngô non bị đám trương tuần chôn sống. Rồi chính họ lại bới chú tôi lên –
cho khỏi thối làng – bó chiếu giúp bố tôi. Bố tôi kể đêm ấy mưa bão, bố tôi vác
chú Hai về đến nhà cũng vừa sáng. Sẵn có cái hố ngập nước, bố tôi thả tõm chú
Hai xuống đó, mắt chú vẫn mở trừng trừng.
Lần
nào nghe bố kể, tôi và đứa em út đều chứa chan nước mắt. Bố tôi bảo: “Chỉ vì một
bát cơm nguội mà chú chúng mày chết. Mà bát cơm nguội ấy thằng Hứa giật đoạn
trên tay tao đổ cho chó”.
Sau
đận ấy bố tôi hận đời, quyết chí bỏ lên rừng cũng đúng vào dịp lão Hứa được bổ
làm lý trưởng. Lão biết bố tôi đi đâu nên thi thoảng lại đến hạch sách ông nội
và mẹ tôi. Sau đêm chánh tổng chết hụt vì lựu đạn của du kích, lão Hứa lấy cớ
điệu ông tôi ra đình, bắt xin lỗi chính quyền tề vì trót đẻ ra bố tôi. Ông tôi
không nghe. Lão Hứa sai tuần đem diêm đốt nhà ông tôi. Ông tôi vác mã tấu đứng
đối diện, thề sống mái một phen. Đến đêm, lão Hứa xua lệ ập đến, trói nghiến
ông tôi kéo ra đình. Sáng hôm sau ông tôi chỉ còn như miếng giẻ đẫm máu. Mẹ tôi
đem ông về. Mỗi ngày ông thổ ra một ít huyết tươi. Biết sắp chết, ông bắt mẹ
tôi phải ghi lại lời nguyền. Mẹ tôi kể, sát ngày ông tôi về trời, ông dặn mẹ
tôi sau này phải đẻ ít nhất ba thằng con trai.
***
Năm
tôi lên mười, gia đình tôi đang ở thời kỳ đại thịnh. Khỏi phải nói khi có quyền
trong tay bố tôi đã đè bẹp, nghiến nát đám quan lại cũ ra sao. Lão Hứa tất
nhiên thuộc đối tượng đầu tiên ông nghĩ đến. Lão bị tịch thu đến cả chiếc lư
hương, khu trại cũ bị san phẳng thành ruộng. Lão sống lủi thủi như một con chó
lạc loài. Thằng cháu họ một thời cặp kè bên lão cũng quay lưng lại lão. Để nịnh
bố tôi, ông Tư Vê đã ỉa vào cửa nhà lão cả đống tướng.
Một
hôm, dạo đó tôi mười hai tuổi, tôi bắt gặp lão Hứa bới trộm khoai lang. Lão địa
chủ cũ nhìn trước nhìn sau rồi chùi củ khoai vào vạt áo, đưa lên miệng nhai ngấu
nghiến. Lão đói. Con cái lão cũng bị bỏ đói. Sau Quý Anh, lão còn bắt vợ rặn
cho lão thêm một đứa nữa đặt tên là Quý Hương. Quý Hương giống chị như hai giọt
nước, đẻ cùng tháng với em út tôi. Thấy bảo hôm đón con bé, lão Hứa định ngầm
bóp chết. Lão cần có đứa con trai để hy vọng đến ngày nào đó gia thế nhà lão lại
phất lên. Chờ đúng lúc lão Hứa đang phồng má trợn mắt, tôi hét lên:
–
Có thằng ăn trộm!
Lão
Hứa suýt ngã vì sợ và xấu hổ. Lão nhè vội miếng khoai, xoa tay vào áo, dùng
chân lấp lại chỗ đất lão vừa bới rồi quay lưng định lủi mất. Hình ảnh chú tôi
chết đói, hình ảnh ông tôi chết vì đòn như kêu gào tôi trả thù. Tôi muốn nhân
cơ hội này đâm cho lão Hứa một nhát. Có lẽ bộ mặt tôi lúc ấy gớm ghiếc lắm nên
lão Hứa co rúm lại.
–
Lão Hứa!
Lão
địa chủ xưa kia đổ khuỵu xuống.
–
Lão có biết lão mắc tội gì không?
–
Cậu Tư ơi, tôi đói quá!
–
Lão đói nhưng lão chưa chết. Còn chú ta, ông ta đều chết về tay lão thì lão
tính sao?
Lão
Hứa mếu xệch miệng. Tôi tiếp:
–
Chỉ vì một bát cơm nguội mà chú ta thành ma đói, lão có nhớ không?
–
Tôi nhớ.
–
Tại sao lão ác thế?
–
Tôi van cậu Tư. Thì ông nhà đã đòi đủ ở tôi rồi mà!
–
Chưa được bao nhiêu. Hôm nay lão phải trả nốt.
Tôi
tiến lên, gí thanh nứa vạt đầu vào cổ lão Hứa. Lão địa chủ xưa kia vội đưa tay
túm ngang chiếc que.
–
Kìa cậu Tư, tôi cắn rơm cắn cỏ lạy cậu. Cậu thử hỏi ông nhà xem, có phải có lúc
tôi đã tử tế với ông nhà không?
–
Còn ông ta và chú ta, lão tử tế thế đấy à?
–
Cậu Tư ơi! – Lão Hứa cuống quýt đẩy thanh nứa đang bị tôi ấn mạnh thêm – Cậu cứ
lớn lên đi cậu sẽ hiểu tôi chả là cái gì trước số phận, trước thời thế. Tôi có
trực tiếp đánh ông cậu đâu. Tôi có trực tiếp chôn sống chú cậu đâu. Cuộc đời cũ
nó ắt phải thế.
Tôi
không đủ sức để hiểu những lời lão Hứa nói. Đại loại lão muốn bảo tôi rằng việc
làm của lão xưa kia với việc bố tôi tịch thu tài sản của lão, cả hai việc ấy đều
do cuộc đời muốn thế. Tôi còn đang do dự không biết có nên lấy của lão một tí
máu cho mát lòng ông và chú tôi, thì từ đâu Quý Anh hớt hải chạy ra. Thấy cảnh
đó mặt nó cắt không còn giọt máu. Trông thấy con, lão Hứa vội kêu lên:
–
Quỳ xuống đi con! Quỳ xuống xin cậu Tư và ông bên nhà đi con.
Quý
Anh từ từ quỳ xuống, hai tay chắp trước ngực. Trông nó đối nghịch gay gắt với
lão bố phàm tục của nó. Sau này mỗi lần bắt gặp một tiên đồng trong các cuốn tiểu
thuyết, tôi thường nhớ đến Quý Anh ở giây phút ấy. Khuôn mặt nó trong veo, cặp
mắt trong veo với hai lọn tóc lắc lư bên má. Xin đừng nghĩ đơn giản về trái tim
cậu bé tuổi mười hai như tôi. Lòng tôi sóng sánh như bát nước đầy… Tôi để tuột
thanh kiếm tráng sĩ vì một lời khẩn nguyện dâng lên từ mặt đất: “Cậu và tôi… và
những mùa vàng rực nắng, chúng ta cùng là con đẻ của một cuộc đời không thù hận”.
Hẳn
lúc ấy, tôi chỉ cảm thấy có cái gì đó khác thường đã xảy ra trong trái tim bé
con của tôi. Nhưng khi tôi đã bắt đầu hiểu cuộc đời, tôi cứ nhớ có một lời khấn
thầm như thế ngấm vào tôi. Có thể nó đến bằng giấc mơ thanh sạch ở tuổi chớm lớn.
Nhưng bao giờ lời khấn thầm ấy cũng đi cùng hình ảnh Quý Anh quỳ trước tôi từ
buổi đấy. “Cậu và tôi…” lẽ nào điều ấy đã xảy ra khi vào một đêm nào đó tôi úp
mặt lên gối khóc nức nở, quằn quại trong nỗi ân hận đành chịu mang tội với ông
và chú Hai tôi.
(Còn
nữa)
*****
Tạ Duy Anh
06/08/2025
https://baotiengdan.com/2025/08/06/buoc-qua-loi-nguyen-phan-2/
Tuổi
thơ của tôi được nâng lên từ những cánh diều. Chiều chiều trên bãi thả, không cứ
gì chúng tôi, người lớn cũng hò hét nhau thả diều thi. Diều của người lớn làm bằng
cả cây tre, to mấy người khiêng. Lúc thả lên trời, cánh diều khổng lồ ấy chao lắc
như đảo đồng. Ở dưới đất, đám người lớn có vẻ bị lùn đi một chút, đang ăn thua
nhau từng nấc một. Họ mượn cánh diều để ám chỉ sự phát lộc của gia đình nhau.
Tôi
còn nhớ đã từng xảy ra ẩu đả đẫm máu vì những cuộc thi diều. Con lợn năm chục
cân làm giải thi, cứ từ chuồng nhà này chuyển sang nhà kia sau những thông báo
sốt dẻo từ bãi thả.
Cánh
diều của trẻ con chúng tôi mềm mại như cánh bướm, thanh sạch vì không hề vụ lợi.
Trong khi người lớn chạy bật móng chân để rong diều thì đám mục đồng chúng tôi
sướng đến phát dại khi nhìn lên trời. Sáo lông ngỗng vi vu trầm bổng. Sáo đơn rồi
sáo kép, sáo bè… như gọi thấp xuống những vì sao sớm. Ban đêm trên bãi thả diều
thật không còn gì huyền ảo hơn. Có cảm giác diều đang trôi trên dải Ngân Hà!
Người
lớn sợ bóng đêm như sợ mất con lợn cứ thu diều về dần, bỏ mặc chúng tôi với bầu
trời tự do, đẹp như một thảm nhung khổng lồ. Có cái gì cứ cháy lên, cháy mãi
trong tâm hồn chúng tôi. Sau này tôi hiểu đấy là khát vọng. Tựa như khi tôi đọc
truyện cổ tích và ước thành một chàng hoàng tử lao vào chém mãng xà bảy đầu cứu
nàng công chúa. Chỉ có trăng, sao và những cánh diều hộ mệnh. Tôi đã ngửa cổ suốt
thời mới lớn để chờ đợi một nàng tiên áo xanh bay xuống từ trời. Bởi vì bao giờ
tôi cũng hy vọng khi tha thiết cầu xin: “Bay đi diều ơi, bay đi…”. Cánh diều tuổi
ngọc ngà dứt dây bay đi, mang theo nỗi khao khát héo mòn của tôi.
Cho
đến một hôm cánh diều trở lại thật. Nó xác xơ, ủ rũ và bị xách ngược lên, tàn
nhẫn như người ta xách một con cá.
–
Cháu nhặt được ở Đồng Cát.
-…
–
Cháu biết ngay là diều của cậu đứt dây, cậu xé vở dán diều à?
-…
–
Bố cháu bảo cháu mang trả cậu. Cậu đã ôn bài cô giáo cho chưa?
Con
em út tôi nghe thấy giọng nói ngập ngừng của Quý Anh, lao vụt ra nhanh như con
chèo bẻo:
–
Ai cho mày đến nhà tao. Cút ngay đồ bóc lột!
Quý
Anh co người lại câm lặng trở lui. Vốn sống bằng mặc cảm bị khinh ghét từ bé,
nó và những đứa con của lão Hứa đều xưng “cháu” với bất cứ ai trong làng. Nó sẵn
sàng im lặng để một đứa bé lên ba cào vào mặt.
Dạo
ấy chân ruộng gieo mạ chưa bị tận dụng tăng vụ như bây giờ. Sau khi đưa hết mạ
xuống đồng cấy, chân ruộng ấy bị bỏ rờm cho đến lứa mạ sau. Thật là một thời kỳ
hiếm có mà trời ban cho bọn trẻ chúng tôi. Không bị ngăn cản, đám cây cút kít,
cỏ rày, cỏ mật… mọc nhanh như có phép, tạo một thảm xanh tuyệt đẹp chạy hút đến
tận bờ đê là nơi mặt trời thường nhô lên mỗi buổi sáng.
Chúng
tôi bỏ mặc lũ trâu chạy ăn tự do trên cánh đồng. Từng đàn chèo bẻo sà xuống bắt
ruồi, thỉnh thoảng lại xoẹt cánh ngang mặt chúng tôi. Có hôm bọn tôi chạy re
kèn vì một đôi vợ chồng chèo bẻo mất con. Giống chim này say đòn, sẵn sàng bổ
toác đầu đối phương, bất kể đó là người.
Quý
Anh cũng có mặt trong đám trẻ chăn trâu. Lẽo đẽo theo nó là Quý Hương. Hai chị
em Quý Anh cùng với chiếc rổ sề, bao giờ cũng cặm cụi một chỗ kiếm rau lợn.
Con
trâu nhà Quý Anh vốn nổi tiếng hung dữ. Ngoài hai chị em Quý Anh, bất kể ai có
ý định đến gần nó đều rất có thể bị lòi ruột. Ấy vậy mà trước hai cô chủ, nó hiền
lành đến đáng ngờ.
Dạo
ấy “Cu Nhỡ” là con trâu giống mới lớn duy nhất trong làng. Nó cậy uy thế có bộ
cà, độc chiếm đàn trâu cái vừa béo mượt trở lại sau vụ cày. Nó luôn canh cánh cảnh
giác con Sừng Măng nhà Quý Anh là đối thủ cuối cùng khiến nó còn kiềng mặt. Sở
dĩ gọi là con Sừng Măng vì cặp sừng của nó ngắn củn, to và nhọn như hai chiếc
măng. Khi lao vào đối thủ, đôi sừng ấy lợi hại vô cùng. Nó có thể móc mắt, đâm
thủng hầu đối phương mà không bị đánh trả.
Hôm
ấy đám trẻ trâu chúng tôi mải mê quần nhau với đôi vợ chồng chèo bẻo mất con. Từ
ngọn cây gạo, vợ chồng chèo bẻo thi nhau chửi chúng tôi. Ý chừng nó bảo: “Lũ
sát nhân kia! Chúng mày giấu con bà ở đâu. Chẹ.p he.p che.p he.pm... bà thì móc
mắt chúng mày ra”. Khi con chèo bẻo vợ chõ mỏ chửi một cách chua ngoa thì bất
thần thằng chồng cục súc thu người lại, lao như tên bắn vào đám trẻ chúng tôi.
Lúc đến gần, mắt nó loé lên như hai cục than, bộ móng chụm lại, chỉ nhãng ý một
tí là thủng đầu với nó. Tuy đã chuẩn bị trước nhưng bao giờ chúng tôi cũng bị bất
ngờ, đành vụt vu vơ vào chỏm đuôi con chèo bẻo rồi lăn ra cười như nắc nẻ.
–
“Che.p he.p chồng bà thương chúng mày đầu xanh tuổi dại đấy”.
–
“Lần này thì mày chết. Chỉ một nhát là tụi ông nướng chả”.
–
“Choẹt!”
–
“Ái chà!”
Cứ
thế chúng tôi quên bẵng mất đàn trâu và không hề biết Cu Nhỡ và Sừng Măng đã hẹn
nhau đấu phân vai. Anh hùng vô song! Phải có một con làm đàn em con kia. Như một
cuộc đấu vì danh dự, hai con vật đều tỏ ra đàng hoàng. Nhận được lời thách Cu
Nhỡ tách đám trâu cái luôn sán bên nó, tiến về điểm hẹn. Con Sừng Măng cũng lợi
dụng hai cô chủ mải kiếm rau, đã rất sẵn sàng đón đợi. Cu Nhỡ ghếch cổ lên
chào. Sừng Măng gật đầu đáp lễ. Cu Nhỡ hỏi: “Ông nghĩ kỹ chưa?”. Sừng Măng đáp:
“Thằng oắt con lêu lổng, để xem mày được mấy hơi”.
Hai
con vật phóng vào nhau bằng tất cả niềm căm thù bấy lâu bị dồn ép. Con Sừng
Măng không vội đánh. Nó chỉ né tránh những nhát đòn trời giáng của Cu Nhỡ. Hăng
máu vì liên tiếp trượt đòn, Cu Nhỡ càng lồng lên, mắt đỏ như lửa. Mặt đất ầm ầm
rung động đến mức vợ chồng chèo bẻo quên cả đánh chúng tôi, dỏng tai lên nghe
ngóng.
Cu
Nhỡ vẫn lao vào như hóa dại nhưng không sao dứt điểm được với lão Sừng Măng.
Con Sừng Măng vốn lõi đời trong nghề giang hồ, vẫn trơ ra như đá, “Thằng tráng
niên ngu ngốc, liệu mà ông cho mày hết thói huênh hoang”. Phầm! “Lão già quỷ
quyệt, thời của lão còn đâu nữa”. Phầm! “Đánh với chác! Mày chỉ được cái tài lừa
bọn đàn bà con gái”. Phầm! Phầm! Phầm!… Đất dưới chân Cu Nhỡ tung lên. Một mũi
sừng của nó đã gại được vào yết hầu của con Sừng Măng, đủ làm đỏ một đám ruộng.
–
Chết cha con Sừng Măng đi! Chết cha quân bóc lột đi!
–
Gọi chị em Quý Anh ra đây mà xem Cu Nhỡ lột da con Sừng Măng.
Nhận
được lời cổ vũ, Cu Nhỡ càng lao vào như điên. Tuy trúng đòn, con Sừng Măng vẫn
không hề nao núng. Nó xoay người một cách mau lẹ, lựa đối thủ vào miếng. Cu Nhỡ
hở đòn do một giây chủ quan khiến mảng yết hầu phơi ra trước cặp mắt lão Sừng
Măng cáo già! Phụp! Chiếc sừng sắc như dao cắm quá nửa vào cổ Cu Nhỡ. Nhưng giết
Cu Nhỡ có lẽ không phải mục đích trận đấu của Sừng Măng. Nó sẽ buồn chán khi
không còn kẻ nào đáng mặt thán phục nó. Nhưng nó phải dạy cho gã tráng niên ngu
ngốc kia hết thói hợm đời. Rút khỏi cổ Cu Nhỡ, Sừng Măng luồn ngay chiếc sừng đỏ
máu ấy vào giữa đoạn sừng đối thủ rồi khẽ lắc nhẹ một cái. Khi Cu Nhỡ thoát ra
được trông nó thật thảm hại. Một bên sừng Cu Nhỡ bị gãy, lủng lẳng rủ xuống khiến
đến lúc già nó còn khổ sở vì bị đám trâu cái coi thường. Con Sừng Măng phóng
theo một đoạn, cốt cho đúng luật rồi tế một mạch đến cúi đầu chịu tội trước hai
cô chủ.
Bọn
trẻ chúng tôi sững sờ một lúc rồi ùa xuống cầm đất ném chí tử vào con Sừng
Măng. Lúc đầu con vật gườm gườm nhìn lại. Nhưng bọn trẻ chúng tôi dùng cả lửa
quăng lên lưng con vật khiến nó tung vó chạy thục mạng. Bọn trẻ đang cơn khát
trả thù bèn quay sang túm lấy hai chị em Quý Anh. Con Quý Hương so vai rụt cổ,
mặt cắt không ra máu. Nó được ưu tiên còn bé, tha cho về trước nhưng cấm không
được hé với người lớn nửa lời.
Quý
Anh bị túm tóc lôi ra trước bãi đấu. Nó ngầm đưa mắt cho tôi, đầy lên lời van
xin được cứu mạng. Tôi muốn gàn đám bạn chăn trâu nhưng rất sợ bị chúng gán cho
tội có tình ý với con địa chủ. Trời sập tối rất nhanh. Bình thường như mọi khi,
chờ trăng lên là chúng tôi dong trâu về. Nhưng mải “tra tấn” Quý Anh, chúng tôi
bỏ mặc vầng trăng chơ vơ một mình.
Quý
Anh bị trói vào một cây phi lao cụt ngọn, miệng mím chặt nhìn vào cánh đồng
mênh mông. Đám trẻ ồn ào phân công nhau kiếm phương tiện tra tấn. Một đứa thò
ngay chân xuống nước để nhử lũ đỉa đói bám vào rồi bắt lấy. Cái giống thân mềm
này chỉ cần nom thấy đã ghê tởm. Vậy mà lát nữa nó sẽ bò loe ngoe trong ngực
Quý Anh. Một tụi khác chạy tản đi rình tóm những con loăng quăng lúc nào cũng
nhan nhản trên đường. Những con loăng quăng không làm chết được ai, nhưng chỉ cần
chạm vào nó đã đủ chết khiếp. Chúng tôi thấy trước tiếng rú thảm thiết của con
bé bị trói kia. Với riêng tôi có lẽ do trái tim mách bảo, tôi còn nghe thấy cả
tiếng thì thầm: “Lên trên trời tôi sẽ bóp cổ cậu”.
Tôi
chùng chình nán lại trước khi đám trẻ chăn trâu chạy tản đi thực hiện nhiệm vụ
của từng đứa. Khi tôi quay nhìn Quý Anh, tôi thấy mắt nó sáng như hai viên bi
thủy tinh. Tôi chạy vụt đến bên cây phi lao cụt, quỳ hẳn xuống dùng cả răng lẫn
tay dứt tung lớp dây quấn từ ngực đến chân Quý Anh.
–
Chạy đi!
–
Cậu Tư chạy với cháu.
Chúng
tôi nhằm bờ đê, chạy lọp bọp qua ruộng nước. Giả sử lũ bạn tôi có nhìn thấy,
chúng cũng tưởng đồng bọn đang đuổi con rắn nước nào đó. Và lát nữa trở lại nếu
không thấy Quý Anh đâu, thì chính chúng lại đem lũ con vật ra tra tấn. Những
con đỉa sẽ bị kẹp vào giữa ống cỏ, suốt cho đứt đôi. Kỳ đến chán trò đứa nào đứa
ấy mới lo cuống lên tìm trâu của mình.
Chúng
tôi chui vào một chiếc hầm tránh bom nổi trên bờ đê. Quý Anh chưa hết run ngồi
nép vào vai tôi.
–
Cậu Tư bao nhiêu tuổi?
–
Mười lăm… còn mày?
–
Cháu mười bốn.
–
Sao mày nhớn thế?
–
Cháu là con gái mà. Cậu Tư xem này…
Quý
Anh cầm tay tôi thản nhiên đặt vào ngực nó. Xin thề là bàn tay tôi lúc ấy trong
trắng như thiên thần nên tôi rất thích chí trước một bí mật. Tôi lật úp lật ngửa
bàn tay, cốt để xoa lên hai trái vú mềm như nhung, hơi răn rắn ở đầu, không gợi
lên một vụ lợi nào; tựa như tôi vẫn xoa đầu con mèo, hay vạch quần tóm chim thằng
bé con nào đó…
–
Cháu mặc quần “con” rồi đấy.
–
Để làm gì?
–
Cậu chả biết được. Mới lại phải tội chết… Sau này lớn lên nhất định cháu với cậu
đẻ chung một đứa con. Chỉ cần cậu sờ ngực cháu như lúc nãy là cháu đẻ.
Đêm
hôm ấy, sau một hồi hút chết vì mất trâu, tôi nằm mơ được ngủ với cô tiên. Chợt
khi cô kéo đầu tôi vào ngực cô, có cái gì rút dọc sống lưng tôi. Cô tiên cười
đưa cho tôi bông hoa thần lấy từ trong ngực cô. Tôi lên cơn sốt mê man, mặt mày
xây xẩm như bị ai bắt vía. Sáng ngày ra tôi thấy mẹ lo lắng nhìn tôi:
–
Có làm sao không hả mẹ?
–
Chuyện bình thường con trai mẹ ạ. Từ giờ con là một chàng trai và phải có trách
nhiệm với việc làm của mình.
Tôi
từ giã tuổi thơ bằng một giấc mơ.
***
Bố
tôi kể:
Làng
Đồng xưa kia vốn chỉ là bãi đất bằng dùng làm nơi để cày bừa nhà chánh tổng.
Trong năm gia đình đầu tiên đặt tên “Đồng” cho làng tôi có ông tổ bốn đời của
tôi. “Đồng” có nghĩa là cùng một lòng, cùng một chí hướng và cùng lấy một họ. Về
sau dân tứ chiếng kéo đến. Đôi vợ chồng phu phen phiêu bạt trên đường kiếm ăn;
một ông cướp chán nghề, quàng vào một ả nào đó tự dưng thích sống yên ổn. Rồi
có khi là ông mõ làng khác bị đuổi, đến xin giữ nguyên nghề… Làng rộng dần ra
cho đến bây giờ.
Thấy
cái miếng đất “gan chó” trở nên màu mỡ riêu cua, chánh tổng xin quan huyện cho
đặt lý trưởng. Lão Hứa nhảy tót lên ngồi mâm nhất. Cũng bắt đầu từ đó chữ “Đồng”
mất hẳn ý nghĩa bởi làng bị cắt thành năm, bảy miếng, do năm, bảy ông anh bà chị
“hùng cứ một phương”. Tuy nhiên tất cả đều bị đặt dưới sự kìm tỏa của lão Hứa.
Không
biết từ bao giờ làng có lời nguyền: con trai con gái trong làng không được lấy
nhau? Sau khi lão Hứa bị tước triện bạ và chính quyền của lão sụp đổ, lời nguyền
kia không những không mất đi mà còn có thêm những lý do bổ sung để tồn tại một
cách rất tai quái. Chính quyền của lão Hứa đã rất thành công khi tạo ra những mối
hằn thù sâu sắc giữa những cuộc đời đều phải đánh vật để kiếm sống. Người ta bắt
đầu lục lại gia phả để định giá trị từng nhóm họ. Bố tôi là chủ tịch xã nên
nhóm họ của ông thuộc loại danh giá nhất. Theo đó đến cánh nhà ông phó Hộ, rồi
đến cánh các ông phó Nhất, Nhị, Tam… Bất cứ mối quan hệ nào cũng bị đem ra xét
xử thật sự. Đã từng xảy ra một thảm kịch yêu đương ở làng Đồng. Một cô gái thuộc
nhóm họ có ông tổ làm nghề cướp, đem lòng yêu chàng trai bạ cư ở đầu làng. Họ
đã cố hết mức để chỉ hai người biết với nhau. Nhưng làm sao mà giấu kín được bất
cứ chuyện gì ở làng tôi? Bên nhà gái như động mả, họp nhau lại vật ngửa cô gái
ra, cạo trọc đầu bôi vôi, dọa sẽ trầm hà nếu không đích thân tố cáo anh chàng
kia can tội rủ rê. Chàng trai bị điệu ra trước hội nghị nhân dân (hội nghị nhân
dân hẳn hoi) để lĩnh hàng trăm lời nguyền rủa. Anh bị đặt trước hai điều kiện:
hoặc phải quỳ xuống xin lỗi cả làng, hoặc cút về cái nơi ông bố bà mẹ tội lỗi
đã sinh ra anh. Tuy bố tôi lúc ấy đang nổi tiếng vì có tầm nhìn xa, khi được hỏi
ý kiến cũng tặc lưỡi: “Lệ làng thế nào cứ vậy mà làm”. Trong thâm tâm ông biết
điều đó là sai. Nhưng sự nghiệt ngã trước cái nghĩa vụ phải bảo vệ danh giá cho
nhóm họ mình, đã đẩy ông đến chỗ hành động theo cảm tính. Có lẽ mọi chuyện sẽ
qua nếu hàng tháng sau tình yêu của đôi trai gái nọ không bị đem ra phỉ báng
như một tội lỗi. Một đêm đôi trai gái ấy hẹn nhau ở ngôi nhà thờ Tổ của làng.
Sau khi nguyền rủa cả trái đất, họ đã hiến thân cho nhau và chết trần truồng
trên bệ thánh.
Sự
kiện đó tác động trước hết đến các bà mẹ. Bắt đầu từ tuổi đi học, mỗi chúng tôi
đều được kể cho nghe rành rẽ về từng nhà một trong làng. Tựa như đứa nào dại dột
quan hệ với con nhà này nhà nọ sẽ bị tuyệt nòi tuyệt giống vì phải trả nợ thay
“ông tổ năm đời nhà nó đức mỏng như bàn tay”. “Thằng bố nó ngày xưa chuyên đi lừa
lọc”. “Cái năm Cải cách, con mẹ nó chả vơ từ cái sanh thủng”… Với riêng tôi và
anh chị em tôi, đứa nào cũng thấm đẫm vào trí nhớ một câu bất hủ: “Lão Hứa và
con cháu lão là kẻ thù truyền kiếp”.
Ai
ngờ tôi là đứa phản bội bố tôi trước tiên. Mặc dù tôi được dạy dỗ khá cẩn thận
về địa vị gia đình mình, nhưng hễ gặp Quý Anh là tôi quên tất. Quý Anh vào tuổi
mười bảy, đẹp như tiên sa. Tôi sẵn sàng cãi nhau với bố để bênh vực Quý Anh.
Một
hôm bố tôi đi họp về, quăng chiếc cặp lên bàn là quát gọi mẹ tôi.
–
Bà có biết chuyện gì đã xảy ra trong cái nhà này không?
Mẹ
lo lắng nhìn tôi:
–
Tư! – Bố tôi quay sang tôi – Mày quan hệ với con Quý Anh từ bao giờ?
–
Từ ngày chúng con để chỏm.
Bố
tôi ngã uỵch xuống ghế, thở dốc. Ông căm ghét nhìn về phía tôi nhưng không ngớt
nguyền rủa mẹ tôi. Chờ còn hai mẹ con, mẹ tôi mới mếu máo hỏi tôi:
–
Con nói thật đi, có đúng con giăng dện với con Quý Anh không?
–
Con yêu cô ấy.
–
Trời đất ơi! – Bà tru tréo – Mày có biết nó mang dòng máu của ai trong người
không? Của kẻ đã giết ông và chú mày.
Thấy
tôi im lặng, mẹ dịu giọng:
–
Có đời thuở nhà ai lại thế bao giờ. Rồi cả làng người ta ỉa vào cửa nhà mày.
Con không thấy anh em phó Hộ nó đặt vè đấy à.
–
Mẹ chấp làm gì bọn loạn luân ấy…
–
Mày phải thôi ngay hoặc tao thắt cổ tao chết.
–
Thì thôi! – Tôi gắt lên – Con trai mẹ chả cao giá lắm đấy.
–
Dù sao con cũng phải nghĩ đến bố con. Khối kẻ chỉ chờ nhà ta hở ra là chọc vào,
con có lớn mà không có khôn.
Chưa
bao giờ tôi căm ghét đồng loại đến thế. Nửa đêm tôi lẻn dậy trốn khỏi nhà cùng
với cây vồ sàn bằng gỗ lim. Đây rồi, sự ngu ngốc, thói dởm đời, lòng thù hận, đều
vì những cây nấm độc này. Tôi đập nát tất cả bảy chiếc miếu thờ để suốt đêm ấy
ngồi khóc âm thầm như kẻ bị ruồng bỏ.
***
Bây
giờ các vị đã nằm cả ở đây, nơi trước kia chỉ là cái gò con ngựa. Bỗng dưng tôi
cảm thấy cô đơn. Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi có cảm giác người ta chưa kịp
để lại gì cho trần thế, đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt. Không biết ở
dưới mồ có còn vị nào chưa yên giấc? Tôi tha thứ cho các người. Bởi vì ngày ấy
cũng đã mười năm. Mười năm đủ cho tôi thấm nỗi đau của cả mấy thế hệ mà số phận
bị nhào nặn bằng một bàn tay phàm tục.
Giờ
đây ở giữa sự hoang lạnh của khu nghĩa địa, tôi lại nhớ đến cái đêm khủng khiếp
ấy. Tất cả các vị đang nằm ở đây đều có mặt để xét xử chúng tôi. Đêm ấy không
có trăng nhưng đầy sao và hương thơm mùa màng tỏa ra từ đất. Lần đầu tiên trong
đời, trái tim tôi nóng như hòn than cháy ngún trong ngực, khi tôi biết cảm nhận
sự kỳ diệu của da thịt… Tôi và Quý Anh, hai kẻ trong trắng như nhau, tội lỗi
như nhau đã bước qua lời nguyền, đã ân xá cho nhau trong sự chứng kiến của các
thiên thần. Và đêm ấy các vị đã bọc chặt chúng tôi bằng dáo, mác, bằng nỗi căm
ghét phi lý. Dưới ánh đuốc các vị có thể thấy rõ dù chết chúng tôi cũng không rời
nhau. Vậy mà các vị cứ quấn chặt chúng tôi bằng vòng lửa của địa ngục khiến tôi
hét lên:
–
Đâm đi! Các người cứ lấy máu chúng tôi sẽ thấy nó mặn như nhau, đỏ như nhau… vì
chúng tôi được hoài thai từ một bà mẹ nhân hậu hơn bà mẹ đã sinh ra các người.
Cả
làng – hẳn các vị còn nhớ – đã không ai dám tiến thêm nửa bước. Tôi gào tiếp:
–
Các người chỉ quen để ý nhau từng lời, từng chữ, rình xem mâm cơm nhà khác có
thịt cá không để quy kết, bôi nhọ. Nhưng làng xóm tiêu điều thì các người bỏ vẳng.
Các người thành kính dựng người chết dậy để thờ trong khi đó nhẫn tâm đẩy kẻ
đang sống đang yêu xuống mồ, chúng tôi căm ghét và thương hại các người.
Tôi
biết tóc bố tôi bạc đi khủng khiếp một phần cũng vì những đau khổ tôi trút lên
cuộc đời Người.
***
Mọi
việc tôi làm trong kỳ nghỉ phép đều không lọt mắt bố tôi. Ông đáp trả bằng sự
im lặng. Đợi đến khi tôi xếp đồ vào ba lô, ông mới bất ngờ hỏi:
–
Tại sao con Quý Anh nó không đến?
–
Cô ấy sợ.
Bố
tôi gục xuống và khi ông ngẩng lên tôi tưởng như không tin vào mắt mình: mặt
ông bị vò nát bởi hàng trăm nếp gấp khắc nghiệt. Trên khuôn mặt ấy tôi thấy lại
cái quá khứ vật vã đẫm máu và nước mắt mà bố tôi vừa căm ghét vừa hãnh diện.
Trên khuôn mặt ấy như vừa thoáng hiện hình ảnh ông tôi, chú tôi, bị xé nát
trong tiếng kêu cứu tuyệt vọng. Giá còn nước mắt hẳn ông đã khóc. Tiếng ông khô
khốc:
–
Chờ nhau ngần ấy năm… thời buổi này không dễ có mấy người. Anh chị đã quyết,
tôi cũng không dám cản. Nhưng tôi chỉ xin ở anh một yêu cầu.
–
Vâng, bố cứ nói.
–
Anh hãy đợi khi nào tôi chết hẵng đưa nó về ở cái nhà này. Tôi biết nói ra điều
ấy không xứng đáng với một ông bố. Nhưng tôi không thể… anh hiểu ý nguyện của
tôi chứ?
Bố
tôi lại gục xuống như vừa bị cả một khối nặng khủng khiếp đè lên vai. Hình như
ông đã khóc được…
No comments:
Post a Comment