Triều Tiên và Việt Nam : Số phận pháp lý khác nhau của hai
quốc gia bị chia cắt
Nguyễn Quốc Tấn Trung - Luật Khoa tạp chí
October
23 202411:15 AM
https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1000/format/webp/2024/10/472394723.jpg
Ảnh
gốc: Canva, pasca. Đồ họa: V.K / Luật Khoa.
Bắc
Hàn - Nam Hàn. Bắc Việt - Nam Việt. Cùng là những quốc gia bị chia cắt trong thời
kỳ Chiến tranh Lạnh nhưng lại có hai số phận pháp lý rất khác nhau.
Quan
hệ pháp lý giữa Nam Hàn (Đại Hàn Dân Quốc) và Bắc Hàn (Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Triều Tiên), cũng như giữa Nam Việt (Việt Nam Cộng hòa) và Bắc Việt (Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa), đã phát triển qua các bối cảnh lịch sử và chính trị khác
biệt. Bài viết này sẽ tập trung phân tích sự khác biệt chính về tư cách pháp lý
của hai cặp thực thể chính trị này thông qua ba luận điểm chính.
1.
Tư cách pháp lý của chính phủ Nam Hàn và Nam Việt: Tầm quan trọng của công nhận
quốc tế
Một
trong những sự khác biệt nổi bật giữa Nam Hàn và Nam Việt nằm ở việc có được
các quốc gia trên thế giới công nhận hay không và nếu có thì công nhận như thế
nào.
RADIO
:
Triều
Tiên và Việt Nam: Số phận pháp lý khác nhau của hai quốc gia bị chia cắt
Tại
Triều Tiên, sau khi Nhật Bản đầu hàng trong Thế chiến II, bán đảo này bị chia cắt
thành hai khu vực chiếm đóng do Liên Xô và Hoa Kỳ kiểm soát. Tuy nhiên, khác với
các xung đột khác trong Chiến tranh Lạnh, dự án thống nhất bán đảo Triều Tiên
có sự tham gia chủ động của Liên Hiệp Quốc. Điều này được thể hiện rõ nhất
thông qua Nghị quyết 112 (1947), với việc hình thành Ủy ban tạm thời của Liên
Hiệp Quốc về vấn đề Triều Tiên (United Nations Temporary Commission on Korea -
UNTCK). [1]
Một
cuộc bầu cử dưới sự giám sát của UNTCK cũng được ấn định và diễn ra vào năm
1948. Điều thú vị đáng lưu ý là trong UNTCK lại có cả Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Xô Viết Ukraina, lúc này còn là một nền cộng hòa thành viên của Liên Xô. Dĩ
nhiên Liên Xô vẫn phản đối ủy ban. Các quốc gia còn lại của ủy ban bao gồm Australia, Canada,
Trung Hoa Dân Quốc (tức Đài Loan ngày nay), El Salvador, Pháp, Ấn Độ
(vừa độc lập khỏi Anh), Philippines, và Syria.
Tuy
nhiên, việc Liên Xô không hợp tác với UNTCK dẫn đến một hệ lụy khác. Do các
phái đoàn của Liên Hiệp Quốc không được phép vào các khu vực mà Liên Xô đang kiểm
soát, các cuộc bầu cử địa phương ở miền Bắc không thể diễn ra như dự kiến. Cuộc
tổng tuyển cử dù vậy vẫn được UNTCK xem là hợp lệ vì có trên ⅔ dân
cư trên toàn bán
đảo Triều Tiên tham gia bầu cử. Chính phủ của Nam Hàn sau
đó được Liên Hợp Quốc công nhận là chính phủ hợp pháp của toàn bộ bán đảo Triều
Tiên với Nghị quyết 195 vào năm 1948. [2]
Trong
lúc đó, một nhà hoạt động tị nạn chính trị bên ngoài bán đảo Triều Tiên trong
giai đoạn Nhật chiếm đóng - Kim Il-sung - cùng quân đội Liên Xô trở về miền Bắc,
xây dựng lại lực lượng nhờ vào sự hỗ trợ của Liên Xô lẫn Trung Quốc và từ đó tự
tuyên bố thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. [3]
Những
diễn biến trên có nghĩa là tư cách pháp lý của Nam Hàn được củng cố thông qua một
cuộc bầu cử có sự giám sát quốc tế và được Liên Hiệp Quốc chính thức công nhận.
Chính điều này đã đặt Nam Hàn vào một vị thế mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế so
với Bắc Hàn, ít nhất là trong những thập niên đầu tiên của cuộc xung đột.
Điều
này cũng khiến Nam Hàn có vị trí pháp lý vượt trội so với chính quyền Sài Gòn:
Việt Nam Cộng hòa không có được sự công nhận quốc tế rộng rãi như Nam Hàn. Sau
khi Hiệp định Geneva 1954 được ký kết nhằm kết thúc cuộc chiến chống thực dân
Pháp, Việt Nam bị chia cắt thành hai miền Bắc và Nam theo vĩ tuyến 17. Hiệp định
này quy định rằng sau hai năm, một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức để thống
nhất đất nước. Tuy nhiên, cuộc tổng tuyển cử này đã không bao giờ diễn ra với
các cáo buộc vi phạm đến từ cả hai phía, dẫn đến việc hình thành hai thực thể
chính trị riêng biệt: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa
ở miền Nam. [4]
2.
Cuộc chiến tranh do Bắc Hàn phát động: Vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc
Một
yếu tố khác phân biệt mối quan hệ giữa Nam Hàn – Bắc Hàn và Nam Việt – Bắc Việt
là cách cộng đồng quốc tế phản ứng với cuộc chiến tranh do miền Bắc phát động.
Chiến
tranh Triều Tiên bắt đầu vào ngày 25/6/1950 khi Bắc Hàn xâm lược Nam Hàn. [5]
Ngay
sau đó, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đã thông qua Nghị quyết 82 (1950) (cũng
như nhiều nghị quyết khác như Nghị quyết 83 và 84), lên án cuộc tấn công của Bắc
Hàn là một hành động xâm lược, vi phạm Hiến chương Liên Hiệp Quốc, đặc biệt là
nguyên tắc không can thiệp và cấm sử dụng vũ lực trừ khi có sự cho phép của Hội
đồng Bảo an hoặc để tự vệ. [6]
Hội
đồng Bảo an tiếp tục ra nghị quyết thành lập lực lượng quân sự quốc tế để bảo vệ
Nam Hàn, trong đó, Hoa Kỳ đóng vai trò chủ đạo. Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc cũng
ra các nghị quyết tương tự, củng cố lập trường cho rằng cuộc xâm lược của Bắc
Hàn là bất hợp pháp và cần phải bị chặn đứng. [7]
Điểm
lưu ý quan trọng là Hội đồng Bảo an có thể thông qua các nghị quyết mấu chốt
này là bởi vì Liên Xô đang bận… tẩy chay, không tham dự các cuộc họp của Hội đồng
Bảo an (và từ đó không thể dùng quyền phủ quyết). [8] Họ cho rằng chính phủ của
Tưởng Giới Thạch không có tư cách đại diện cho Trung Quốc. Tuy nhiên, nhận ra
sai lầm nghiêm trọng của mình, Liên Xô nhanh chóng quay trở lại nghị trường của
Hội đồng Bảo an và chưa từng bỏ lỡ bất kỳ cuộc họp nào của Hội đồng kể từ
đó.
Ngược
lại, trong trường hợp của Nam Việt và Bắc Việt, không có sự đồng thuận quốc tế
về vấn đề này. Cuộc chiến ở Việt Nam, bắt đầu sau khi chính quyền Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa hỗ trợ các phong trào kháng chiến ở miền Nam Việt Nam, không gặp
phải bất kỳ trở ngại hay đánh giá pháp lý nào từ Liên Hiệp Quốc. Vì lý do này,
các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc có các quan điểm khác nhau về tính hợp
pháp của cuộc chiến, tùy thuộc vào vị trí chính trị của họ trong khối tư bản
hay xã hội chủ nghĩa.
Cho
đến ngày nay, hầu hết các quốc gia đều đồng thuận với mô tả lịch sử “kháng chiến
chống Mỹ cứu nước” của nhà nước Việt Nam.
3.
Hệ quả pháp lý lâu dài: Quan hệ quốc tế và thống nhất quốc gia
Cuối
cùng, sự khác biệt về tư cách pháp lý trong công pháp quốc tế của Nam Hàn – Bắc
Hàn và Nam Việt – Bắc Việt đã dẫn đến những hệ quả pháp lý và chính trị lâu dài
khác nhau.
Tại
bán đảo Triều Tiên, mặc dù cuộc chiến tranh đã kết thúc bằng một thỏa thuận
đình chiến vào năm 1953, hai miền vẫn chưa ký kết một hiệp định hòa bình chính
thức và về mặt pháp lý vẫn đang trong tình trạng chiến tranh. [9]
Cả
Nam Hàn và Bắc Hàn đều trở thành thành viên của Liên Hiệp Quốc vào năm 1991 sau
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc với nhiều kỳ vọng thống nhất nhanh chóng. [10]
Chính quyền Nam Hàn, tuy nhiên, có vẻ chịu thiệt hơn khi họ từ bỏ phần nào
tuyên bố đại diện hiệu quả cho toàn bộ bán đảo Triều Tiên (một điều mà Nghị quyết
195 của Đại hội đồng đã công nhận), và chỉ xác định phạm vi lãnh thổ của mình ở
phía Nam của vĩ tuyến 38. Chính sách này thường được biết đến với tên gọi “Chính
sách Ánh dương" (Sunshine Policy), tạo điều kiện cho các đối thoại thống
nhất với Bắc Hàn. [11]
Trong
khi đó, Việt Nam thống nhất khi chính quyền Bắc Việt giành chiến thắng quân sự
cuối cùng vào năm 1975 và chính thức sáp nhập Nam Việt vào năm 1976. [12] Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời từ đó và trở thành quốc gia duy nhất đại
diện cho Việt Nam trong cộng đồng quốc tế. Điều này đồng nghĩa với việc câu hỏi
về tư cách pháp lý của Việt Nam Cộng hòa không còn nhiều ý nghĩa pháp lý nữa.
Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành công trong việc thiết lập lại một
chính phủ duy nhất cho toàn bộ lãnh thổ, được quốc tế công nhận.
***
Sự
khác biệt về tư cách pháp lý trong công pháp quốc tế giữa Nam Hàn – Bắc Hàn và
Nam Việt – Bắc Việt phản ánh những điều kiện lịch sử, chính trị và pháp lý rất
khác nhau. Nam Hàn có lợi thế khi được Liên Hiệp Quốc công nhận từ sớm thông
qua một cuộc bầu cử có giám sát quốc tế, trong khi Nam Việt không có được sự
công nhận tương tự do những điều khoản không rõ ràng trong Hiệp định Geneva. Cuộc
chiến tranh do Bắc Hàn phát động bị Liên Hợp Quốc lên án là vi phạm Hiến
chương, còn cuộc chiến tranh tại Việt Nam không có sự đồng thuận quốc tế rõ
ràng.
-----------------
Đọc
thêm:
Chính
sách Ánh Dương của Hàn Quốc: Khi Mặt Trời sáng rồi lại tắt
Liên
bang Triều Tiên: Một giải pháp hòa bình thống nhất?
No comments:
Post a Comment