Đi
tìm lâu đài của Kafka - Bài 3 : Tranh giành di sản của Kafka
Bảo Thạch - RFI
Đăng
ngày: 14/06/2024 - 15:31
Đứng
ở lằn ranh giữa ba nền văn hóa, ở khúc gẫy giữa hai thế kỷ, Kafka mất năm 1924.
Phải đợi khoảng 20 năm, sau khi ông qua đời, thế giới mới sửng sốt phát hiện
dòng văn được xem như lời sấm truyền.
Hai
tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Séc Franz Kafka là "Vụ án" và
"Lâu đài" tại một cửa hàng bán sách ở Praha, Séc. Ảnh chụp ngày
10/10/2007. afp/afp
Kafka,
nhà tiên tri của chế độ toàn trị hay của địa ngục tư bản
Cách
đọc Kafka của đông đảo độc giả hậu chiến từ những năm 40 có thể được xem là diễn
giải chính trị. Người ta đã tiếp cận với Kafka như thể tiếp cận với một nhà
tiên tri. Ở trung tâm các mạch ngầm tạo nên tác phẩm, dường như đã hiện hữu những
điềm dự báo khốc liệt về một sự tiền định không lối thoát.
Văn
chương của Kafka thôi thúc và cảnh tỉnh độc giả trưóc đại họa và mê cung. Sau đệ
nhị thế chiến, không thể đọc «Vụ Án» mà không liên tưởng đến chế độ toàn trị,
nơi công an, cảnh sát ngày ngày thẩm vấn bị can mà không cần đưa ra lời buộc tội.
Từ Đông Âu sang Liên Xô và Trung Quốc, biết bao các vụ án dàn dựng, biết bao nạn
nhân phải chứng minh mình vô tội, chứ không phải như thông lệ, guồng máy tư
pháp chứng minh bị can phạm tội.
Có
một nhà phê bình đã chua chát nhận xét : Dưới chế độ Staline, người dân Liên Xô
không cần phải được diễn giải Kafka, mỗi khi về đêm khi họ nghe tiếng người lạ
mặt đến xô cửa.
Nghịch
lý ở đây, một lần nữa, bao trùm lên di sản Kafka khi quan sát thấy rằng Liên Xô
đã kiểm duyệt tác phẩm của Kafka mãi đến cuối thế kỷ. Còn tại Tiệp và Đông Âu,
văn chương Kafka hoàn toàn bị cấm đoán. Trong khi ở Tây Âu, Kafka được xem là «
phản ứng đối với quyền lực vô hạn », lời của Theodor Adorno, thì tại các nưóc
xã hội chủ nghĩa, Kafka bị các nhà mác-xít gán cho nhãn hiệu ngòi bút thể hiện
sự « tha hóa của con người, trong một xã hội tư bản trì trệ, tù đọng », theo lời
Georg Lukacs. Nói cách khác, các mâu thuẫn của đế chế Áo – Hung suy tàn, theo họ,
đã phản ảnh vào các tác phẩm của Kafka để thể hiện « địa ngục tư bản ».
Các
nhà sử học ghi nhận, năm 1963, nước Tiệp Khắc của thời kỳ chuyển tiếp sang chủ
nghĩa xã hội mang gương mặt nhân bản đã toan phục hồi cho Kafka. Họ đã tổ chức
một hội nghị thảo luận về Kafka. Trong không khí «tan băng», một số nhà tư tưởng
như Roger Garaudy của Pháp, thuộc đảng cộng sản, nhưng chủ trương «đổi mới» đã
bênh vực cho Kafka, xem các tác phẩm như «Vụ Án» và «Lâu Đài» là chim én báo hiệu
mùa xuân. Ngay tức khắc, nhà tư tưởng Đông Đức của đảng cộng sản nước này, ông
Alfred Kurella, đã bác bỏ và nói móc : «Đồng chí Garaudy đừng nhầm lẫn chim én
với loài dơi ngủ ngáy suốt ngày trong các hành lang và tầng trệt của các lâu
đài xưa cũ và các tòa án ». Ông Kurella gạt phắt mọi ý định phục hồi cho Kafka
khi kết luận : «Kafka là nhà văn của sự tha hóa. Trong các nước xã hội chủ
nghĩa của chúng ta, không còn sự tha hóa của con người. Bởi vậy, không cần đến
Kafka ».
Tuy
nhiên, cũng trong giai đoạn này, theo tạp chí Literarny Noviny của Tiệp Khắc,
hàng ngàn người dân Tiệp, trong sở làm, trong các cửa hàng, trên xe điện, mỗi
khi phải đối mặt với muôn vàn khó khăn trắc trở hàng ngày, trong một xã hội tha
hóa và bị thao túng, họ thủ thỉ thầm thì với người lạ mặt đứng gần : «Đúng là
Kafka » và họ ngẩng mặt lên trời như tìm ngưòi làm chứng.
Còn
người dân Liên Xô khi đọc được Kafka qua những văn bản truyền tay, ngay từ dòng
đầu của «Vụ Án» : « Chắc hẳn có người bôi nhọ Joseph K, bởi vì chẳng làm điều
gì nên tội, nhưng ông ta đã bị bắt vào một buổi sáng », thì họ đã tưởng rằng
Kafka là nhà văn Nga đấy.
Kafka
và lời sấm truyền về số phận nghiệt ngã của người Do Thái
Felice
Bauer, sinh năm 1887, tại Neustadt (nay là Prudnik, Ba Lan) và Franz
Kafka. ©
https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Felice_Bauer_and_Franz_Kafka.jpg
Không
chỉ ở Đông Âu, lối kiến giải chính trị cũng thịnh hành ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Đặc
biệt là người Do Thái sống sót sau khi Đức quốc xã đã lùa vào lò thiêu 6 triệu
đồng bào của họ và chửi rủa rằng «Chúng mày là loài sâu bọ». Người Do Thái cũng
như đông đảo độc giả hậu chiến không thể đọc «Hóa Thân» và «Lâu Đài» mà không
soi gương, ngỡ ngàng tìm thấy ở hành trình vô vọng của K định mệnh của dân tộc
Do Thái truyền kiếp, vẫn là kẻ ngoại cuộc, người lưu vong không thấy nơi đâu chốn
an toàn.
Ác
mộng của Kafka đã biến thành sự thật. Nhiều người thân của Kafka đã không tránh
khỏi lò thiêu Đức quốc xã. Milena, người tình của Kafka đã chết trong một trại
tập trung của phát xít Đức. Mối đe dọa diệt chủng trong những bức thư của Kafka
gửi đến Milena và Max Brod sau này được công bố, cho thấy Kafka đã ít nhiều
linh cảm được tai họa này. Ở đây, các phê bình thuộc trường phái này còn minh
chứng truyện ngắn «Trại Tù» - «La colonie pénitentiaire», báo hiệu cho thời đại
diệt chủng mà Kafka đã tỉnh táo giải mã.
Tại
Pháp, một Kafka siêu thực, hiện sinh
Tại
Pháp, bản dịch đầu tiên của «Vụ Án» ra mắt vào năm 1933. «Lâu Đài» được xuất bản
năm 1938. Phải đợi đến năm 1946, độc giả Pháp mới được thưởng thức tác phẩm
«Châu Mỹ» sau nay được đổi tên là «Người mất tích». Còn tập «Hóa Thân» thì đến
tay, độc giả Pháp năm 1938, sau khi đã được đăng trích đoạn trong 3 số của tập
san Nouvelle Revue Française 1928.
Ngược
dòng ngoảnh nhìn về mốc thời gian Kafka xuất hiện tại Pháp, có thể khẳng định
bóng nhà văn này thật to lớn, bởi nó phủ lên hai trào lưu nghệ thuật mãnh liệt,
sung sức nhất thế kỷ 20, đó là chủ nghĩa siêu thực và chủ nghĩa hiện sinh.
Kafka đã mất quá sớm để có thể tiếp xúc với các bậc thủy tổ của hai trào lưu
này : André Breton thuộc phái siêu thực, Jean Paul Sartre hay Albert Camus thuộc
phái hiện sinh. Thế nhưng, ông đã báo hiệu sức bật của siêu thực, khi ông kết hợp
ảo và thực, khi ông hòa nhập giấc mộng vào cuộc sống đời thường.
Điều
này đã quá rõ trong văn chương Kafka. Ví dụ như trong «Lâu Đài», tòa nhà cứ sờ
sờ trước mắt, nhưng K không tài nào tìm được ngõ vào. Lần đầu, con đưòng tưởng
chừng dẫn vào cổng Lâu Đài, thì quanh co lại đưa K trở về khởi điểm. Có lần,
tìm được người chỉ đường, thì K quá mệt mỏi, chợp mắt ngủ một giấc. Càng tìm hiểu
và quan sát Lâu Đài, K càng cảm thấy mình lạc lối trong mờ bòng bong nghi vấn
và lời nói dối.
Tượng
Franz Kafka tại một công viên ở Kielce, Ba Lan. © https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Popiersie_Franz_Kafka_ssj_20060914.jpg
Ở
đây, bài học siêu thực đã được minh họa tài tình, khi cái nhìn về hiện thực trước
mắt từ từ buộc K đạp đổ mọi điều khả tín. Với Kafka cũng như với các tín đồ
siêu thực sau này, ranh giới giữa thực và ảo không còn nữa, trong tiểu thuyết.
Sau trường phái siêu thực, những nỗ lực vô vọng của K được thế hệ hiện sinh hậu
chiến của Pháp xem là biểu tượng của sự phi lý. Albert Camus đã giải mã Kafka
như những ngụ ngôn của thân phận con người trở thành kẻ xa lạ trên thế giới
này. Những mối lo âu, ám ảnh của Kafka được mô tả như nhịp cầu nối kết thế kỷ
20 hiện sinh với các bậc tiền bối như nhà triết học Kierkegaard, người đã cảnh
báo : «Con người không còn khả năng trợ giúp hay cứu chuộc thời đại mình, mà chỉ
còn có thể chứng kiến cái mất mát».
Từ
Max Brod với «Phúc Phận» cho đến cái mất mát của thời đại, theo phái hiện sinh,
đó là những dòng diễn giải chính yếu về Kafka. Nhưng còn vô số các học giả khác
đề nghị xem xét Kafka theo lăng kính phân tâm học, hoặc ngược lại, giải phóng
Kafka khỏi cứu cánh tôn giáo hay chính trị, trở về với một Kafka thuần thẩm mỹ.
Hiện nay, có thể tập hợp hàng chục ngàn quyển sách nghiên cứu Kafka trong một
thư viện khổng lồ. W.H.Auden, nhà thơ vĩ đại Anh Quốc đánh giá rằng : «Nêu danh
một nhà văn mà vai trò đã ảnh hưởng sâu đậm đến thời đại của chúng ta không kém
gì dấu ấn của Dante, Shakespeare hay Goethe, với các thế hệ đưong thời, thì người
đó sẽ là Kafka».
Nếu
chúng ta tin tưởng vào sức mạnh của tiểu thuyết, một nghệ thuật mà mỗi vùng tối
được phát hiện đều trở thành cái đẹp, thì hôm nay hay ngày mai, mặc ai cứ thuyết
giảng, độc giả thế kỷ 21 cứ lần giở Kafka để nghe ngân vang trong lòng những ý
tưởng được đánh thức, những tiềm năng được thúc giục. «Hãy cất bước tìm Lâu
Đài, mặc dù đường đời nhiều nguy nan».
(Tạp
chí đăng lần đầu ngày 26/09/2008)
*****
Đi tìm Lâu Đài của Kafka -
Bài 2 : Mê Cung
Bảo Thạch - RFI
Đăng
ngày: 07/06/2024 - 11:36
Không
thể tách rời ý nghĩa những tác phẩm của Kafka ra khỏi mảnh đất chúng sinh sôi nẩy
nở. Cũng không thể « đọc » Kafka mà quên đi chúng ta đang đứng ở đâu, tại những
điểm nhìn nào. Vì vậy, phải trở ngược về đầu thế kỷ 20, quãng thời gian đã được
nhà sử học Eric J.Hobsbawm mệnh danh là kỷ nguyên của những Đại Họa.
https://s.rfi.fr/media/display/c896b22e-24af-11ef-8336-005056a97e36/w:980/p:16x9/DSC_0330.webp
Mê
cung trong nhà thờ Chartres, Pháp. © RFI/Đức Tâm
Kafka
sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái, tại Praha, thủ đô Tiệp ngày nay,
thuộc đế chế Áo Hung lúc đó. Nhưng ông được đào tạo tại những ngôi trường Đức,
ông tiếp thu văn hóa Đức và sáng tác bằng tiếng Đức. Như vậy, Kafka mang trong
mình sự cộng hưởng của ba nền văn hóa : Văn hóa Do Thái, văn hóa Tiệp và
văn hóa Đức. Sau này, giá trị tinh thần của sự nghiệp Kafka trở thành một di sản
được cả ba nền văn hóa này khẳng định sở hữu và tranh giành bản quyền, hay ít
nhất là đòi áp đặt một cách diễn giải riêng. Có lẽ, ảnh hưởng của ba nền văn
hóa này vừa là chìa khóa của các tác phẩm, vừa là nguyên nhân gây xung đột
trong tâm thức nhà văn.
Do
đó, trước khi xem xét các cách tiếp cận, cách « đọc » Kafka, thiết tưởng
nên tìm hiểu tiểu sử độc đáo của một nhà văn bị giằng co giữa nhiều « bản
sắc », mà hơn nữa, vào thời điểm tài năng chín mùi, đứng ở vị trí bản lề lịch
sử của châu Âu giữa thế kỷ 19 hòa bình và thế kỷ 20 kinh thiên động địa.
Kafka,
đứa trẻ của chính sách đồng hóa người Do Thái
HÌNH
: https://s.rfi.fr/media/display/989f6916-24b0-11ef-bcb6-005056bfb2b6/Kafka_6_years.webp
Franz
Kafka. Ảnh chụp trong khoảng năm 1887 - 1889 © https://commons.wikimedia.org/wiki/File:Kafka_6_years.jpg
Kafka
sinh năm 1883 trong một gia đình gốc Do Thái đã bắt đầu được đồng hóa. Lúc trẻ,
Kafka không mấy quan tâm đến gốc rễ Do Thái của mình, cho dù gia đình ông vẫn
vào đền tham dự các buổi lễ quan trọng của Do Thái giáo. Nhưng, theo đa số các
nhà nghiên cứu Do Thái hiện nay, Kafka càng trưởng thành càng cảm thấy mình lạc
loài, như người mất gốc, mất lai lịch.
Phải
nói thêm, cho dù người Do Thái đã di dân sang châu Âu từ ngàn năm trưóc, nhưng
trong đế chế Áo - Hung, phải đợi đến 1848, tức là 35 năm trước khi Franz Kafka
ra đời, cộng đồng người Do Thái mới được công nhận quyền bình đẳng. Trước 1848,
người Do Thái bị đàn áp, khống chế rất dã man. Ví dụ điển hình là chẳng những họ
bị đẩy ra sống ở ngoài lề xã hội, mà hơn vậy nữa, nhà chức trách giới hạn gắt
gao việc tăng trưởng dân số người Do Thái với đạo luật : Chỉ có con trai đầu
lòng của gia đình người Do Thái được quyền kết hôn và lập gia đình. Điểm quan
trọng ở đây là Kafka đại diện cho thế hệ thứ hai, kể từ khi người Do Thái được
đồng hóa, trong khi ông cụ nội của Kafka còn phải bị lưu đầy, suýt không được
quyền lập gia đình, nếu sự kiện 1848 không diễn ra. Hoàn cảnh này cũng đáng lưu
ý trong sự hình thành của tâm thức Kafka. Gốc gác này còn hiển hiện trong Nhật
ký của Kafka. Năm 1911, ông viết : « Tôi tên là Amschel trong
tiếng Hebreu (Do Thái) như ông cụ nội của mẹ tôi ».
Praha
vào đầu thế kỷ 20 cũng là một thủ đô đa sắc tộc với ba cộng đồng chung sống tại
đây. Đông nhất là người Tiệp, cư dân Đức thì giàu có và thiểu số người Do Thái.
Nhưng tiếng Đức là ngôn ngữ chính thống của đế chế Áo - Hung. Bởi vậy, người Do
Thái Praha thuộc thành phần khá giả, như gia đình Kafka, cho con học tiếng Đức
hầu thăng tiến trong xã hội.
Tuy
nhiên, sự kỳ thị, bài xích người Do Thái vẫn tiềm ẩn trong các xã hội Âu châu
đương thời. Lâu lâu lại nổi lên các tin đồn là dân Do Thái giết người để tế lễ.
Vì vậy, tại Praha, năm 1901, diễn ra nhiều cuộc biểu tình ầm ĩ chống Do
Thái, hay tại Pháp, nổ ra vụ án Dreyfuss cuối thế kỷ 19. Phải đợi đến đầu thế kỷ
20, năm 1906, sĩ quan này mới được phục hồi tại Pháp.
Một
dấu hiệu khác cần quan tâm là Kafka về cuối đời, nảy sinh ý định di tản sang
Palestine, nơi người Do Thái xem là quê hương lịch sử của mình. Tất cả những
người bạn của Kafka đều mang gốc gác Do Thái, như Max Brod. Sau này, Max Brod
đã định cư tạ Palestine và viết lời đề bạt cho những tác phẩm của Kafka. Theo
người đã được Kafka ủy thác thực hiện di chúc, đồng thời là người bạn tâm giao,
hiểu biết cặn kẽ nhất về Kafka, đã cùng với Kafka chu du Âu châu, thậm chí dẫn
dắt nhau vào các nhà thổ hưởng lạc, thì «Vụ Án» và «Lâu Đài» là hai tác phẩm
anh em sinh đôi. «Vụ Án» là hành trình đi tìm công lý, trong khi «Lâu Đài» là
biểu tượng của «Phúc Phận», biểu tượng của «Ân Huệ», tiếng Pháp : La
Grâce). Đó là hai khái niệm thần học của Do Thái giáo mà theo sách thánh
Kabbale, cho phép con người cảm nhận được sự hiện diện của Thượng Đế.
Mê
cung của lịch sử
HÌNH
: https://s.rfi.fr/media/display/20b49740-24b1-11ef-83a5-005056a90284/DSC_0322.webp
Mê
cung trong khuôn viên nhà thờ Chartres, Pháp. © RFI/Đức Tâm
Bên
cạnh ý nghĩa mang tính tâm linh vừa kể, tiểu thuyết và cả truyện ngắn của Kafka
nữa hàm chứa rất nhiều ẩn dụ. Đó là những văn bản đa nghĩa – textes
polysémiques – thúc đẩy các thế hệ độc giả bốn phương đi tìm lời giải.
Nhưng
quan trọng không kém là khung cảnh lịch sử đầu thế kỷ 20 và đặc biệt là 20 năm
đầu tiên, thời gian Kafka cầm bút trước khi qua đời năm 1924. Trong giai đoạn
này, điều chưa từng thấy tại châu Âu là đại họa Thế Chiến. Đây là khái niệm chiến
tranh toàn diện giữa các cường quốc như Nga, Pháp, Áo – Hung, Phổ, Ý và Anh Quốc.
Bởi vậy, theo tất cả những chứng từ còn lưu lại từ ấy cho đến nay, con ngưòi
Tây phương vào thời điểm đó có cảm giác lâm vào một mê cung thăm thẳm, trong
khi cùng lúc sụp đổ tan tành ba đế chế vĩ đại : Đế chế Nga, đế chế Áo –
Hung và đế chế Ottoman, tức Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Vienna, thủ đô Áo – Hung, nhà văn
Karl Kraus xuất bản quyển sách dài tựa đề : «Những ngày cuối cùng của loài
người». Còn ngoại trưởng Anh, ông Edward Grey, vào lúc mà nước ông và Đức tham
chiến, đã thốt rằng : «Các ngọn đèn đã chợt tắt trên toàn lục địa
châu Âu. Chúng ta sẽ không thấy đèn bật sáng trở lại trước khi chúng ta nhắm mắt».
Điều này cần nhấn mạnh. Đặc điểm chung của thế hệ trưởng thành những năm đệ nhất
Thế Chiến, đó là họ đều linh cảm ít nhiều thế giới thân quen, gần gũi của họ một
sớm mai đã tan vỡ, nhường chỗ cho bạo lực ở một chiều kích chưa từng thấy, báo
hiệu những cuộc tàn sát tập thể dã man, phản nhân văn. Phải chăng nên nhắc lại ở
đây những người đương thời không thể tin vào những điều họ nhìn thấy trước mắt
và họ sẽ chứng kiến trong suốt nửa thế kỷ : 10 triệu người bỏ mạng trong
cuộc chiến 1914 – 1919 và ít nhất là 54 triệu người chết trong cuộc chiến 20
năm sau đó. Còn bao nhiêu trăm triệu người lưu lạc trên toàn thế giới ?
Loài
người tất nhiên đã sống sót sau Đại Họa. Thế nhưng, từ lúc đó, các nhà trí thức
châu Âu phỏng đoán toà kiến trúc kiên cố bảo vệ hòa bình của thế kỷ qua đã bị
triệt hạ trong khói lửa. Sự an toàn không còn nữa trên thế giới này. Ở điểm
này, Kafka hơn cả Joyce hay Proust, đã ghi chép lại cái không khí lo âu, sợ hãi
bao trùm, sự mất mát nhân tính và những nẻo đường vô vọng của con người đi tìm
sự cứu chuộc, điều sẽ diễn ra từ đệ nhất đến đệ nhị Thế Chiến, khiến cho sau
này, ông được nhiều thế hệ tôn làm bậc thầy, vị tiên tri, cười ra nước mắt, báo
hiệu con người sẽ không tài nào giải mã nổi thân phận chính mình.
Nhà
văn Milan Kundera đánh giá : «Với Kafka, tiểu thuyết không còn là
điều tự bạch của tác giả. Tiểu thuyết là cơ hội thăm dò ý nghĩa cuộc sống, khi
thế giới đã trở thành một cái bẫy giam hãm con người».
(Tạp
chí đăng lần đầu ngày 19/09/2008)
*****
Đi
tìm lâu đài của Kafka - Bài 1 : Nhà văn dò tìm những mạch ngầm
Bảo Thạch - RFI
Đăng
ngày: 31/05/2024 - 11:31
Với
ba tiểu thuyết "Vụ Án", "Lâu Đài", "Hóa Thân",
Franz Kafka đã trở thành một nhà văn lớn của thế kỷ 20, bên cạnh James Joyce,
Marcel Proust. Ông tin chắc rằng có nhiều thế lực vô hình giấu mình trong tâm
thức nhà văn và một khi "biển cả đã đóng băng" bị nứt nẻ ra, các hồn
vía không tên, bức bách chiếm lĩnh lại ngòi bút của nhà văn.
Franz
Kafka. Ảnh chụp vào khoảng năm 1923-1924 © https://commons.wikimedia.org
Trong
một lá thư gửi người bạn vào tháng giêng năm 1904, Kafka viết : «Tác phẩm
là nhát búa phá vỡ biển cả đã đóng băng trong chúng ta». Kafka đã lấy cuộc
đời đặt cược cho văn học như vậy.
Không
lấy vợ, đẻ con, không suy tính đến tương lai, mỗi đêm ngồi viết đến tảng sáng,
mắc bệnh lao, thổ huyết đều đều, cũng chẳng màng đến hư danh, khi chết để lại
chúc thư uỷ thác cho người bạn Max Brod việc thiêu đốt tất cả những sáng tác mà
Kafka chưa hoàn tất, chưa ưng ý.
Nhưng
may mắn thay, di chúc của Kafka đã bị phản bội. Max Brod đã không ném vào thần
lửa các tiểu thuyết như «Vụ Án» và «Lâu Đài». Cùng với truyện ngắn «Hóa Thân»,
hai truyện dài vừa kể đã bảo đảm cho Kafka vị trí nhà văn lớn nhất thế kỷ 20,
bên cạnh James Joyce và Marcel Proust.
Kafka
người dò tìm những mạch ngầm
Trong
số ba nhà văn lớn được công nhận là người mở đường cho tiểu thuyết hiện đại,
Kafka mang nhiều ẩn số nhất, cho dù các tác phẩm của ông dễ đọc hơn nhiều trường
thiên tiểu thuyết của Proust hay truyện «Ulysse» của Joyce. Bí ẩn của trường hợp
Kafka suốt một thế kỷ vừa qua đã rõ, khi hàng vạn bài viết và tập sách nghiên cứu
đề nghị diễn giải ý nghĩa của các tiểu thuyết như «Vụ Án» và «Lâu Đài».
Tuy
nhiên, đằng sau các bài phê bình uyên bác, thường phản ảnh dấu ấn những ý thức
hệ đương thời, dường như Kafka chỉ nói về mình, về các giấc mộng kinh hoàng của
kẻ ngoại cuộc, mãi mãi đi tìm một chỗ đứng trong cuộc đời để viết văn.
Tháng
7 vừa qua, 125 năm sau ngày sinh của Kafka, thế giới kỷ niệm sự kiện này, xem
đó là một món nợ phải trả đầy đủ cho một nhà văn đã bắt mạch thời thế, chiêm
nghiệm trước những khổ đau của thế kỷ vừa qua, mở đường cho đông đảo các tiểu
thuyết gia năm châu. Gabriel Garcia Márquez đã từng tiết lộ, ông đã khám phá được
cách viết văn mới khi phát hiện Kafka.
Franz
Kafka sinh ngày mồng 3 tháng 7 năm 1883, tại Praha, lúc đó thuộc đế chế Áo
Hung, nay là thủ đô cộng hòa Tiệp. Ông mất năm 1924, gần Vienna, thọ 41 tuổi. Cột
mốc đánh dấu sự nghiệp của Kafka diễn ra vào buổi tối ngày 22 tháng 9 năm 1912.
Lúc ấy, ông dự định viết về một chủ đề khác, nhưng theo lời tường thuật của
chính ông, ngòi bút của ông như thần nhập, như lên đồng, ông viết một mạch như
ma đuổi truyện ngắn đặt tên là «Bản Án». Chỉ trong một đêm, đến tảng sáng, truyện
ngắn này đã hoàn tất.
Phải
nói ngay rằng «Bản Án» không phải là bản nháp của «Vụ Án», nhưng ngay từ lúc
đó, Kafka như người phá vỡ được ức chế nội tâm, đã kể một câu chuyện về mâu thuẫn
giữa cha và con, về sự tàn nhẫn và sự hy sinh, về những bí mật phải che giấu và
mặc cảm tội lỗi.
Quan
trọng hơn cả, kể từ lúc đó, Kafka đã sáng tạo được cho mình phương pháp chấp
bút. Ông đã nắm bắt được một chân lý. Ông tin chắc là có nhiều thế lực vô hình,
giấu mình trong tâm thức nhà văn. Chưa biết chừng, đó là vị thần nặc danh hay
ác quỷ hay chăng đây chỉ là những bóng ma trong đêm khuya hiện về ? Tầm thường
hơn, có lẽ đấy chỉ là thế giới nội tâm, một khi « biển cả đã đóng băng » bị nứt
nẻ, các hồn vía không tên, bức bách chiếm lĩnh lại ngòi bút của nhà văn.
Cứ
như vậy, Kafka tin chắc vào chính mình để sáng tác và ông đã vắt kiệt sức mình
để lại ba tác phẩm được biết đến nhiều nhất là «Hóa Thân», «Vụ Án» và «Lâu
Đài».
Trong
ba tác phẩm vừa kể, «Hóa Thân», xuất bản năm 1915, đã trở thành kinh điển với
nhân vật Grégoire Samsa, một sớm thức giấc, chợt thấy mình hóa thân thành một
con bọ cồng kềnh.
«Vụ
Án» thì đau xót, dữ dội, với lần đầu tiên trong lịch sử văn học xuất hiện thân
phận một con người bị buộc tội oan, mà nạn nhân lại không biết tội danh là gì.
Nhưng pháp lệnh không thể nhầm lẫn. Joseph K nhân vật ở đây sẽ bị hai kẻ lạ mặt
đến cắt cổ mà anh ta vẫn không ngừng kêu oan. Ngay từ trang đầu, Kafka thu hút
độc giả với câu : «Chắc hẳn có người bôi nhọ Joseph K, bởi vì chẳng làm
điều gì nên tội, nhưng ông ta đã bị bắt vào một buổi sáng».
HÌNH
: https://s.rfi.fr/media/display/a9713ba2-1f33-11ef-8777-005056bfb2b6/Kafka_statut_432.webp
Tượng
Franz Kafka bằng đồng tại Praha, Cộng Hòa Séc. © https://fr.wikipedia.org
«Lâu
Đài», truyện dài viết dở dang. Mở đầu ở trang nhất như sau : «Đó là vào
một chiều tối, khi K đã đến đây. Ngôi làng phủ đầy tuyết. Không thể nhìn thấy
ngọn đồi toà Lâu Đài với sương mù và bóng tối vây quanh. Không có dù chỉ một đốm
sáng nào cho biết sự hiện hữu của một tòa lâu đài to lớn. K dừng lại một hồi
lâu bên chiếc cầu gỗ trên con đường dẫn đến ngôi làng và ngẩng nhìn về phía có
thể tưởng chừng chỉ là một khoảng không».
Câu
chuyện «Lâu Đài» của Kafka mở màn như vậy, đơn giản, nhẹ nhàng, khúc chiết. Tất
cả đều bình dị, ngoại trừ nhân vật ở đây lại không có tên hay nói đúng hơn, người
này chỉ được nêu danh bằng ký hiệu chữ K. Đêm đó, K trú ngụ tại ngôi làng. Hôm
sau, K hỏi han, tìm cách tiếp xúc với Lâu Đài. Là người đạc điền, K nói đã nhận
được hợp đồng để làm việc tại Lâu Đài. Tuy nhiên, suốt thời gian sau, mặc dù
kiên định đến đâu, K vẫn không được phép băng qua cửa tòa Lâu Đài để yết kiến
chủ nhân của nó.
Hoàn
cảnh của K, cả làng ai cũng biết. Lâu Đài gửi những trợ lý xuống làng, tiếp
chuyện với K, thậm chí có cả hai gã thanh niên được phái xuống làng để giúp đỡ
K, nhưng thâu nhận K thì điều này chẳng bao giờ Lâu Đài chấp thuận. Ngày tháng
qua, K sinh hoạt ở ngôi làng dưới chân đồi, chờ đợi cơ hội, ngóng trông một tín
hiệu của Lâu Đài, sẽ không bao giờ đến. Thế giới của Lâu Đài, anh ta chỉ biết
qua trung gian hay những phản ảnh gián tiếp. Cửa Lâu Đài vẫn đóng. Kể đến đây,
chưa đủ thời gian kết thúc tiểu thuyết, Franz Kafka đã qua đời.
(Tạp
chí đăng lần đầu ngày 12/09/2008)
No comments:
Post a Comment