Liệu
Việt Nam có thể không dùng vũ khí của Nga nữa hay không?
Lê Hồng
Hiệp | The Fulcrumt
DCVOnline dịch thuật
POSTED ON APRIL 5,
2022
https://dcvonline.net/2022/04/05/lieu-viet-nam-co-the-dut-vu-khi-cua-nga-hay-khong/
Việt Nam ngày càng thấy khó tiếp tục với chính sách mua quân cụ và vũ
khí của Nga. Hà Nội thấy có cơ sở hợp lý để mua vũ khí từ các nước khác, nhưng
không dễ dàng làm được như vậy.
https://fulcrum.sg/wp-content/uploads/1-1-e1649045860113-aspect-ratio-555-327.png
Ảnh chụp màn hình
video cho thấy Hộ tống hạm VPNS Quang Trung (016), một khinh hạm lớp Gepard (Hỏa
tiễn dẫn đường) của Hải quân Nhân dân Việt Nam (VPN) đến Visakhapatnam vào ngày
24 tháng 2 năm 2022 để tham gia Cuộc tập trận Hải quân Đa phương MILAN
2022. (Screengrab: Indian Navy/ Twitter)
Cuộc xâm lăng của Nga vào Ukraine được cho là
sẽ tạo ra những ảnh
hưởng sâu rộng đối với Đông Nam Á. Trong lĩnh vực an ninh, một trong những ảnh
hưởng chính sẽ là doanh số bán vũ khí của Nga cho khu vực có thể sẽ giảm vì những
lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga. Việt Nam, nước
nhập cảng vũ khí lớn thứ năm của Nga trên toàn cầu và lớn nhất ở Đông
Nam Á, sẽ bị ảnh hưởng nặng nhất, khiến Việt Nam bắt buộc phải đẩy nhanh việc
đa dạng hóa vũ khí nhập cảng .
Sự phụ thuộc của Việt Nam vào vũ khí của Nga bắt
nguồn từ mối quan hệ lâu đời với Liên Xô cũ. Trong Chiến tranh Việt Nam, mặc dù
Việt Nam đã nhận được sự viện trợ vũ khí từ một số nước khác trong khối xã hội
chủ nghĩa, nhưng Liên Xô và Trung Hoa vẫn là những nước cung cấp vũ khí và quân
cụ chính. Tuy nhiên, xét về những vũ khí chính, Moscow là nơi cung cấp quan trọng
nhất của Hà Nội. Theo thống
kê chính thức của Việt Nam, từ năm 1955 đến 1975, Liên Xô đã cung cấp cho Việt
Nam 1.357 hệ thống phóng hỏa tiễn, hơn 18.300 hỏa tiễn các loại, 316 máy bay
chiến đấu, 52 tàu chiến, 21 tàu vận tải, 687 xe tăng, 601 xe bọc thép và 1.332
xe kéo pháo.
Sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975, viện trợ
của Liên Xô cho Việt Nam phần lớn tập
trung vào hỗ trợ kinh tế, nhưng quân cụ và vũ khí còn sót lại từ thời Chiến
tranh Việt Nam đã khiến Việt Nam vẫn phụ thuộc và Nga, Hà Nội vẫn nhập cảng vũ
khí từ Nga sau khi Liên Xô sụp đổ. Sự phụ thuộc của Việt Nam vào vũ khí của Nga
càng trở nên trầm trọng hơn vì không thể tìm được các nguồn nhập cảng thay thế
và đáng tin cậy. Vũ khí từ các nước phương Tây nhìn chung có giá thấp hơn vũ
khí của Nga. Ngay cả khi Việt Nam có đủ khả năng mua chúng, một số sẽ không có
mua được do những lệnh trừng phạt và kiểm soát xuất cảng. Ví dụ, Hoa Kỳ đã
không dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam cho đến năm 2016. Trong
khi đó, Việt Nam không quan tâm đến việc mua vũ khí của Trung Hoa do sự thiếu
tin cậy giữa hai nước và những tranh chấp đang diễn ra ở Biển Đông.
Kể từ khi Việt Nam bắt đầu chương trình hiện đại
hóa quân đội vào cuối những năm 1990, hầu hết các loại vũ khí chính mà nước này
có được đều có nguồn gốc từ Nga, gồm 6 tàu ngầm lớp Kilo, 36 máy bay đa năng
Sukhoi Su-30MK2, 4 khinh hạm lớp Cheetah 3.9 và 2 cơ động hạm Bastion, hệ thống
hỏa tiễn phòng thủ bờ biển. Dữ liệu từ Viện Nghiên cứu
Hòa bình Quốc tế Stockholm (SIPRI) cho thấy từ năm 1995 đến năm 2021,
tổng kim ngạch nhập khẩu vũ khí của Việt Nam đạt 9,07 tỷ USD, trong đó Nga chiếm
7,4 tỷ USD (81,6%).
Việt Nam bắt đầu đối phó với những khó khăn
ngày càng tăng trong việc mua sắm vũ khí từ Nga sau vụ sáp nhập Crimea vào năm
2014. Một trường hợp điển hình là Việt Nam mua các khinh hạm lớp Gepard thứ ba
và thứ tư từ Nga. Khi đó, Nga đang đóng các khinh hạm này cho Việt Nam nhưng được
cho là đã gặp khó khăn trong việc mua động cơ của Ukraine. Do đó, Việt Nam phải
tiến hành đàm phán song song với Nga để giữ cho dự án tồn tại và với Ukraine để
bảo đảm có động cơ. Cuối cùng, sau một thời gian trì hoãn, hai tàu khu trục
nhỏ này đã được đưa vào hoạt
động vào năm 2017, nhưng những thách thức đã khiến Việt Nam từ bỏ kế hoạch
mua thêm hai tàu chiến tương tự của Nga.
Sẽ không dễ dàng để Việt Nam có thể mua quân cụ mới
từ các nước khác. Tiến trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam đã chậm lại kể
từ năm 2016 và ngân sách của quốc gia này dành cho hàng hóa quân sự mới hạng đắt
tiền có vẻ eo hẹp, khiến vũ khí từ các nước phương Tây trở nên kém hợp lý hơn đối
với Việt Nam.
Cũng theo số liệu của SIPRI, Nga chiếm tới 90%
số vũ khí nhập cảng của Việt Nam trong giai đoạn 1995-2014 nhưng chỉ chiếm
68,4% trong giai đoạn 2015-2021. Trong thời gian sau đó, Việt Nam dường như
đang cố gắng đa dạng hóa các hoạt động mua sắm vũ khí của họ khỏi Nga. Một số
công ty cung cấp vũ khí gia tăng cho Việt Nam từ năm 2015 đến năm 2021 gồm
Israel (13,7%), Belarus (5,7%), Nam Hàn (3,3%), Hoa Kỳ (3%) và Hòa Lan (2,4%).
Các biện pháp trừng phạt mới của phương Tây đối
với Nga sau cuộc xâm lăng Ukraine sẽ khiến Việt Nam càng khó tiếp tục nhập cảng
vũ khí của Nga. Thứ nhất, sẽ có những trở ngại về kỹ thuật và tài chính vì Nga
sẽ không có quyền tiếp cận với một số bộ phận và đồ phụ tùng nhập cảng cần thiết
để sản xuất vũ khí, trong khi các ngân hàng lớn của Nga đã bị loại khỏi mạng lưới
thanh toán toàn cầu SWIFT, khiến hai bên khó giải quyết các khoản mua bán. Thứ
hai, tiếp tục mua vũ khí của Nga sẽ dẫn đến rủi ro về uy tín, khiến Việt Nam có
thể phải chịu các lệnh trừng phạt, chẳng hạn như Đạo luật trừng phạt đối thủ Mỹ
năm 2017 (CAATSA) của Washington. Do đó, trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ
tăng gấp đôi nỗ lực nhằm đa dạng hóa hoạt động nhập khẩu vũ khí.
Như vậy, Việt Nam sẽ không dễ dàng mua quân cụ
mới từ các nước khác. Quá trình hiện đại hóa quân đội của Việt Nam đã
chậm lại kể từ năm 2016 và ngân sách của quốc gia này dành cho các mặt
hàng quân sự mới và đắt tiền có vẻ eo hẹp, khiến vũ khí từ các nước
phương Tây trở nên kém hợp lý hơn đối với Việt Nam. Khả năng tương thích giữa
các hệ thống vũ khí của Liên Xô/Nga và những hệ thống mới hơn không phải của
Nga cũng sẽ là một thách thức. Quan trọng hơn, vì nhiều người trong giới chức
quân đội cao cấp của Việt Nam đã được đào tạo ở Liên Xô và Nga, đã quen làm ăn
với các đối tác Nga nên họ có thể gặp khó khăn khi giao dịch với giới cung cấp
mới có văn hóa kinh doanh khác, kể cả việc kinh doanh minh bạch hơn những thông
lệ mà giới chức chính phủ Việt Nam có thể không cảm thấy thoải mái.
Tuy nhiên, việc dựa vào một nguồn vũ khí duy
nhất sẽ khiến Việt Nam gặp rủi ro nghiêm trọng. Ngoài các vấn đề nêu trên, quan
hệ ngày càng chặt chẽ của Moskva với Bắc Kinh là một nguồn rủi ro khác mà Hà Nội
cần để ý, do tranh chấp Biển Đông ngày càng gia tăng. Việc đưa ra các kế hoạch
nhằm loại bỏ vũ khí của Nga sẽ chỉ ngày càng trở nên quan trọng đối với Việt
Nam. Vấn đề tương thích có nghĩa là điều này cần được thực hiện theo từng giai
đoạn, phù hợp với việc từ từ không dùng hệ thống vũ khí cũ của Nga nữa với việc
mua sắm vũ khí của những hệ thống mới từ những nước cung cấp khác. Trong tiến
trình này, ngoài việc nâng cao năng lực sản xuất vũ khí trong nước, việc tăng
cường hơn nữa quan hệ chiến lược với các nước có thể cung cấp vũ khí thay thế
cũng sẽ giúp Hà Nội kiểm soát tốt hơn những nỗ lực đa dạng hóa nguồn vũ khí của
mình.■
*
Tác giả | Tiến sĩ Lê Hồng
Hiệp là chuyên viên Nghiên cứu viên hàng đầu của Chương trình Nghiên cứu Chính
trị và Chiến lược Khu vực và Điều hợp viên của Chương trình Nghiên cứu Việt Nam
tại ISEAS — Viện Yusof Ishak. Ông cũng là biên tập viên của tạp chí Đông Nam Á
Đương đại hàng đầu của viện.
© 2022 DCVOnline
Nếu đăng lại, xin ghi nguồn và đọc “Thể lệ trích đăng
lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Will Vietnam Be Able to Wean Itself Off
Russian Arms? |LE HONG HIEP
| The Fulcrumt | April 4, 2022
No comments:
Post a Comment