GS
Lê Hữu Khóa
18-3-2019
ĐỊNH ĐỀ: có độc
đảng thì không có chính trị, có độc tài thì không có chính giới, có độc trị thì
không có chính trường, có độc tôn thì không có chính kiến.
*
Tôi xin dùng định đề này
để xác nhận lần nữa là các lãnh đạo ĐCSVN-Đảng cộng sản Việt Nam hiện
nay, không phải là chính trị gia. Đây là định đề mà tôi đã viết qua
sách và bài, đã phân tích và giải thích trong các giảng đường đại học quốc nội
cũng như quốc tế.
Trong bài này tôi dùng hệ chính
(chính trị, chính giới, chính trường) qua hệ thức (kiến thức,
tri thức, trí thức, ý thức, nhận thức) biết dựa trên hệ lương
(lương thiện, lương tâm, lương tri)để giải luận thảm kịch của Việt Nam hiện
nay, và khi không có ba hệ này, thì Việt tộc chỉ bị cai trị, mà xã hội Việt sẽ
không có các chính trị gia Việt để quản trị văn hóa Việt, giáo dục Việt, kinh tế
Việt… vì chính trị chi phối không những đời sống xã hội, sinh hoạt xã hội, quan
hệ xã hội, mà chính trị quyết định toàn bộ thân phận của một dân tộc, toàn thể
số kiếp của một quốc gia.
Xin được đề nghị phương
pháp luận sau đây để giải luận câu chuyện: Chính trị là gì? Chúng
ta sẽ dùng định nghĩa để xây dựng định đề, và khi định nghĩa để nhận ra các ẩn
số trong đời sống chính trị (chính trị, chính giới, chính trường) thì
chúng ta phải vào sâu để phân tích hai hàm số khác: thực trạng vắng bóng sinh
hoạt chính trị của Việt Nam hiện nay song hành cùng các sự vô dạng chính trị của
các lãnh đạo ĐCSVN-Đảng cộng sản Việt Nam. Họ không có chiều cao trong
nhận định chính trị, không có chiều sâu trong phân tích chính trị, không có chiều
rộng trong xử lý chính trị, không có chiều dài trong dự phóng chính trị, cụ thể
là muốn làm chính trị phải có trình độ (cá nhân và tập thể) để
tạo được mức độ nhận thức các thử thách đang chực chờ Việt tộc.
Sự thật chính
trị: làm nên hành động
chính trị luôn có nền trên nhận thức về sự thật, sự thật về số phận
của một dân tộc trong quá khứ, sự thật về hiện tại của xã hội mà dân tộc đó
đang sống, sẽ làm nên tiền đề về sự thật trong tương lai của dân tộc này qua
các thế hệ sắp tới. Câu chuyện “có (sự) thực mới vực được đạo” ở
đây cao, sâu, xa, rộng hơn cách nói “có (lương) thực mới
vực được đạo”, vì sự thực bắt rễ trong thực tạicủa
cuộc sống, làm nên thực cảnh của một dân tộc, dựng nên thực
tế của đời sống xã hội. Chính định nghĩa về sự thật làm
nền cho mọi hành động chính trị, sẽ loại khỏi ra sinh hoạt chính trị ít nhất là
ba độc tố: thứ nhất là ý thức hệ không hề dựa vào sự thật; thứ nhì là tuyên
truyền độc tài không hề bám vào sự thật; thứ ba là tuyên giáo độc đảng thì bất
chấp sự thật.
Chúng ta hãy đi xa hơn nữa
trong định nghĩa về sự thật để tìm ra các định luận làm rễ cho
mọi hành động chính trị có thực chất của hệ lương (lương thiện, lương
tâm, lương tri) đi tìm hệ thức (kiến thức, tri thức,
trí thức, ý thức, nhận thức): không chỉ có một sự thật mà có nhiều sự thật,
sự thật của nghệ thuật không phải là sự thật của kinh tế, và sự thật của khoa học
không phải là sự thật của chính trị… Vậy thì, sự thật chính trị phải dựa trên một
định nghĩa: sự thật là quá trình của thực tế làm nên quy trình cho thực tại. Tại
đây, chính quá trình khi trở thành quy trình thì bản thân nó là kết quả của
một công trình,hay ngược lại là hậu quả của một tác
hại ngay trên dân tộc và đất nước mà chính quyền là thủ phạm.
Tại sao lại đặt vấn đề một công
trình của hành động chính trị? Tại sao lại dùng ngữ pháp công
trình? Ta hãy đi xa thêm nữa trong lý luận: hành động chính trị mang đến
kết quả tốt cho dân tộc, đưa đến hiệu quả hay cho nhân dân là một hành động đặc
thù của một cá nhân lãnh tụ, một tập thể lãnh đạo có tính nhân quả tích cực lâu
dài trong thời gian, rộng rãi trong không gian. Nó thay đời đổi kiếp cho
đồng bào, cho đồng loại theo hướng thăng hoa, nó sẽ mang giá trị phổ quát
cho nhân loại. Từ hành động đặc thù để có kết quả đặc trưng làm nên giá trị phổ
quát cho mai hậu, đây chính là định nghĩa để giải luận mọi hành động chính trị;
và “nói gần nói xa không qua nói (sự) thật” là cả thế kỷ XX
cho tới thế kỷ XXI, Việt tộc chưa thấy một hành động chính trị nào có bản lĩnh
là kết quả của một công trình đặc thù, có tầm
vóc làm nên giá trị phổ quát cho Việt tộc.
Hành tác
chính trị: là động tác đưa vào hành động chính trị vào không gian và thời gian của
sinh hoạt chính trị được điều hành bởi quyền lực chính trị (nắm chính
quyền, lập chính phủ, dựng chính sách), nơi mà hiệu
quả của hành tác chính trị được nhận định và đánh giá qua hiệu quả
chính trị khi một cá nhân lãnh tụ, hay một tập thể lãnh đạo có quyền lực
trong tay. Định nghĩa chính trị học này dùng quyền lực để nhận diện ra hành tác
chính trị thật ra chưa đủ và chưa đúng, vì sau kinh nghiệm dân chủ đa nguyên của
nhân loại trong hai thế kỷ qua, tại đây chính đa nguyên dựa
trên đa đảng liên tục sáng tạo ra đa trí, đa tài, đa
năng, đa hiệu… bó buộc chính giới và chính khách phải nới rộng ra định
nghĩa này.
Từ đây, định nghĩa về hành
tác chính trị phải được bổ sung thêm bởi hai định nghĩa khác: một
của triết học chính trị phân tích quyền lực chính trị qua
nguyên tắc của công bằng, nơi mà công bằng là chỗ dựa cho công
lý để điều chế mọi hành tác chính trị. Hai là xã hội học chính
trị, đặt tự do của hành tác chính trị vào nội hàm của công bằng, để tạo ra
hiệu quả, cụ thể là dùng công bằng để chế tác ra bác ái, trong
đó kẻ có quyền lực là kẻ thực sử dụng được bác ái để tạo đoàn kết,
để dựng tương trợ, đặt bác ái đúng nhân vị tức là
cùng hàng, cùng lứa, cùng đôi với công bằng và tự do để
bảo đảm một cặp đôi khác là: cộng hòa và dân chủ, trong đa
nguyên vì nhân quyền.
Trong lịch sử chính trị của
các quốc gia văn minh, có chính trị học để nhận định chính trường,
có triết học chính trị để phân tích bổn phận của chính giới,
có xã hội học chính trị để giải thích trách nhiệm của chính
khách thì lý luận về công bằng là nguồn cội của mọi lập luận về công
lý, cụ thể là không thể nào định nghĩa về công lý, mà không kèm
theo một định nghĩa có tính thuyết phục cao về công bằng. Đây
là một lỗi đã trở thành tội của các lãnh đạo
ĐCSVN, đã tạo ra bất bình đẳng qua đặc quyền và đặc lợi cho
đảng viên, từ cán bộ địa phương tới lãnh đạo trung ương, từ đó tạo ra bất công
sâu xa ngay trong xã hội. Các khẩu hiệu Đảng là đầy tớ của nhân dân chỉ
là loại xảo ngôn của gian dối để lừa đảo ở mức trắng trợn vì các khẩu lịnh này
rất thô bỉ với sự thực là ĐCSVN đã ngồi xổm lên tất cả! Từ hiến pháp tới tư
pháp, chà đạp công lý, vùi dập công pháp, chôn sống công luật.
Tự do chính
trị: là một phạm trù gây ngộ nhận nhiều nhất trong không gian chính trị, khi
ta nghiên cứu về chính trị, chính giới, chính khách khi
có chính quyền trong tay, vì bản thân sự hiểu biết chủ quan về tự
do là một con dao hai lưỡi; và các thể chế độc đảng, các chế độ độc
tài luôn dùng cách hiểu tự do chính trị tà đạo nhất để lập bạo
quyền: có chính quyền là có quyền lực, thì muốn làm gì thì làm!
Gây ra những hậu quả
không sao lường được, mà trên thượng nguồn là cách hiểu sai lệch về tự
do, vì phạm trù tự do là một phạm trù không có quy phạm, cụ thể
là không có mô thức tuyệt đối của đạo lý để kiểm soát nó, không có mô hình phổ
quát của luân lý để kềm chế nó. Nên trong không gian lãnh đạo chính trị dựa
trên đa nguyên của dân chủ thì tự do là nơi mà các quy luật khách quan phải
tuân theo các quy phạm cần thiết để quản lý tự do trong chính
trị bằng tri thức đúng về quyền lực, tức là phải tôn trọng công bằng, phải tôn
vinh công lý.
Trong không gian chính trị
này, ta phải phân biệt có nhiều không gian của tự do, các tự do này rất bất
bình đẳng trong sinh hoạt xã hội, thí dụ như trong các quốc gia dân chủ
giàu mạnh, nhưng trên thực tế không gian của một tỷ phú luôn rộng hơn không
gian của một công dân đang thất nghiệp.
Tại Việt Nam hiện nay, ta
thấy rõ qua bạo quyền độc đảng, tà quyền tham quan, ma quyền buôn đất thì tự do
của một tên đầu nậu đất đai đã chia chác với các nhóm lợi ích trong chính quyền
thì hoàn toàn rộng lớn và chúng “có tự do để giết tự do của dân chúng”, để
biến dân chúng thành dân oan. Như vậy, tự do phải
được nhận định và định nghĩa qua không gian cụ thể, nơi mà bọn bạo quyền, tham
quan, ma đất dùng các phương tiện của quyền lực sẵn có trong tay chúng để hủy,
diệt, loại, bỏtự do của dân oan, vừa không có quen biết trong quyền lực, vừa
không có các phương tiện pháp quyền để tự bảo vệ tự do của chính mình.
Tự do của một con cáo
đang lộng hành giết chóc các con cừu trong chuồng mà các nạn nhân không có lối
thoát, thì đây không phải là tự do mà là sát hại! Tự do của liên minh bạo
quyền lãnh đạo-tà quyền tham quan-ma quyền trọc phú khi chúng tự do
dùng phương châm ma đạo của chúng là: “có tiền mua tiên cũng được”, thì
đây không phải là tự do trong liêm sỉ mà là hành động âm binh sát hại đồng bào.
Hãy tỉnh táo để có sáng
suốt khi đi tìm định nghĩa về tự do, từ chính trị tới xã hội, từ kinh tế tới
văn hóa… khi ta đặt tự do trong quyền lực chính trị, của chính quyền độc đảng
trong thực trạng tự do cạnh tranh qua bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, ta sẽ thấy,
họ sẽ dùng tự do chính trị để tạo ra các bất công mới, mà ý đồ là để duy trì chế
độ độc đảng. Thí dụ quá trình hội nhập vào kinh tế thị trường khi cho phép các
doanh nghiệp ngoại quốc vào đầu tư tại Việt Nam với lực lượng lao động Việt dồi
dào nhưng lương bổng thấp, bảo hiểm xã hội tồi, an sinh xã hội kém, luôn đi
cùng với các chính sách xuất khẩu lao động, biến con dân Việt thành lao nô, nô
tỳ cho các nước láng giềng.
Chưa bao giờ trong xã hội
Việt lại có sự chênh lệch về bất bình đẳng cao một cách bất thường như hiện
nay, với các “đại gia”vỗ ngực là “tỷ phú” nhưng
tri thức chỉ là “trọc phú” có mức sống xa hoa trong sa đọa,
ngày ngày nhìn-mà-không-thấy nỗi khổ niềm đau của dân
oan, dân đen, đang dở chết dở sống để sinh nhai; sống mà không sao vượt qua
khó khăn với quá nhiều mức thuế trên lưng, trên vai, trên đầu, và cùng lúc thì
chính bọn bạo quyền, tham quan, ma đất… đã tránh được thuế qua tà đạo tham ô và
tham nhũng của chúng.
Tổ chức
chính trị: Qua đảng phái hoặc qua
cá nhân là một tổ chức mang theo hệ tự: lấy tự do làm
nên tự chủ, để tự quyết trong hành động mà tự
tin, nơi mà quyết đoán sẽ làm nên quyết sách, tạo ra chính sách qua
hành động chính trị khi có quyền lực trong tay, tất cả hành động này đều phải dựa
trên: công lý có nguồn cội là công bằng. Chính đây
là thảm kịch đôicủa Việt tộc, từ khi bị ĐCSVN cai trị.
Thảm kịch thứ nhất là
lãnh đạo ĐCSVN không hề tôn trọng sự thật đa chiều, đa dạng của truyền thống,
văn hóa, xã hội… của Việt tộc mà chỉ đi theo độc lộ đầy độc hại
của một ý thức hệ vô sản, có rễ là vô thần nên vô
tri ngay trong hệ độc (độc đảng, độc tôn, độc trị, độc quyền,
độc tài). ĐCSVN không hề chú trọng việc xây dựng thêm bịnh viện, thêm
trường học nơi mà y tế và giáo dục là hằng số của mọi chính quyền liêm chính;
mà ngược lại họ tập trung xây dựng bộ máy tà quyền công an dựa trên bạo quyền độc
đảng, cùng lúc thần thánh hóa các lãnh đạo của họ đã lừa đảo dân tộc bằng ma
quyền, giờ lại được có các tượng đài nghìn tỷ, trong một xã hội ngày càng nhiều dân
oan, ngày càng lắm dân đen.
Thảm kịch thứ nhì, vì
không biết về sự thật đa chiều, đa dạng của của Việt tộc, nên ĐCSVN đã lầm đường
lạc lối khi tổ chức tuyền truyền một chiều kiểu tẩy não, nhồi sọ, gạt đi các
giá trị đạo đức của tổ tiên, các đạo lý của dân tộc. Không là chủ thể chính trị
để sáng tạo trong lãnh đạo, ĐCSVN không hề quản lý để phát triển, mà chỉ cai trị
bằng bạo quyền độc đảng để bảo về đặc quyền, đăc lợi, đặc ân của nó, sai lầm
này là chỉ báo rõ nhất về ngày tàn không tránh khỏi của ĐCSVN.
Hai sai lầm trên đã tạo
ra bao thảm kịch nghèo nàn lạc hậu trên lưng, trên vai, trên đầu của Việt tộc.
Muốn thoát khỏi hai sai lầm trên, thì lối ra lâu dài là đưa hệ đa vào
sinh hoạt chính trị, lấy đa đảng để có đa trí trong
xây dựng lại xã hội, lấy đa tàilàm nên đa năng, tạo
ra đa hiệu từ chính trị tới kinh tế, từ giáo dục tới văn hóa…
Và trước mắt là phải trở lại nhận thức về sự thật đa chiều, đa
dạng của không gian chính trị, từ đó có hành động chính trị dựa trên công
bằng, để có tổ chức chính trị dựa trên công lý!
--------------------------
GS
Lê Hữu Khóa
19-3-2019
ĐỊNH ĐỀ: có độc
đảng thì không có chính trị, có độc tài thì không có chính giới, có độc trị thì
không có chính trường, có độc tôn thì không có chính kiến.
*
Uy lực chính
trị: không nằm trong bạo quyền
lãnh đạo, không ở trong tà quyền tham quan, trong ma quyền mafia đang thao túng
quyền lực độc đảng như hiện nay, mà nó là uy lực tới từ tiềm
lực của lãnh đạo chính trị văn-minh-vì-thông-minh, luôn biết
củng cố sung lực tự trị của xã hội, để tạo
ra sinh lực cho xã hội dân sự giúp chính quyền nhận ra điều
hay lẽ phải, để tránh chuyện lầm đường lạc lối trong chính
sách.
Uy lực chính trị của một
chính quyền tạo ra hùng lực cho công bằng luôn có mặt, luôn được
bảo vệ, ai cũng như ai, không có kỳ thị, không có phân biệt đối xử, để
chính công bằng chế tác được tự do, nơi mà mọi công
dân được quyền thành công như nhau trong xã hội, từ học đường tới nghề nghiệp,
từ kinh tế tới văn hóa.
Nếu cái uy làm
ra cái lực, vì cái uy tới từ cái
thiện của công bằng, cái đúng của công lý, và cái
uy chỉ tồn tại khi nó tạo được cái ơn qua hành động
chính trị, khi mà kẻ mang ơn thấy mình được thăng hoa ngay trong nhân vị công
dân của mình: thành công trong học đường, thành tài trong nghề nghiệp, thành đạt
trong kinh tế, thành tựu trong xã hội. Điều này, hoàn toàn ngược lại với lối
tuyên truyền vô minh của ĐCSVN đang bóc lột dân tộc tới tận xương tủy, với bao
triệu dân đen, với bao triệu dân oan, nhưng cùng lúc lại
tuyên truyền là “nhân dân phải mang ơn Đảng”.
Với cách giải thích bất
chính trong ngây ngô tại sao dân tộc phải mang ơn một đảng độc tài nhưng
bất tài, gây bao hậu quả từ tiêu xài đến cạn kiệt tài nguyên của đất nước,
tới đưa ngoại xâm qua con đường công nghiệp gây ô nhiễm môi trường của đất nước,
từ luyện thép kiểu Formosa tới các nhà máy than điện trên khắp các vùng miền,
đang tạo ra các làng ung thư, song đôi cùng mưu đồ thâm hiểm qua đường thực phẩm
bẩn độc của Tàu tặc.
Cái uy trong quyền lực chính trị tới từ cái thiện của
công bằng, cái đúng của công lý, nó hoàn toàn trái ngược với cái bạo của quyền, cái tà của quan,
nơi mà bạo quyền và tham quan dựa trên bạo lực để vơ vét qua cách hành xử của
ĐCSVN đối với dân tộc hiện nay. Ở đây không có một cái uy nào
cả, mà chỉ là hành vi hiếp, giành, trấn, lột tạo tiền đề cho
hành động trộm, cắp, cướp, giật, chính loại hành vi này, chính kiểu
hành động đang nạo rỗng cái uy của bè đảng cầm quyền, nơi
mà cái uyđang bị xiết cổ bởi cái gian và cái
giật.
Công lý
chính trị dựa trên công bằng, được lãnh đạo chính trị tôn trọng trong
mọi hành động chính trị, và chính các lãnh đạo này phải luôn liêm chính trong
nghiêm minh để nhận ra là công lý chính trị luôn song hành
cùng công bằng xã hội. Tại đây, công lý là hệ mở nó
chống bế môn tỏa cảng, nó chống ngăn sông cấm chợ, ranh
giới giữa quốc nội và quốc ngoại không còn là rào cản, mà phải là một luồng
thông lưu năng động.
Khi láng giềng có công lý
chính trị hay, đẹp, tốt, lành hơn ta thì ta phải học, phải
theo để làm tốt hơn, để ứng dụng hiệu quả vào xã hội của ta; còn ngược lại, nếu
chính quyền dùng luật để cấm, ngăn, chặn, phạt là bất minh.
Thí dụ rõ nhất là truyền thông mạng xã hội chính là lõi của công lý truyền
thông, và khi ĐCSVN ra luật an ninh mạng để răn, đe,
doạ, nạt dân chúng thì đây là một hành động chính trị bất chính, vì nó
không tôn trọng công lý trong thông tin và truyền thông.
Công bằng xã hội phải là nguyên tắc trung tâm cho mọi hành động vì công lý
chính trị, cụ thể là không dùng quan niệm công bằng xã hội để
tạo ra phân biệt đối xử, với lý do là vì muốn bảo vệ công bằng trong xã hội của
mình, nên đặt các luật đẩy người ngoại quốc, di dân, nhập cư xuống thấp hơn dân
mình, không được có các quyền lợi của dân bản xứ.
Chính sự phân biệt đối xử công
dân hàng đầu-di dân hàng sauđang tạo ra bất bình đẳng xã hội mà hậu quả xấu
sẽ tới qua xung đột xã hội. Đây chính là bi kịch hiện nay của các dân tộc ít
người vùng sâu, vùng xa, vì không phải là dân tộc kinh nên phải nhận lãnh những
bất công không sao lường hết, tạo nên nghèo nàn lạc hậu.
Và, bi kịch này
sẽ là thảm kịch dẫn tới các xung đột giữa các dân tộc ít người
và dân tộc Kinh, khi hệ thống bạo quyền trung ương qua các nhóm lợi ích đã
thông đồng với các tà quyền tham quan địa phương, cùng tổ chức cho bọn ma quyền
lâm tặc chặt cây, phá đồi để buôn gỗ, bán rừng, hủy môi trường, diệt môi sinh của
các dân tộc anh em của các vùng xa, vùng sâu. Một chính quyền có nhận thức về công
lý chính trị bằng hệ lương (lương thiện trong
hành động vì có lương tâm trong lãnh đạo làm nên lương
tri cho chính sách) thì không bao giờ hành xử như ĐCSVN hiện nay.
Công lợi
chính trị là phạm trù của quyền lực chính trị quản lý công sản của
quốc gia, tài sản của dân tộc, và luôn đặt công sản và tài sản
này lên trên mọi tư lợi của giai cấp, nhất là giai cấp thống trị. Vì khi đặt
quyền lợi của giai cấp thống trị lên trên quyền lợi của quốc gia và dân tộc thì
sẽ trực tiếp tạo ra bất bình đẳng, tức khắc tạo ra bất công. Chính bất bình đẳng
và bất công là gốc rễ cội nguồn của mọi xung đột xã hội, dẫn tới bạo động ngay
trong xã hội. Đây lại là thảm họa mà ĐCSVN đang trấn, áp, đè, đặt lên
vai, lên lưng, lên đầu Việt tộc khi độc đảng được độc
quyền qua đặc lợi; khi độc tài dùng độc
trị để có đặc ân, của một thiểu số bất chính dẫm lên mọi ý
thức về công sản quốc gia.
Sự bất chính này sẽ nhân
đôi khi bạo quyền lãnh đạo, tà quyền tham quan, ma quyền sân
sau dùng hệ tham (tham quyền, tham ô, tham nhũng) để
làm giàu, đã giàu rồi lại muốn giàu hơn, đã có nhiều rồi lại muốn có nhiều hơn.
Và cuối cùng, khi đã có đặc quyền, đặc ân, đặc lợi thì sự bất
chính sẽ tăng lên gấp ba, rồi gấp bội, vì tà quyền
này sẽ bám cho bằng được qua hệ độc (độc đảng, độc tài, độc trị, độc
tôn) để có độc quyền mà trục lợi cho tư
lợi, chúng chặn các tiến bộ xã hội, chúng ngăn thăng tiến giáo dục, chúng
nghiền cấp tiến kinh tế, để lấp công bằng, để vùi công lý.
Bi kịch của bọn bám quyền
chỉ vì tư lợi ích kỷ mà không có một nhận thức nào về công sản chính trị chính
là thảm kịch của Việt tộc hiện nay, với ĐCSVN lãnh đạo đã nạo bán tài nguyên đất
nước để bỏ túi bằng con đường tham nhũng, rồi chuồn tẩu tiền của có được từ
tham ô của chúng qua phương Tây. Chính tư lợi qua tham nhũng với não trạng ích
kỷ vô luân, ẩn sâu trong lòng tham không đáy, nên chúng mới tổ chức
các đường dây xuất khẩu lao động để đàn ông Việt làm lao nô, phụ nữ Việt làm tiện
tỳ cho các quốc gia láng giềng. Sự bất chính này sẽ không có giới hạn khi tư
lợi chỉ thấy độc lợi trong độc đạo của nó, và chúng sẵn sàng đi từ phản
dân hại nước tới buôn dân bán nước cho Tàu tặc!
Đạo lý chính
trị là hành trình của chính giới và chính kháchdùng chính
quyền để thực thi các chính sách, để đi tìm các điều hay,
đẹp, tốt, lành cho quốc gia, cùng lúc bảo vệ văn hóa, bảo đảm văn
minh, bảo tồn văn hiến cho dân tộc. Trên con đường đạo lý chính trị này,
lịch sử chính trị thế giới vạch rõ cho ta một chân lý là chính quyền trong các
thể chế độc tài qua độc đảng là chính quyền của giai cấp thống trị, nhưng thực
chất là của các nhóm lợi ích chóp bu có tổ chức như những tập đoàn tội phạm kiểu
mafia, tức là khi chúng không lấy, giành, đoạt, chiếm được thì
chúng sẽ trộm, cắp, cướp, giật.
Loại chính quyền này hoàn
toàn khác với chính quyền của đa số quần chúng qua đầu phiếu trong các cơ chế
dân chủ, lấy cải tổ xã hội thay cách mạng sắc máu, lấy cải
cách xã hội để xóa đói giảm nghèo, qua các chính sách lấy công bằng của
công pháp để giới hạn bất bình đẳng trong xã hội; lấy công lý qua công luật để
ngăn chặn bất công trong xã hội.
Nhân loại cũng đã đi và
đã có kinh nghiệm qua các con đường từ tập thể hóa tới quốc
hữu hóa các phương tiện sản suất để giới hạn, để ngăn chặn chuyện người
bóc lột người, để ngăn bất bình đẳng, để chặn bất công. Nhưng con đường này có
giới hạn của nó, mà hiện nay các quốc gia càng dân chủ, các dân tộc càng văn
minh thì phải tìm thêm các con đường mới, nơi mà nhân vị được bảo đảm bởi nhân
quyền trong công bằng và tự do, mà không quên bác ái.
Đạo lý chính trị còn phải đi xa hơn nữa trong vai trò trọng tài để cai quản và
canh giữ chính quyền! Tại sao vậy? Vì từ triết học chính trị tới chính
trị học, từ xã hội học chính trị tới nhân học
chính trị, tất cả các chuyên ngành này đều công nhận một chân lý là khi một
cá nhân, một tập thể, một đảng phái: có quyền rồi thì sẽ lạm
quyền. Sự thật chính trị nắm quyền rồi lạm quyền, chân
lý chính trị lạm quyền vì tham quyền tạo ra ung thư chính trị
qua phương trình có quyền–lạm quyền-nắm quyền-tham quyền.
Loại hoạn bịnh chính trị
này bất chấp lẽ phải của luân lý chính trị, bất kể đạo đức chính trị làm nên
nhân đức của một chính thể, vì vậy nên đạo lý chính trị phải bảo
đảm hằng ngày vai trò trọng tài để cai quản và canh giữ chính quyền. Vì mọi
công dân liêm chính đều có quyền nghi ngờ và nghi ngại loại hoạn bịnh chính trị: có
quyền–lạm quyền-nắm quyền-tham quyền này!
Rất nhiều lãnh đạo của
ĐCSVN hiện nay không biết những lời trăn trối trong hối lỗi của hai lãnh tụ cộng
sản hàng đầu của họ, thứ nhất là Lénin trối trăn rằng: “khi lấy độc đảng để
bảo vệ chuyên chính, thì bi kịch đã xẩy ra là chuyên chính đã sinh ra độc tài
cá nhân!”. Và kẻ thứ hai là Mao Trạch Đông, trong những ngày cuối của
cõi lâm chung, khi đàn em quây quần chung quanh hỏi lão ta: “Chúng ta đấu
tranh chống tư sản trong xã hội, vậy chúng đang ở đâu?” Mao trả lời:
“Chúng đang ở ngay trong đảng ta!”.
Kết luận: Tại sao khi tôi là công dân mà lại đặt câu hỏi
này: chính trị là gì? Tôi đặt câu hỏi này nhưng chính tôi phải
tự tìm câu trả lời: Tôi đặt câu hỏi này tại vì tôi không muốn bị lừa bởi
chính trị!
___
Lê Hữu Khóa: Giáo sư Đại học Lille* Giám đốc
Anthropol-Asie*Chủ tịch nhóm Nghiên cứu Nhập cư Đông Nam Á* Cố vấn Chương trình
chống Kỳ thị của UNESCO – Liên Hiệp Quốc * Cố vấn Trung tâm quốc tế giáo khoa
Paris.*Thành viên hội đồng khoa học Viện nghiên cứu Đông Nam Á* Hội viên danh dự
nhóm Thuyết khác biệt, Học viện nghiên cứu thế giới.
Các bài của giáo sư LÊ HỮU
KHOÁ trên Tiếng Dân đã được ANTHRPOL-ASIE xuất bản và các bạn đọc có thể chuyển
tải trực tiếp hai tác phẩm Trực
Luận (l’argumentation directe), Xã Luận (l’argumentation sociétale), qua
Facebook Vùng
Khả Luận (trang thầy Khóa).
Mời đọc lại các bài cùng
tác giả tại
đây.
No comments:
Post a Comment