Nguyễn Trọng Dân lược
dịch
03/03/2019
Lời người lược dịch: MacConaghy là Trung úy Tình-báo Hải-quân làm việc ngay tại văn phòng bộ
Tư-lệnh Hải quân trực thuộc bộ Quốc Phòng (QP) của Hoa Kỳ. Dù rằng bộ QP và Hải-quân
Hoa Kỳ khẳng định bài viết chỉ thể hiện quan điểm riêng của vị sĩ quan tình báo
này, nhưng trên thực tế, bài viết này lại tóm lược một cách khái quát nhưng rõ
ràng toàn bộ những chính sách về biển Đông mà Hải Quân và bộ QP Hoa Kỳ sẽ tiến
hành về sau này. Mọi người phải ngầm hiểu vị sĩ quan trẻ này đang giữ trọng
trách mà mọi bài viết của ông về chiến lược quân sự trước khi được cho đăng
trên các tạp chí điều phải có sự đồng ý của thượng cấp để đảm bảo tin tức tối mật
không bị tiết lộ vì sơ ý hay cố tình.
Thông qua bài viết này của Trung úy MacConaghy,
chúng ta sẽ thấy được quyết tâm của Hoa Kỳ trang bị hỏa tiển cho các nước trong
vùng để khống chế sức mạnh Hải quân của Trung cộng. Đương nhiên, hơn phân nữa số
hỏa tiển của Hoa Kỳ trang bị trong vùng ở tương lai sẽ nằm tại Việt Nam vì vị
thế thuận tiện của Việt Nam trong việc bảo vệ quần đảo Trường Sa. Vì vậy, bài dịch
này chính là bài thứ nhì nối tiếp bài viết “Bàn
sơ lược về viễn cảnh Hoa Kỳ đặt hỏa tiễn tại Việt Nam” được Đàn Chim Việt
cho đăng trước đây.
Và cũng vì những dự tính quân sự của Hoa Kỳ sắp tới
đây tại biển Đông mà tình hình chính trị Việt Nam, nội bộ nhân sự của Cộng sản
Việt Nam sẽ có những biến động rất bất ngờ.
Cũng từ những chính sách quân sự của Hoa Kỳ, chúng
ta sẽ thấy rõ liên minh quân sự Việt cộng – Hoa Kỳ sẽ được hình thành và Hoa Kỳ
sẽ tập trung toàn lực bảo vệ miền Nam Việt Nam khỏi hỏa lực của Trung cộng khi
cần thiết.
Hiện Hoa Kỳ đã hiện diện quân sự tại miền Nam Việt
Nam bán chính thức nhưng thường trực ở Đà Nẵng, Cam Ranh và Biên Hòa .
Ẩn số của chính sách quân sự này là số phận của miền Bắc sẽ ra sao? Bầu trời miền Bắc sẽ gánh chịu hỏa lực kinh khiếp của Trung cộng khi chiến tranh xảy ra nếu Hoa Kỳ không chịu hiện diện quân sự tại miền Bắc thường trực như đang hiện diện tại miền Nam Việt Nam.
Ẩn số của chính sách quân sự này là số phận của miền Bắc sẽ ra sao? Bầu trời miền Bắc sẽ gánh chịu hỏa lực kinh khiếp của Trung cộng khi chiến tranh xảy ra nếu Hoa Kỳ không chịu hiện diện quân sự tại miền Bắc thường trực như đang hiện diện tại miền Nam Việt Nam.
Từng bước từng bước, chúng tôi sẽ cố gắng giải bày
nhiều bí ẩn về nền chính trị Việt Nam, nhiều bí ẩn về các chính sách của Hoa Kỳ
để mọi người thấy rõ, sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa là tất yếu. Tuy nhiên,
người dân miền Bắc muốn thoát nạn hứng chịu hỏa lực của Trung cộng thì phải
nhanh chóng đấu tranh để dựng lại Việt Nam Cộng Hòa cùng với người dân miền
Nam, buộc Hoa Kỳ phải ra tay bảo vệ toàn bộ lãnh thổ Việt Nam thoát khỏi hỏa lực
kinh khiếp của Trung cộng, không chỉ ở miền Nam mà cả luôn miền Bắc!
*******
180726-N-MT837-2086
PACIFIC OCEAN (July 26, 2018) Navy ships assemble to form a multinational fleet
for a photo exercise off the coast of Hawaii during the Rim of Pacific (RIMPAC)
exercise July 26. Twenty-six nations, more than 45 ships and submarines, about
200 aircraft and 25,000 personnel are participating in RIMPAC from June 27 to
Aug. 2 in and around the Hawaiian Islands and Southern California. The world’s
largest international maritime exercise, RIMPAC provides a unique training
opportunity while fostering and sustaining cooperative relationships between
participants critical to ensuring the safety of sea-lanes and security on the
world’s oceans. RIMPAC 2018 is the 26th exercise in the series that began in
1971. (U.S. Navy photo by Mass Communication Specialist 3rd Class Dylan M.
Kinee/Released)
Chiến lược của Hoa Kỳ ở
Biển Đông đang thất bại. Chính sách ươn hèn và không cương quyết đã cho phép Bắc
Kinh kiểm soát gần như hoàn toàn khu vực Biển Đông mà không cần tốn một viên đạn.
Khi Trung cộng nạo vét cát từ đại dương và tuyên bố chủ quyền 3200 héc-ta lãnh
hải, Hoa Kỳ đã đưa ra những tuyên bố rụt rè. Khi Bắc Kinh biến các đảo san hô
thành các tiền đồn quân sự hoàn chỉnh với đường băng, giao thông hào và hầm trú
ẩn tên lửa, Hải quân Hoa Kỳ chỉ cho tiến hành các Hoạt động Tự do Hàng hải
(FONOPs) rời rạc với một vài tàu chiến đến gần nơi này. Khi Trung cộng triển
khai các thiết bị gây nhiễu điện tử, hỏa tiển đất đối không và chống hạm, Hoa Kỳ
chỉ trừng phạt bằng cách loại bỏ chế độ cộng sản này ra khỏi cuộc tập trận Hải
quân Hổn hợp (RIMPAC 2018) . Những hành động mang tính biểu tượng hình thức của
Hoa Thịnh Đốn đã không làm được gì để ngăn chặn sự bành trướng của Bắc Kinh.
Hoa Kỳ và quân đội của
chúng ta đã tìm đủ cách né tranh đối mặt (với Trung cộng)! (1)
Trong khi Quốc Hội đã
tăng ngân sách để đóng tàu chiến mới hiện đại, cho chế nhiều vũ khí mới và tăng
quân số Hải quân, chiến lược
của chúng ta vẫn hèn nhát không thay đổi! Mặc dù quân đội bây giờ có nhiều
ngân sách hơn, nhưng quân đội này vẫn để cho Trung cộng với lực lượng Hải quân
chưa từng trải qua trận mạc ngày nào ngang dọc khắp Biển Đông như chổ không người.
Đô đốc Davidson, chỉ huy của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương, tuyên bố hồi
tháng Tư, Trung cộng hiện có khả năng kiểm soát Biển Đông, đối đầu chiến tranh
với Hoa Kỳ ở mọi tình huống. Trong khi lời tuyên bố này là một thực tiển đáng
buồn trước các cuộc chạm trán giữa các tàu tuần tra, thì hiện nay lại đang dấy
lên nghi ngờ rằng Hoa Kỳ không thể thắng trong một cuộc xung đột lớn ở Biển
Đông.
Thay vì tiếp tục nhịn nhục,
Hải quân (Hoa Kỳ) nên gia tăng nỗ lực làm cho việc bành trướng của Trung cộng
thêm khó khăn bằng cách quay lại chiến thuật đã được chứng minh là hữu hiệu
trong trận chiến nhiều thập niên trước: treo cờ Mỹ trên các tàu buôn nước ngoài,
cung cấp hộ tống đoàn tàu, mở rộng vùng đảo kiểm soát của đồng minh và triển
khai hỏa tiển không đối không, và không đối hải thường trực tới các tiền đồn tại
địa phương của các nước trong vùng. Chúng ta cần phải theo đuổi các chiến lược
đột phá để hỗ trợ cho đồng minh và khiến cho Trung Cộng chùn bước.
Biển Đông không chỉ là một
hành lang kinh tế thiết yếu mà còn là một chiến trường quân sự quan trọng.
Gần hai phần ba tổng số
thương mại chuyên chở hàng hải toàn cầu 3,37 ngàn tỷ Mỹ kim qua vùng biển này.
Mười hai phần trăm sản lượng thủy sản trên thế giới là đánh cá được từ vùng biển
này. Năm quốc gia khác, Việt Nam, Malaysia, Đài Loan, Brunei và Philippines
cũng tuyên bố chủ quyền một số hay toàn bộ quần đảo Trường Sa tại vùng biển
này, nhưng không có quốc gia nào có thể đủ sức ngăn cản Trung cộng. Trong năm năm qua, Trung cộng đã
biến những nơi mà lúc đầu chỉ là những đảo san hô chài lưới nhỏ xíu, thành căn
cứ Hải quân quân sự kiên cố. Những căn cứ này là biểu hiện cụ thể sức mạnh bành
trướng của Trung cộng. Việc quân sự hóa các đảo này đã giúp cho Bắc Kinh
có bàn đạp để từ đó mà mở rộng phạm vi kiểm soát của mình ra Ấn Độ Dương và tây
Thái Bình Dương. Nếu Hoa Kỳ không đẩy lùi Trung cộng ngay bây giờ tại Biển
Đông, thì trong mười năm nữa, các tàu ngầm Trung cộng sẽ tuần tra ra bên ngoài
vùng biển San Diego (thuộc tiểu bang California, Hoa Kỳ), và các hàng không mẫu
hạm của Trung cộng sẽ cho bay các chiến đấu cơ ở bờ biển Honolulu (thuộc tiểu
bang Hawaii, Hoa Kỳ). Kiểm soát Biển Đông là chìa khóa cốt lõi để duy trì vị thế
siêu cường của chúng ta (Hoa Kỳ) ở phía tây Thái Bình Dương cũng như là trên
toàn cõi Châu Á. Chỉ có cách đối đầu dứt khoát với
Trung cộng, giúp các đồng minh khẳng định
chủ quyền lãnh hải và đặt Hoa Kỳ vào vị thế sẵn sàng giúp đồng minh bảo vệ lãnh
thổ mới có thể ngăn chặn nổi mộng và sức mạnh bành trướng của Trung cộng.
Vào năm 2016, toà án biển
đảo quốc tế PCA đã ra phán quyết Trung cộng không có chủ quyền tại các đảo thuộc
chủ quyền của Phi. Tuy nhiên, Rodrigo Duterte, người được đắc cử Tổng thống, đã
buộc phải bỏ qua phán quyết của tòa án trước sự đe dọa quân sự trực tiếp của
Trung cộng và đổi lại, chấp nhận những lời hứa hẹn đầu tư kinh tế của Bắc Kinh.
Kể từ đó, Tổng thống Duterte đã hợp tác với họ Tập và công kích Hoa Kỳ công
khai. Trong nỗ lực thu hút đầu tư từ Trung cộng, Duterte còn đang tính đến việc
củng Bắc Kinh liên doanh khai thác trữ lượng khí đốt trong vùng biển tranh chấp.
So với Phi, Việt Nam có
quân đội mạnh hơn nhiều, nhưng cũng phải oằn mình quy phục sức ép quân sự của
Trung cộng.
Ba lần trong bốn năm qua,
Trung cộng đã ra mặt hăm dọa sẽ tấn công thẳng vào các đảo của Việt Nam.
Vào tháng 5 năm 2014,
Trung cộng đã cho đông đảo các tàu đánh cá dàn ra làm lực lượng bảo vệ xung
quanh một tàu thăm dò dầu khí của Trung Quốc trong vùng đặc quyền kinh tế Việt
Nam (EEZ) gần quần đảo Hoàng Sa.
Khi Hà Nội cố gắng khẳng
định chủ quyền của mình, một báo cáo của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã ghi nhận, tàu
bán quân sự Trung cộng đã đâm và sử dụng vòi rồng để răn đe tàu chiến Việt Nam.
Năm 2017, Trung cộng một
lần nữa sử dụng lực lượng tàu đánh cá này để gây áp lực buộc Việt Nam từ bỏ hoạt
động khai thác dầu gần quần đảo Trường Sa.
Không những vậy, lần này,
Trung cộng còn đe dọa mạnh tay hơn. Theo BBC, các quan chức Việt Nam nói với
công ty khoan dầu rằng Trung cộng ra mặt đe dọa tấn công thẳng vào các căn cứ của
Việt Nam tại quần đảo Trường Sa nếu việc khai thác không dừng lại.
Hà Nội phải cúi đầu nhịn
nhục, và một dự án khai thác khác đã bị hủy bỏ vào tháng Ba. Lần này, Bắc Kinh
không thèm đe dọa lòng vòng trong lời nói. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Bộ
trưởng bộ Quốc phòng, đại tướng Ngô Xuân Lịch, khẳng định kế hoạch khai thác phải
hủy bỏ để tránh chiến tranh toàn diện với Trung cộng.
Hoa Kỳ có thể và cần nên
can dự nhiều hơn nữa.
Hoa Kỳ đã có tiền lệ bảo
vệ các quốc gia nhỏ yếu khỏi bị bắt nạt bởi các quốc gia lớn trong tranh chấp
hàng hải.
Năm 1987, trong sự kiện
“Chiến tranh Tàu Chở Dầu”, để bảo vệ tàu các nước trong vùng khỏi các cuộc tấn
công của Iran, chính quyền Reagan đã cho treo cờ Mỹ lên 11 tàu chở dầu Ku-wai
và sử dụng đủ loại tàu chiến từ tàu khu trục, tàu tuần dương để hộ tống tất cả
mọi tàu bè khi đi ngang Vịnh Ả Rập. Hải quân Hoa Kỳ nên tiếp tục vai trò của
mình giống như 30 năm trước. Treo cờ Mỹ lên các giàn khoan thăm dò và sử dụng
tàu tuần dương và tàu khu trục để bảo vệ.
Phải buộc Trung cộng đối
đầu với tàu chiến 10.000 tấn của chúng ta, chứ không phải đối đầu với tàu tuần
tra của Việt Nam chỉ có 500 tấn mà thôi.
Treo cờ Mỹ lên các tàu ,
các dàn khoan và dùng Hải quân hộ tống các tàu qua lại thành công vào năm 1987
thì cũng sẽ thành công năm 2018 . Các cuộc tấn công của Iran chống lại tàu ở Vịnh
Ả Rập đã giảm từ 89 vụ năm 1987 xuống còn 3 vụ vào năm 1988. Trong cùng thời
gian, các cuộc tấn công chống lại tàu Kuwait đã từ 4 vụ năm 1987 trở thành
không vụ nào vào năm 1988. Can thiệp của Hoa Kỳ đã giúp đồng minh đoàn kết lại,
tạo ra một quyết tâm góp sức chung vai từ khắp các quốc gia Tây Âu và các quốc
gia trong vùng Vịnh.
Tình hình ở Biển Đông
không thảm khốc như ở vùng Vịnh, không có sinh mạng nào bị mất gần đây trong cuộc
tranh chấp quần đảo Trường Sa, nhưng bản chất vấn đề đều giống nhau. Chính quyền
Reagan từ chối nhường lại lợi thế chiến lược cho Iran. Chính quyền Trump phải
có những hành động táo bạo tương tự mà Hoa Kỳ đã thực hiện 30 năm về trước. Giống
như quyết định của Reagan, đã buộc Iran từ bỏ các cuộc tấn công vào các tàu
Kuwait, một chiến lược táo bạo treo cờ Mỹ cho các tàu qua lại trong vùng và duy
trì sự hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ sẽ khiến Bắc Kinh từ bỏ chiến thuật khống chế
vùng biển này.
Bên cạnh việc bảo vệ các
giàn khoan, Việt Nam, Malaysia và Philippines cũng cần trợ lực để xây dựng cơ sở
hạ tầng quân sự cần thiết với các đồn bót, đường băng và mạng lưới thông tin
liên lạc để chống đỡ. Trong số các đối thủ của Trung cộng tại Trường Sa, Việt
Nam là quốc gia đã cũng cố hệ thống phòng thủ của mình nhanh nhất. Kể từ năm
2014, Việt Nam đã thu hồi khoảng 120 mẫu Anh trên 10 đảo nhỏ, mở rộng đường
băng và thêm hệ thống radar để có thể duy trì quan sát vùng biển. Tuy nhiên, những
nỗ lực này của Việt Nam cũng không thể cản ngăn được Trung cộng. Hoa Kỳ có thể
cần cung cấp hỗ trợ hậu cần và hỗ trợ tài chính cho tất cả các đối tác của mình
trong vùng như Việt Nam, Malaysia và Philippines có thể cũng cố đảo và thiết lập
tiền đồn thể bảo vệ lãnh thổ.
Việc mở rộng cũng cố
phòng thủ các đảo tuy sẽ giúp ích, nhưng Hoa Kỳ cũng nên thực hiện bước thứ
hai, đó là triển khai ráp đặt các dàn hỏa tiển đất đối không và chống hạm cho
các đồng minh của mình trong vùng (3). Việc bố trí các hệ thống hỏa tiễn
này sẽ khiến tàu chiến và máy bay chiến đấu của Trung cộng bị đe dọa trực tiếp,
giống như các hệ thống hỏa tiển của Bắc Kinh đặ trên các Rạn san hô Mischief,
Subi và Fiery đang de dọa chúng ta (Hoa Kỳ).
Quân đội chúng ta (Hoa Kỳ)
có hệ thống hỏa tiển đất đối không, Patriot, nhưng lại chưa được trang bị hỏa
tiển phòng thủ bờ biển địa đối hải (CDCM). Đây là một điểm yếu chết người. Hoa
Kỳ cần trang bị các hệ thống hỏa tiển địa đối hải CDCM này để chống sức mạnh Hải
quân Trung cộng thêm hiệu quả vì hệ thống hỏa tiển này sẽ tiêu diệt mọi tàu bè
trong tầm ngắm từ đất liền. Cuộc thử nghiệm gần đây của Bộ binh về hỏa tiển địa
đối hải từ phía sau xe tải trong cuộc tập trận RIMPAC là bước tiến đầu tiên
quan trọng, nhưng nay, Bộ binh cần phải được trang bị loại hỏa tiển này. Trong
Thế chiến II, Bộ binh là lực lượng trong các chiến dịch đổ bộ nhảy đảo của Hoa
Kỳ tại Thái Bình Dương. Bảy mươi lăm năm sau, Hoa Kỳ có nguy cơ bước vào một cuộc
chiến địa hải nhảy đảo như trước đó mà không có sức mạnh hỏa lực từ đất liền
tung ra biển. Bằng cách tiến hành triển khai thường trực các hệ thống hỏa tiển
Patriot và các hệ thống hỏa tiển địa đối hải CDCM (hiện chưa được trang bị),
Hoa Kỳ sẽ thể hiện quyết tâm của mình đối với khu vực và cũng cố vị thế lãnh đạo
trong việc bảo vệ lãnh thổ các nước đồng minh trong vùng.
Một số nhà phê bình có thể
sẽ cho rằng lựa chọn đáp trả cứng rắn quá rủi ro và có thể leo thang thành một
cuộc xung đột lớn nhanh chóng. Tuy nhiên ngược lại, thái độ đáp trả cứng rắn
ngay từ đầu sẽ khiến tình hình trở nên ổn định hơn, tạo ra một lực lượng liên
minh Hải quân đông đảo và đoàn kết!
Hiện nay, tương tự như Lực
lượng đặc nhiệm kết hợp 150 (CTF-150) ở Vịnh Aden, lực lượng đặc nhiệm Thái
Bình Dương sẽ đảm bảo an toàn cho hải lộ Ấn Độ-Thái Bình Dương.
Nhưng chắc chắn, dự tính
chiến lược này sẽ thất bại vì hai lý do. Trước hết, Hải quân Hoa Kỳ vì chiến lược
này mà bị dàn trải quá mỏng trong thời gian dài. Lực lượng này có thể thực hiện
các nỗ lực tập trung như tập trận MALABAR (một cuộc tập trận chung ở Biển
Philippines trong một tháng) hoặc cung cấp hộ tống cho các tàu khoan, nhưng lại
không thể tuần tra vùng biển trong thời gian dài. Chúng ta cần rất nhiều các
tàu khu trục điều phối bảo vệ cho các nhóm hàng không mẫu hạm tiên phuông tấn
công hoặc phải đảm trách nhiệm vụ phòng thủ chống lại hỏa tiển điều khiển từ
xa. Điều này dẫn đến không có đủ tàu để hiện diện ở Thái Bình Dương một cách
thường trực. Kế đến và quan trọng hơn, ngay cả khi Hải quân điều tàu chiến cho
nổ lực tuần tiễu bảo vệ tư do hàng hải, tiến sát đến các đảo nhân tạo cũng chẳng
sẽ làm Trung cộng chùn bước. Cũng giống như cách Bắc Kinh phớt lờ áp lực của
chúng ta từ chiến lược FONOP của Hoa Kỳ, họ sẽ lì đòn coi các vụ tuần tiễu chẳng
ra gì. Năm chiến hạm đa quốc gia cũng như hai tàu Mỹ đi tuần tiễu cũng chẳng
làm cho Bắc Kinh lo sợ.
Trung Cộng chắc chắn sẽ
chỉ trích chúng ta về việc triển khai vũ khí thuờng trực tại khu vực, tăng cường
sức mạnh quốc phòng cho các nước trong khu vực và hộ tống các tàu bè qua lại
vùng này. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải nhấn mạnh rằng những hành động
này cũng chỉ là có tính phòng thủ.
Cần phải “ăn miếng trả miếng”
với Bắc Kinh. Khi Bắc Kinh lần đầu tiên triển khai hỏa tiển đến các đảo nhân tạo
của họ, Bộ Quốc phòng của họ đã (gian xảo) tuyên bố: ” Chúng tôi triển khai các
cơ sở quân sự trong vùng là cần thiết, là chỉ để phòng thủ và tự vệ, và đó là
điều hợp lý và hợp pháp. Chẳng hạn, nếu có ai đó ở trước cửa nhà bạn, vênh váo
và phá rối, làm sao mà bạn lại không cầm sẵn súng để đề phòng tự vệ.” Nếu nói
như vậy thì việc triển khai hỏa tiển và hộ tống tàu bè qua lại cũng là để Hoa Kỳ
đề phòng tự vệ . Trung cộng cho rằng động thái của họ là chỉ để phòng thủ. Hoa
Kỳ cũng nên tuyên bố như vậy.
Liên minh chặt chẻ hơn đối
với các nước trong vùng và hiện diện quân sự một cách mạnh mẽ thuờng trực bảo đảm
sẽ ngăn chặn (thành công)sự bành trướng của Bắc Kinh (2). Phương thức ứng
phó hiện tại không hiệu quả và cần phải (nhanh chóng) từ bỏ. Nếu Hoa Kỳ không
cương quyết dằn mặt Trung cộng và nắm lấy vai trò lãnh đạo, Trung cộng sẽ có một
chuổi các các căn cứ quân sự trên đảo với hỏa lực mạnh kéo dài từ Philippines đến
Việt Nam, đủ khả năng bung sức mạnh quân sự của mình vượt ra ngoài Biển Đông.
Quần đảo Trường Sa chưa bị
mất (4), nhưng sớm hay muộn cũng bị mất nếu Hoa Kỳ không hướng tới sự hiện
diện quân sự công khai thuờng trực hơn. Đã đến lúc(Hoa Kỳ) phải tung ra đối
sách cứng rắn táo bạo và thắt chặt các quan hệ đối tác, sử dụng ưu thế quân sự
và sức mạnh kinh tế để đẩy lùi tham vọng của Trung cộng.
Nguyễn Trọng Dân lược dịch
Nguyên Tác :
————————————–
Ghi chú của người lược dịch:
1. Đây chỉ là khổ nhục kế
của Hoa Kỳ nhằm thực hiện nhiều mục tiêu chiến lược sâu xa kéo dài cả trăm năm.
2. Điều này có nghĩa là sẽ
có liên minh quân sự Việt cộng- Hoa Kỳ trong tương lai – nghĩa là ẩn ý “Mỹ vẫn
bảo kê Việt cộng”
3. Xin đọc lại bài “Bàn
sơ lược về viễn cảnh Hoa Kỳ đặt hỏa tiễn tại Việt Nam” đăng trên đàn
Chim Việt để hiểu rõ thêm.
4. Trung Úy MacConaghy
không nhắc gì đến Hoàng Sa mặc dù tàu chiến Hoa Kỳ và Đông Minh liên tục áp sát
đảo Hoàng Sa trong tám tháng qua cho thấy giới quân sự Hoa Kỳ hiện đang muốn ém
nhẹm bí ẩn về tầm quan trọng của Hoàng Sa trong chiến lược quân sự và chính trị
của họ tại biển Đông. Đơn giản là vì hồ sơ Hoàng Sa liên hệ trực tiếp đến sự trở
lại của Việt Nam Cộng Hòa trên bàn hội nghị trong tương lai giữa các siêu cường
về biển Đông.
No comments:
Post a Comment