Thursday, October 4, 2018

HÒA HỢP DÂN TỘC Ở VIỆT NAM : CON ĐƯỜNG XA NGÁI (Nguyễn Trọng Bình)




Nguyễn Trọng Bình
4/10/2018

“...Gia tài của mẹ để lại cho con là nước Việt buồn!”
Trịnh Công Sơn

1. Khi niềm tin của người dân không còn

Có thể nói, từ cổ chí kim không một quốc nào phát triển và thịnh vượng mà bên trong quốc gia ấy không có sự thống nhất, hòa hợp của cả cộng đồng dân tộc. Và thước đo cho sự hòa hợp này chính là chỉ số niềm tin của mỗi cá nhân trong xã hội dựa trên ba mối quan hệ căn bản sau:

Thứ nhất, niềm tin giữa đại bộ phận dân chúng với chính quyền Nhà nước;
Thứ hai, niềm tin giữa những người dân với nhau;
Thứ ba, niềm tin hay đức tin tôn giáo của mỗi cá nhân trong xã hội.

Nếu như niềm tin giữa người dân với chính quyền là nền tảng quan trọng nhất tạo nên sự ổn định cho toàn xã hội dựa trên nguyên tắc bình đẳng và thượng tôn pháp luật thì niềm tin giữa những người dân với nhau chính là động lực để xã hội và đất nước phát triển bền vững trong sự kế thừa và sáng tạo, đa dạng và hài hòa, tôn trọng và chia sẻ, tương kính và bao dung...

Bên cạnh đó, để đất nước và xã hội ngày một trở nên văn minh và đáng sống, được bè bạn thế giới tôn trọng, kính nể thì mỗi cá nhân trong xã hội cần phải tự xây dựng cho mình có một niềm tin hay đức tin về một tôn giáo nào đó trong sự thông tuệ chứ không phải sự dị đoan, mê muội.

Từ những vấn đề trên, nhìn lại những gì đã và đang diễn ra ở xã hội Việt Nam hôm nay, có thể nói dân tộc này đang có nguy cơ kẻ trước người sau cùng kéo nhau xuống địa ngục nếu không kịp thời thức tỉnh.

Trước hết, nói về niềm tin của người dân với chính quyền Nhà nước, cho dù là người lạc quan nhất cũng phải thừa nhận tất cả mọi thứ đang gần trở về với con số 0. Có 2 vấn đề lớn mà người dân đã và đang cạn kiệt niềm tin với chính quyền Nhà nước hiện nay là: quốc nạn tham nhũng từ Trung ương đến địa phương và mối quan hệ mập mờ không rõ ràng với người “bạn vàng” Trung Quốc của thành phần lãnh đạo chóp bu.

Về quốc nạn tham nhũng, tuy không thể phủ nhận nỗ lực của ông Tổng Bí Thư trong công cuộc “nhóm lò đốt củi” hiện nay để lấy lại tin của nhân dân, tuy nhiên, câu chuyện này xem ra không dễ dàng chút nào nếu như bản thân ông vẫn không sẵn sàng “tử vì đạo”. Ví như người dân nhìn chung vẫn không biết liệu những cây củi to trong các vụ như Formosa - Hà Tĩnh, Thủ Thiêm – TP Hồ Chí Minh, hay vụ Vũ Nhôm – Bộ Công an, Út Trọc – Bộ quốc phòng, Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn – Bộ thông tin và truyền thông... đang được tiến hành như thế nào? Vì tất cả những chuyện này cho đến nay vẫn luôn là chuyện bí mật “nộ bộ”, chưa có dấu hiệu nào cho thấy tinh thần thượng tôn pháp luật và sự công khai, minh bạch được phát huy và đề cao để người dân theo dõi, giám sát, tránh những sự bàn tán, đồn thổi, suy diễn không có căn cứ... Nói cách khác, với những gì đang diễn ra như hiện nay cũng không thể trách người dân đặc biệt là “các thế lực thù địch” của Đảng đồn thổi rằng công cuộc “nhóm lò đốt củi” này thực chất là cuộc thanh trừng lẫn nhau giữa các phe nhóm nhằm tranh giành quyền lực mang “màu sắc” Tập Cận Bình.

Về mối quan hệ với Trung Quốc thì gần như ai cũng nhìn thấy, tất cả mọi thứ đang lệ thuộc và rập khuôn cả về thể chế chính trị lẫn kinh tế. Dĩ nhiên không ai phản đối việc hai nước phải quan hệ ngoại giao với nhau vì đó là lẽ tất yếu, hơn nữa Trung quốc là một nước lớn lại có chung đương biên giới như một định mệnh về địa chính trị. Tuy vậy, vấn đề là mấy chục năm qua người dân chẳng bao giờ được biết những thỏa thuận, qua lại giữa hai bên diễn ra như thế nào vì tất cả đều bị chính quyền bưng bít, giấu kín. Điều duy nhất mà người dân nhìn thấy là sự bất bình đẳng và thiệt thòi cho sự phát triển đất nước hay thậm chí là nhu nhược của giới lãnh đạo nước nhà trong tất cả mọi vấn đề nhất là về chủ quyền biển đảo. Nói khác đi, với những gì đang diễn ra người dân hoàn toàn có cơ sở để nghi ngờ lãnh đạo chính quyền hiện nay chỉ biết đặt lợi ích của “Đảng ta” lên trên hết. Vì hơn ai hết, tuy thừa biết sự đểu cáng và mưu mô chước quỷ của người “bạn vàng” bên kia biên giới nhưng để bảo vệ và duy trì sự thống trị tuyệt đối của mình, “Đảng ta” đã và đang phải cố “chịu đấm ăn xôi” và nhất là bất chấp nguyện vọng của nhân dân. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng nhất làm cho Việt Nam mấy mươi năm qua, tuy là một quốc gia có đầy đủ điều kiện, tiềm năng để phát triển nhưng lại “không chịu phát triển” và đang có nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa.

Từ đây, nếu lấy sự thất vọng, bức xúc và phản ứng lại của người dân với chính quyền làm thước đo về chỉ số niềm tin trong cả hai vấn đề sẽ thấy hàng loạt vụ việc như: vụ Đoàn Văn Vương – Hải Phòng, vụ người dân xuống đường biểu tình vì “người bạn vàng” ngang ngược mang giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, vụ Đồng Tâm – Hà Nội, BOT – Tiền Giang, vụ Thủ Thiêm – TP Hồ Chí Minh, và gần đây nhất là vụ người dân ở Bình Thuận liên quan đến Luật Đặc khu... âu cũng là một hệ quả tất yếu khi “lòng dân ý Đảng” đã không còn là một.

Như đã nói, niềm tin giữa người dân với chính quyền là nền tảng rất quan trọng để duy trì trật và tạo nên sự ổn định xã hội. Khi niềm tin giữa người dân với chính quyền cạn kiệt tất yếu sẽ kéo theo sự đổ vỡ niềm tin của hàng loạt mối quan hệ khác. Có một vấn đề mà ai cũng nhìn thấy là rất nhiều người Việt hôm nay (từ quan tới dân) rất siêng năng lui tới các cơ sở tôn giáo (nhất là vào các dịp Lễ, Hội và Tết cổ truyền hàng năm); hoặc tổ chức làm từ thiện một cách rất tự phát và rầm rộ. Thế nhưng, tất cả những điều này có vẻ như là một nghịch lý rất đáng phải suy ngẫm vì cả xã hội giờ đây đang vô cùng phức tạp và lộn xộn. Có lẽ rất khó để nói rằng người Việt hôm nay thật sự biết tương kính và yêu thương nhau thật lòng nếu nhìn vào hàng loạt những vụ án giết người rất man rợ (các hung thủ với tuổi đời còn rất trẻ nhưng không ngần ngại ra tay sát hại cả gia đình người khác); hoặc không thì đầu độc lẫn nhau bằng việc sản xuất và tiêu thụ thực phẩm bẩn, thực phẩm giả - vấn đề gần như không cách nào kiểm soát được.

Hay dễ thấy nhất hiện nay là nhiều người Việt sẵn sàng lao vào nhau, hoặc không thì ném ra tất cả những lời lẽ cay nghiệt và độc địa nhất dành cho nhau trên mạng xã hội về bất kỳ một vấn đề nào đó – một kiểu bạo lực tinh thần rất khủng khiếp.

Nghịch lý trên đây phải chăng cho chúng ta thấy rõ hơn sự bấn loạn về tinh thần, và rối loạn về nhân cách của người Việt trong xã hội hôm nay? Hay nói khác đi, vì mất niềm tin vào bản thân cũng như các mối quan hệ xã hội khác nên người Việt giờ đây đang cố ngụy tạo và che giấu bản chất thật của mình bằng những việc làm mà nếu chỉ nhìn bề ngoài sẽ thấy tất cả đều rất hoàn hảo, nhân ái, nhân văn nhưng bên trong thì hoàn toàn trái ngược. Người Việt hôm nay, phần nhiều nếu không phải đang mất phương hướng, không biết đâu là ý nghĩa của cuộc đời thì cũng là đang cố bám víu vào những niềm tin mù quáng, mê muội và tàn nhẫn. Từ quan tới dân, tất cả tìm đến các cơ sở tôn giáo không phải vì đức tin và sự chân thành sám hối, phục thiện mà trái lại những chốn linh thiêng ấy là nơi để họ trình diễn và phơi bày tất cả sự thô thiển và tham lam của mình. Các cơ sở tôn giáo giờ đây nếu không phải là chỗ để họ “hối lộ”, ra giá với “thần thánh” thì cũng là tấm bình phong để che đậy những âm mưu, thủ đoạn mượn thần thánh để “kinh doanh niềm tin” và kiếm chác từ sự mê muội của đồng bào mình.

Nói tóm lại, xã hội và con người Việt Nam hôm nay nhìn bề ngoài tưởng là rất trật tự, nề nếp và êm ấm nhưng kỳ thực bên trong là một xã hội vô pháp, vô thiên và cực kỳ hỗn tạp.

2. Hòa hợp dân tộc: con đường xa ngái

Khi con người không còn niềm tin vào bất cứ điều gì thì tất yếu sẽ sinh ra những hoài nghi và đố kỵ từ đó dẫn đến sự bất hợp tác hay thậm chí kích động lòng thù hận, sẵn sàng lao vào hành xử bạo lực (cả thể xác lẫn tinh thần) với nhau. Điều đó cũng có nghĩa sự thống nhất và hòa hợp dân tộc mãi mãi chỉ là giấc mơ không tưởng. Có hai vấn đề, hai sự kiện xảy ra gần đây nhất cho thấy người Việt hôm nay rất khó có sự hòa hợp và thống nhất để cùng nhau chung tay xây dựng và phát triển đất nước bền vững trong tương lai:

Một là, sự thờ ơ và lạnh nhạt của dân chúng trước sự ra đi của 3 vị những lãnh đạo cấp cao nước nhà từ đầu năm đến nay (gần nhất là 2 vị trong vòng 10 ngày). Trong cái nhìn quan so sánh với sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh cách đây mấy mươi năm hay gần đây nhất là sự ra đi của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rõ ràng có thể thấy phần lớn dân chúng hôm nay đã hiểu ra rằng không có lý do chính đáng nào để họ phải nhỏ nước mắt khóc “người dưng” cho dù đó là những ông quan to nhất của Đảng và chính quyền. Và dù rằng những “người có trách nhiệm” có cố gồng mình làm nên những cuộc tuyên truyền hay bày binh bố trận cho các nghi lễ quốc tang thêm hoành tráng thì trong mắt dân chúng đa phần chỉ là cái nhìn hắt hủi, ghẻ lạnh. Sự thật này cho thấy mối quan hệ giữa đại bộ phận dân chúng với chính quyền Nhà nước hôm nay dang vô cùng hời hợt và lỏng lẽo. Cũng không hẵn là dân chúng hôm nay đã bớt ngây thơ hơn về những vấn đề “chính chị, chính em” nhưng có một điều chắc chắn là họ đã không còn niềm tin và thiện cảm để có thể cùng nhau chia sẻ với nỗi đau chung với chính quyền và quốc gia dân tộc. Đây là sự tan rã đáng tiếc nhưng có lẽ là rất cần thiết để những người đang độc quyền cai trị đất nước hôm nay tự vấn lại lương tâm mình nếu như họ vẫn còn điều này.

Hai là, cuộc tranh cãi xung quanh đến sự ra đời của quyển sách “Gạc Ma – Vòng tròn bất tử” và những vấn đề liên quan đến cách dạy học trong sách “Công nghệ giáo dục” lớp 1 của GS Hồ Ngọc Đại. Nếu như, cuộc tranh cãi về sách “Gạc ma- vòng tròn bất tử” cho thấy sự cực đoan và bảo thủ của một bộ phận những người cộng sản và chống cộng sản thì vụ tranh cãi liên quan đến GS Hồ Ngọc Đại cho thấy sự chia rẽ và suy thoái của “tầng lớp trí thức”, “tinh hoa” trong xã hội liên quan đến vấn đề “đổi mới” nền giáo dục. Tất cả những vấn đề này một lần nữa cho thấy dân tộc Việt Nam hôm nay thật ra chỉ là một dân tộc rời rạc và ích kỷ, chưa bao giờ biết yêu thương và tương kính nhau thật lòng.

Có thể thấy, cùng thời điểm với những sự kiện trên thì nhân loại trên thế giới lại bất ngờ chứng kiến một sự kiện mang tính biểu tượng trên bán đảo Triều Tiên. Tuy tất cả vẫn còn ở thì tương lai nhưng với những gì đang diễn ra những người yêu chuộng hòa bình thế giới có quyền hi vọng về một sự thống nhất và hòa hợp giữa những người Triều Tiên trong một ngày không xa. Nếu điều này thực sự xảy ra, thì với sự phát triển thịnh vượng sẵn có của người dân miền Nam kết hợp với sự đoàn kết, giỏi chịu đựng và cần cù của người miền Bắc tin rằng dân tộc và quốc gia Triều Tiên thống nhất sẽ còn vươn xa hơn nữa. Và nếu điều này xảy ra thì những người Việt hôm nay có cảm thấy xấu hổ không khi quốc gia, dân tộc hòa bình thống nhất hơn 40 năm nhưng sự hận thù và nghi kỵ lẫn nhau vẫn không có dấu hiệu dừng lại?

3. Thay lời kết

Người Việt đang mất niềm tin và ngày một trở nên bấn loạn, từ đó đưa đến sự nghi ngờ, nghi kỵ lẫn nhau. Đây là một sự thật cần được nghiêm túc nhìn nhận. Không những vậy, nó còn là một rào cản có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình hội nhập và phát triển của đất nước. Vì dân tộc không có sự hòa hợp cũng đồng nghĩa với nội lực quốc gia bị suy yếu, là cơ hội cho các thế lực bên ngoại lợi dụng.

Tuy nhiên đáng tiếc thay, có không ít người, đặc biệt là giới lãnh đạo chính quyền ở Việt Nam hiện nay không dám dũng cảm nhìn nhận thực tế này mà trái lại luôn đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan từ bên ngoài. Hoặc không thì lại tư duy và lập luận rất hời hợt rằng, sự ra đời và bùng nổ của công nghệ truyền thông nhất là mạng xã hội đang gây ra những phiền lụy nhất định đối với sự phát triển của đất nước. Hay “bên cạnh những tiện ích thì mạng xã hội cũng có nhiều mặt trái...”. Chỉ vậy thôi là họ dàn cảnh để tuyên truyền sau đó là bấm nút thông qua luật an ninh mạng để dễ bề kiểm soát dân chúng nhằm củng cố quyền lực của mình.

Thực ra, thì cho dù có mạng hay không có mạng xã hội thì người Việt hôm nay cũng đã và đang bị mất phương hướng, mất niềm tin và ngày một trở nên bấn loạn hơn trong cuộc sống. Mạng xã hội chẳng qua chỉ là phương tiện hữu dụng và tiện lợi để tất cả mọi người trong xã hội trình diễn và phơi bày tất cả sự bấn loạn của mình. Lãnh đạo, chính quyền lẽ ra phải thấy được điều này và quan trọng hơn hết là phải làm sao sốc dậy và vực lại niềm tin cho người dân chứ không phải chỉ biết nghĩ cho mình một cách ích kỷ như vậy. Một khi niềm tin của người dân đã không còn thì dù anh có cấm đoán thế nào thì cũng không ngăn được những nỗi bức xúc cần được giải tỏa của họ. Và một khi những bức xúc ấy bị dồn nén lên đến đỉnh điểm thì một sự bùng nổ tất yếu sẽ xảy ra. Đất nước khi ấy có khi lại rơi vào cảnh loạn lạc, binh biến, anh em lại “nồi da xáo thịt” theo một kịch bản chẳng ai lường trước được.

CT, 0102018
NTB

--------------------------------------

XEM THÊM

Trương Quang Đệ
3/10/2018

Nhà sử học Phan Huy Lê vừa qua đời ở Hà Nội, hưởng thọ 84 tuổi. Xin  có lời chân thành phân ưu với gia đình, cầu mong linh hồn ông từ nay thanh thản ở cõi vĩnh hằng. Nhân dịp này những người quan tâm đến lịch sử nước nhà bày tỏ đôi điều về cách hiểu, cách nhìn lịch sử. Có một thời trên các mạng xã hội xuất hiện nhiều bài nhận xét về bộ sử mới ra đời của Viện Sử học Việt Nam. Một số bài hoan nghênh nhóm tác giả đã mạnh dạn bỏ cách gọi "ngụy quân", "ngụy quyền" gán cho chính quyền và quân đội VNCH cũ và cho rằng cách gọi đó mang lại nhiều lợi ích trong quan hệ quốc tế. Ngược lại, vì thay cách gọi như vậy mà một số thành phần kiên định lập trường cách mạng, trong đó có một vị tướng cho rằng nhóm tác giả có cách nhìn phản động và đề nghị thu hồi ngay bộ sách. Một số khác cho rằng bộ sử mới cũng chỉ được viết trên tinh thần tuyên truyền chính trị quen thuộc, không có nhận định nào đáng kể về những sai lầm trong quá khứ. Trong cuộc tranh cãi này, khái niệm đưa ra làm chuẩn là "sự thật lịch sử". Vị giáo sư đại diện nhóm tác giả trong buổi giới thiệu bộ sách có lời lí giải  rằng bộ sách ghi những điều mà mọi người chấp nhận được. Phía kiên trì đường lối cách mạng phản bác rằng cần phải nêu lên sự thật lịch sử chứ không phải nêu nhữg gì để được mọi người chấp nhận.

Tình hình đó cho thấy việc hòa giải hòa hợp dân tộc hiện nay thực quá xa vời, khiến cho những người thiện chí vô cùng thất vọng. Sự xung khắc ý thức hệ dẫn tới sự bế tắc về hòa hợp dân tộc giờ đây đã lộ rõ qua hai khái niệm có tính triết học : sự thật lịch sử và những điều được mọi người chấp nhận. Những người bảo thủ cho rằng viết sử là viết sự thật, không phải viêt những sự kiện mà người này người kia chấp nhận. Mới nghe qua thì thấy lí luận đó rất vững chắc. Tuy vậy khi suy nghĩ chín chắn hơn sẽ thấy không đơn giản như vậy. Bởi lẽ trong đầu những người bảo thủ,"sự thật lịch sử" là những gì mà trước nay được nói trong các văn kiện chính thức của Đảng. Và như mọi người đều biết, đó là những sư kiện (thực hay huyền thoại) chủ yếu về thành tựu của Đảng. Còn khái niệm "mọi người chấp nhận" cũng không phải thiếu căn cứ như người ta nghĩ, đó là cách ứng xử xưa nay của nhiều người viết sử. Lấy ví dụ sự kiện phá ngục Bastille trong Cách mạng Pháp mà xem xét. Khi dân chúng tràn vào ngục Bastille đập phá, nhà ngục to lớn như vậy chỉ giam có bày tù nhân: ba bốn thường phạm, một vài kẻ tâm thần, một quí tộc vỡ nợ. Như vậy về lý thuyết, họ không được xem là những người bị chế độ quân chủ chuyên chế áp bức và được cách mạng giải phóng. Hơn nữa dân chúng phá ngục Basrille đâu phải để giải phóng tù nhân mà chủ yếu cướp lấy kho vũ khí. Sự kiện lịch sử "thô" này sẽ được các giới chính trị và lịch sử đánh giá lại qua nhiều tranh cãi và đi đến một điều mà mọi người, phái hữu cũng như phái tả "chấp nhận", theo đó  việc phá ngục, dầu trong ngục không có ai, vẫn là biểu tượng cho sự nổi dậy. Nhà ngục là biểu tượng cho sự chuyên chế, trấn áp nên phá ngục trổ thành biểu tượng cho cách mạng, vậy đó. Phải thấy rằng các biểu tượng "sống" và "sống lâu" hơn những sư kiện lịch sử có thật. Lịch sử Pháp có nhiều thí dụ như vậy: Jeanne d'Arc, cô gái chăn cừu biểu tượng của chủ nghĩa ái quốc Pháp, có mấy phần sát với sự thật lịch sử? Ở nước ta, có vị anh hùng nào sáng ngời hơn Phù Đổng Thiên Vương? Vậy mà đó chỉ là huyền thoại. Có nhà sử học nào chứng minh được bài "Nam quốc sơn hà..." của Lý Thường Kiệt đã được đọc trong đêm trên sông Như Nguyệt, trước binh lính xâm lược phương Bắc và đọc bằng tiếng Hán cổ hay âm địa phương phía Nam cho họ hiểu? Nhưng bài thơ biểu tượng đó sống mãi trong lòng người Việt và không ai nghĩ đến sự thật xẩy ra như thế nào. Người bình thường khi thấy tượng Đông Ky Sốt và viên tùy tùng Sancho Panza ở Tây Ban Nha hay ngôi mộ giả Ham-lét ở Đan Mạch hay ngôi nhà số 2213 Baker Street của Sherlock Holmes hiện nay vẫn tồn tại ở Luân Đôn đều cho rằng đó là những nhân vật có thưc, bởi vì những nhân vật đó "sống" hơn cả những người sống thật. Mặt khác, có những sự thật hiển nhiên nhưng không ai muốn chấp nhận kể cả những nhà khoa học. Học giả Hoàng Xuân Hãn, vào những năm 50 của thế kỷ trước, cho xuất bản cuốn "Chinh phụ ngâm bị khảo" (Khảo cứu đầy đủ về Chinh phụ ngâm), nêu rõ bản Chinh phụ ngâm mà mọi người quen thuộc bấy lâu nay không phải của bà Đoàn Thị Điểm, mà của Phan Huy Ích. Đoàn Thị Điểm cũng có một bản dịch nhưng ít được lưu hành. Chứng cứ mà học giả Hoàng Xuân Hãn đưa ra rất vững chắc, vì bản thân ông đã nghiên cứu gia phả dòng họ Phan Huy và tìm được bản dịch đó. Lần đầu tiên đọc cuốn "Chinh phụ ngâm bị khảo" cuối năm 1954 ở Hà Nội, tôi nghĩ bụng rằng đề xuất của học giả Hoàng Xuân Hãn chắc không có ai chấp nhận. Thời gian đã khẳng định lòng tin đó. Hiện nay, cuộc chiến năm 1979 giữa ta và Phương Bắc còn rành rành trong ký ức mọi người nhưng hình như cả hai bên đều cho rằng không hề có cuộc chiến đó. Thực tình không bên nào "chấp nhận" được cách nhìn của bên kia: "cuộc phản công tự vệ, dạy cho đối phương một bài học" hay đơn thuần "cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa bành trướng Phương Bắc" mhằm cứu vớt đồng minh Khơ Me đỏ đang sụp đổ.

Vì vậy tôi thấy việc ông Phan Huy Lê vào năm 2009 giải bày công khai lời dặn của ông Trần Huy Liệu về trường hợp nẩy sinh anh hùng Lê Văn Tám là một điều dễ gây tranh cãi. Với trách nhiệm một nhà sử học, với nhân cách của một nhà khoa học, ông thấy cần đưa mọi sự kiện lịch sử vào khuôn khổ chân thực. Nhưng người dân thường như bản thân tôi muốn tiếp cận vấn đề theo cách khác với ý thức rằng một biểu tượng, dầu xa sự thật đến đâu, vẫn rất khó xóa bỏ. Chẳng hạn trước lời dặn của ông Trần Huy Liệu, các nhà sử học  đứng ra  tổ chức nghiên cứu một cách hệ thống những gương anh hùng thời chiến như Võ Thị Sáu, Trần Thị Lý, Lê Văn Tám v.v. rồi đưa những chú thích cá nhân như lời dặn Trần Huy Liệu vào đó. Tài liệu sẽ được bảo mật trong vòng 30 năm hay lâu hơn rồi sẽ được công bố về sau. Vậy về phương diện triết học lịch sử, nhiệm vụ của nhà sử học đơn thuần trung thành với sự kiện lịch sử một cách vô điều kiện hay phải tính đến "tính chấp nhận được" của sự kiện đó? Trực giác bảo tôi rằng không phải lúc nào cũng biết đích xác các việc đã xẩy ra.  Bởi lẽ   các sự kiện lịch sử còn có khi bị che mờ bởi những lí do  nào đó khó bề phân giải . Vì khái niệm "sự thật lịch sử" có  tính tương đối như vậy nên nhà nươc cần cho tồn tại nhiệu bộ sử khác nhau, quốc sử cũng như ngoại sử để người dân, nhất là các nhà nghiên cứu sử dụng, tra cứu. Đương nhiên, theo phương hướng tư tưởng hiện nay, bộ sử chính thức dưới sự chỉ đạo của Đảng cầm quyền sẽ được dùng làm căn bản cho sách giáo khoa và những trích dẫn của người nhà nước. Bên cạnh đó cần khuyến khích các nhà sử học độc lập soạn thảo lịch sử theo từng cách nhìn khác nhau. Sự phong phú đa dạng này sẽ không gây hỗn loạn, ngược lại sẽ làm giàu có thêm cho nhận thức con người.

"Viết sử", theo tôi, về thực chất là "viết cách nhìn lịch sử". Phương Đông là vậy mà Phương Tây cũng vậy. Nghĩ đến đó ta thật thấm thía câu nói của Ferdinand de Saussure, người đặt nền móng cho ngôn ngữ học hiện đại: Còn xa mới có chuyện sự vật đi trước cách nhìn; chính cách nhìn tạo ra sự vật....(Nguyên văm tiếng Pháp: Bien loin que l'objet précède le point de vue, c'est le point de vue qui crée l'objet....- Giáo trình ngôn ngữ học đại cương). Đã hơn mười năm qua khối Cộng Đồng Châu Âu tìm cách "viết lại lịch sử", làm sao cho mọi thành viên của cộng đồng chấp nhận được. Bởỉ lẽ theo sử truyền thống thì một thắng lợi của Pháp là một thất bại của Anh hay Đức và ngược lại. Phải có cách nhìn thế nào để mọi người đồng tình, cảm thông với nhau khi sống chung một nhà. Nhiều nhà nghiên cứu cho biết ở Trung Quốc hiện nay cũng có chủ trương "viết lại lịch sử" cho phù hợp với tình hình chính trị mới.

Khi nghĩ đến việc viết sử Việt Nam làm sao để mọi người chấp nhận và làm tiền đề cho một sự hòa giải hòa hợp dân tộc thực sự trong tương lai, ai cũng thấy đó là chuyện hết sức cần thiết, đồng thời ai cũng thấy gần như bất khả thi nếu không khắc phục được sự chia rẽ về ý thức hệ. Gần đây nhân dịp 50 năm sự kiện Tất Mậu Thân 1968, người Việt chia rẽ hơn bao giờ hết. Phe thắng cuộc hân hoan kỉ niệm mốc lịch sử chiến tranh có tính quyết định này, phe thua cuộc và những người dân thường mất mát nhiều trong cuộc chiến thì buồn bã khôn nguôi. Cũng giống như muốn tránh kẹt xe thì phải có ý thức nhường đường cho nhau, mình vì mọi người. Vì không ai nhường ai nên mọi việc bế tắc. Đến lúc nào dân ta mới có ý thức về sự khoan dung, nhường nhịn, lấy dân tộc quốc gia làm trọng, bỏ bớt lợi ích cá nhân phe phái? Phải nghĩ đến tình huống "lật bàn tay": Lật lên, úp xuống ta thấy hai mặt khác nhau nhưng chung qui vẫn là một bàn tay.

Trong khi chưa tìm được cách viết sử được mọi người, mọi phe phái chấp nhận, ta cần có thái độ cầu thị, khoan dung với những cách viết sử khác nhau, thận trọng trong cách phân tích phê phán. Trong cuốn "Các phương phái lịch sử" của hai nhà sử học Pháp Guy Thuller và Jean Tulard (bản dịch ra tiếng Việt được Nhà Xuất Bản Thế Giới cho mắt năm 2002) có những kết luận quan trọng như sau: Một là có nhiều cách viết sử khác nhau nhưng có giá trị như nhau về công dụng thực tiễn. Tin rằng chỉ có một cách viết duy nhất là sự ngây thơ của người thiếu kinh nghiệm. Hai là về mặt khoa học, không có trường phái lịch sử khác nhau mà chỉ có cách viết khác nhau được hình tthành trong một môi trường, một hệ thống quan hệ trí tuệ và tình cảm, một nhu cầu văn hóa riêng. 







No comments: