Triển vọng kinh tế
toàn cầu và Việt Nam năm 2024
Trần Quốc Hùng (*)
29/12/2023
20:05
https://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/trien-vong-kinh-te-toan-cau-va-viet-nam-nam-2024
Trong bối
cảnh nền kinh tế toàn cầu được dự báo
tăng trưởng chậm lại bởi nhiều yếu tố rủi ro bất định,
nền kinh tế Việt Nam còn tồn tại những khó khăn riêng
cản trợ sự phát triển.
Còn
đó những rủi ro bất định toàn cầu
Nền kinh tế
toàn cầu bước vào năm 2024 với nhiều khó khăn tồn tại và thử thách nghiêm trọng.
Mức tăng trưởng sẽ chậm lại, thấp hơn so với các thập kỷ trước vì nhiều lý do.
Bốn năm
sau khi đại dịch Covid-19 bắt đầu, kinh tế thế giới vẫn chưa hồi phục trở lại
quỹ đạo tăng trưởng trước đại dịch. GDP toàn cầu năm 2023 sẽ thấp hơn khoảng
3,4% (tương đương 3.700 tỉ đô la Mỹ) so với GDP dự đoán trước khi có dịch. Sự mất
mát này được phân bố không đồng đều. Mỹ là nước duy nhất đã hồi phục trở lại quỹ
đạo tăng trưởng trước đại dịch. Châu Âu vẫn còn tăng trưởng dưới 2,2% và Trung
Quốc 4,2% so với trước Covid-19.
Đáng chú ý
là 73 nước nghèo có lợi tức thấp (low income countries - theo đánh
giá của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)) bị mất đến 6,5%
GDP vì đại dịch. Sự mất mát này sẽ không hồi phục lại được. Nói cách khác,
Covid-19 đã khiến các nước nghèo tăng trưởng chậm lại, và bị tụt hậu rất nhiều
trong nỗ lực phát triển. Thêm khoảng Gần 100 triệu người đã bị rơi vào cảnh
nghèo đói cùng cực.
Cuộc tranh
chấp chiến lược và địa chính trị giữa Mỹ và Trung Quốc đã chia rẽ nền kinh tế
toàn cầu thành hai khối - nghiêng về Mỹ hay nghiêng về Trung Quốc. Đặc biệt,
chuỗi cung ứng toàn cầu của nhiều mặt hàng chiến lược và quan trọng đã có sự
phân liệt. Nghiên cứu của IMF cho thấy trong mấy năm vừa qua, việc xuất nhập khẩu
hàng hóa và sản phẩm cơ bản, giao lưu tài chính như đầu tư trực tiếp, đầu tư
danh mục và cho vay ngân hàng đã tăng trưởng mạnh mẽ hơn giữa các nước trong
cùng khối, so với mức tăng trưởng chung cho toàn thế giới.
Các giao
lưu kinh tế, tài chính bị chia cắt đã làm giảm hiệu năng của nền kinh tế, tăng
phí tổn kinh doanh. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế chậm lại và áp lực lên lạm
phát. IMF đã ước tính nền kinh tế toàn cầu sẽ bị giảm 7% trong thời gian sắp tới.
Nếu tranh
chấp chiến lược Mỹ - Trung Quốc sâu sắc thêm, tạo thành các xung đột khu vực,
thì ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế sẽ nặng thêm, giống như hậu quả của
cuộc xung đột quân sự ở Ukraine, đã làm tăng giá nhiên liệu, thực phẩm trên thế
giới và làm chậm tăng trưởng. Cuộc xung đột quân sự Israel - Hamas (ở Trung
Đông) nếu lan rộng ra cũng có ảnh hưởng tiêu cực như thế.
Ngoài ra,
các sự kiện thiên tai, thời tiết khắc nghiệt xảy ra thường xuyên hơn do biến đổi
khí hậu cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế như gây tổn thất tài sản, mùa màng; tăng
phí bảo hiểm và các chi phí kinh doanh khác.
Những yếu
tố kể trên đã góp phần làm mức tăng trưởng kinh tế thế giới giảm nhiều trong thời
gian qua, từ trung bình 5%/năm giai đoạn 1950-1960 xuống chỉ còn 2,5%/năm giai
đoạn 2020-2024. Bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm sẽ tác động đến khả
năng tăng trưởng của các nước.
Điều đáng
chú ý là thương mại thế giới cũng đã tăng trưởng chậm lại. Từ những năm 1980
cho đến cuộc đại khủng hoảng tài chính năm 2008, thương mại thế giới tăng khoảng
6-7%/năm - gấp đôi mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Đây đã là động cơ thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Sau đó, kim ngạch thương mại tăng chậm hẳn lại, chỉ còn
tăng 0,8% trong năm 2023 trước khi hồi phục đến khoảng 3% vào năm 2024. Thương
mại thế giới chậm tăng trưởng sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đối với các nền kinh tế
mở như Việt Nam (tỷ lệ xuất nhập khẩu/GDP rất cao, gần 200%).
Triển
vọng kinh tế từng khu vực
Trong giai
đoạn 2019-2023, kinh tế nhiều nước đã bị dao động rất nhiều vì tác động của đại
dịch. Tuy nhiên, mức tăng trưởng trung bình hàng năm ở Mỹ là 1,9% trong thời
gian này, xấp xỉ với mức tăng trưởng tiềm năng (potential growth rate).
Mỹ là nước duy nhất đã hồi phục trở lại quỹ đạo tăng trưởng trước Covid-19. Lý
do chính là trong năm 2020-2021, Chính phủ Mỹ đã thực hiện chương trình kích cầu
khổng lồ lớn nhất thế giới trị giá trên 5.000 tỉ đô la Mỹ. Ngân hàng Trung ương
Mỹ (Fed) cũng tung ra lượng thanh khoản lớn tương tự để hỗ trợ nền kinh tế.
Sang năm
2024, hai nguồn kích thích này sẽ bị đảo ngược. Bội chi ngân sách giảm và việc
Fed đã tăng lãi suất trong gần hai năm qua - mà những ảnh hưởng chậm của nó sẽ
còn tiếp tục trong năm 2024. Ngoài ra, các hộ gia đình ở Mỹ cũng đã tiêu hết số
tiền trợ cấp do dịch bệnh (trên 2.000 tỉ đô la Mỹ) và sẽ phải bình thường hóa mức
chi tiêu của mình. Vì vậy, mức tăng trưởng năm 2024 dự báo sẽ giảm xuống còn
1,5%.
Trong khi
đó, khu vực đồng euro ở châu Âu vẫn tiếp tục trì trệ với GDP chỉ tăng 0,7%
trong năm 2023 và dự báo 1% trong năm 2024. Đặc biệt là Đức sẽ rơi vào cuộc suy
thoái kép - vào đầu và cuối năm nay; và sẽ giảm 0,5% trong năm 2024. Lý do
chính là giá năng lượng và thực phẩm tăng cao do xung đột ở Ukraine; lạm phát
tăng lên trên 10% buộc Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) phải tăng lãi suất
lên cao nhất trong nhiều thập niên qua và chính phủ phải giảm bội chi ngân
sách. Việc thương mại thế giới không tăng trưởng cũng có ảnh hưởng xấu đối với
châu Âu - vốn dựa vào ngoại thương rất nhiều.
Tăng trưởng
trung bình hàng năm của Trung Quốc đạt 4,5% trong năm năm 2019-2023, thấp hơn mức
7,5% trong thập niên trước Covid-19 nhưng bằng mức tăng trưởng tiềm năng trong
giai đoạn này. Suất tăng trưởng tiềm năng của Trung Quốc đã giảm vì tình trạng
già hóa dân số và tỷ lệ sinh đẻ giảm nhiều, làm số người trong độ tuổi lao động
giảm 0,5% mỗi năm, và sẽ có thểlên tới 0,8% trong những năm tới. Trong khi đó,
mức tăng trưởng năng suất lao động cũng giảm xuống dưới 5%/năm.
Nói chung,
suất mức tăng trưởng tiềm năng của Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm, dự báo còn 3-4%
trong giai đoạn 2026-2030 và 2-3% trong những năm 2031-2035. Dù tăng trưởng chậm
lại, GDP của Trung Quốc sẽ bắt kịp Mỹ vào năm 2035 khi cả hai lên mức 30.000 tỉ
đô la Mỹ—dù chậm hơn dự kiến của nước này. Thử thách lớn nhất trước mắt là tình
trạng nợ quá cao. Nợ doanh nghiệp lên tới 167% GDP thuộc loại rất cao trên thế
giới và nợ công (gồm cả chính quyền trung ương, địa phương và các công ty vay nợ
của địa phương) bằng 95% GDP, giới hạn khả năng kích cầu của Chính phủ Trung Quốc.
Nhật Bản bất
ngờ tăng trưởng 2% trong năm 2023 nhờ du lịch và xuất khẩu tăng mạnh bởi đồng
yen mất giá khoảng 11,5% so với đô la Mỹ từ đầu năm đến nay. Tuy nhiên, sang
năm 2024, tăng trưởng kinh tế ở Nhật sẽ trở về mức 1% của 30 năm bị “mất mát”
(1990-2010), nhất là khi Ngân hàng Trung ương Nhật (BOJ) sẽ chấm dứt chính sách
lãi suất âm vì lạm phát đã vượt quá 2%.
Điểm son
trong tình hình kinh tế hiện nay là Ấn Độ. Nước này đã và sẽ tăng trưởng khoảng
6,53%/ năm nhờ các cải cách kinh tế trong thập niên trước. Tuy nhiên tác động của
Ấn Độ đối với kinh tế toàn cầu giới hạn vì tỷ trọng xuất và nhập khẩu của Ấn Độ
trong thương mại thế giới rất thấp, chỉ khoảng 2% so (trong khi Trung Quốc là
12,4%).
Nói chung
châu Á giữ mức tăng trưởng khoảng 5% trong thời gian sắp tới, trở thành đầu tàu
đóng góp 70% trong sự tăng trưởng toàn thế giới.
Các nước
thị trường mới nổi (emerging markets) cũng sẽ tăng trưởng chậm
lại - khoảng 4%/năm, bằng một nửa mức tăng trưởng trong hai thập niên 1990 và
2000. Các nước này đã chịu ba cú sốc liên tiếp gồm Covid-19, xung đột quân sự ở
Ukraine, việc tăng lãi suất nhanh và cao của Fed và ECB…, vì vậy, đến nay vẫn
chưa thể hồi phục.
Các nước lợi
tức thấp (low income countries) mắc nợ quá cao (3.500 tỉ đô la
Mỹ). Nhiều nước đang bị khủng hoảng nợ. Điều này khiến họ càng bị trì trệ trong
nền kinh tế. Ở nhiều nước, tiền trả lãi trên dư nợ đã vượt quá 10% thu ngân
sách, khiến họ phải cắt giảm các chi phí cần thiết cho an sinh xã hội, giáo dục,
cơ sở hạ tầng, chưa kể đến việc đối phó với biến đổi khí hậu. Châu Phi còn phải
đối phó với tình trạng bùng nổ dân số khi mỗi tháng có đến một triệu người mới
tham gia vào lực lượng lao động nhưng chỉ có 25% trong số đó sẽ tìm được việc
làm, theo Ngân hàng Phát triển châu Phi. Người thất nghiệp bất mãn và trở thành
mối đe dọa cho sự ổn định xã hội và chính trị ở các nước này và tăng áp lực di
dân đối với châu Âu.
Khó
khăn của Việt Nam
2023 là một
năm hết sức khó khăn cho Việt Nam, nhất là trong sáu tháng đầu năm, khi sức cầu
trong và ngoài nước đều giảm. Tuy nhiên, tình hình kinh tế đã có dấu hiệu hồi
phục trong quí 3-2023 với GDP tăng 5,3% chủ yếu do các biện pháp kích cầu của
Chính phủ. Thêm vào đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh giai đoạn cuối
năm. Nếu tiếp tục đà này, tăng trưởng 7% trong quí 4, GDP Việt Nam có thể tăng
5% cả năm 2023.
Để đánh
giá triển vọng tăng trưởng trong năm 2024 và 2025, chúng ta cần nhìn nhận tổng
quan hơn về việc kinh tế có tính chu kỳ, cùng với đó xem xét các vấn đề có tính
cơ cấu đang kìm hãm sự phát triển.
Tăng trưởng
kinh tế Việt Nam đạt trung bình 5,2%/năm trong giai đoạn đầy biến động
2019-2023. Mức này thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng tiềm năng hiện nay là 5,5-6%. Một
số tổ chức quốc tế đã dự báo tỷ lệ tăng trưởng trung bình 5,6%/năm trong giai
đoạn 2023-2030. Các ước tính này dựa trên cơ sở lực lượng lao động Việt Nam
tăng khoảng 1%/năm, cộng với năng suất lao động tăng 4,5-5%/năm. Việt Nam còn
nhiều dư địa và tiềm năng để cải thiện khi năng suất lao động vẫn còn thấp hơn
rất nhiều so với các nước trong khu vực. Tất nhiên việc này không dễ thực hiện
vì khuynh hướng chung của hầu hết các nước trên thế giới là càng ngày càng giảm
mức tăng trưởng năng suất lao động.
Nói chung,
mức tăng trưởng của Việt Nam trong một vài năm tới có thể dự báo nằm trong mức
tăng trưởng tiềm năng 5,5-6%. Đây cũng là dự báo tăng trưởng của WB, IMF và
Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB).
Một số người
cho rằng tăng trưởng như thế là tốt rồi, tuy thấp hơn Ấn Độ một chút nhưng vẫn
cao hơn các nước khác trên thế giới. Tôi cho rằng như thế là phiến diện: kinh
nghiệm là các nước con hổ châu Á (kể cả Trung Quốc) đều phát triển rất nhanh
trong giai đoạn đầu. Cụ thể là trong hai thập niên trước khi đạt mức GDP/đầu
người 10.000 đô la Mỹ, các nước này đã tăng trưởng rất nhanh. Singapore trung
bình tăng 9,4%/năm; Đài Loan tăng 8,8%; Hàn Quốc là 8,7% và Trung Quốc là
8,7%... Khi đạt mức phát triển tương đối cao như trên thì tăng trưởng mới bắt đầu
chậm lại và vẫn vượt qua ngưỡng cửa 13.205 đô la Mỹ để trở thành nước thu nhập
cao (theo xếp hạng của WB). Trung Quốc cũng có khả năng đạt mức này trong thời
gian tới.
So với các
nước kể trên, Việt Nam kém hơn nhiều. Trong thập niên đầu sau đổi mới
(1990-1999) GDP tăng trưởng trung bình 7,4%/năm; đến thập niên 2000-2009 xuống
6,6%. Đó là tính theo số thống kê cũ, trước khi có sự điều chỉnh năm 2010 tăng
GDP lên 25%.
Nếu Tổng cục
Thống kê sửa lại số liệu GDP trước năm 2010 (chưa công bố) để hợp với số liệu
sau năm 2010, khi đó, mức tăng trưởng trước năm 2010 còn cao hơn, ít nhất cũng
trong khoảng 8-9%/năm. Tuy nhiên sau đó, trên cơ sở số liệu mới, GDP đã tăng
trung bình 6%/năm trong thời gian 2010-2022. Điều này có nghĩa là mức tăng trưởng
của Việt Nam đã chậm lại từ năm 2010 khi GDP/đầu người chỉ mới 1.684 đô la Mỹ.
Trong năm năm gần đây nhất, 2019-2023, thì chỉ còn 5,2%/ năm, khi GDP/đầu người
đạt 4.164 đô la Mỹ, một phần là vì tác động của Covid-19. Nói chung, mức tăng
trưởng của Việt Nam đã chậm lại khi mới phát triển GDP/đầu người đến mức độ còn
thấp. Nếu tăng trưởng “chậm” và “sớm” như thế, Việt Nam khó bắt kịp với các nước
con hổ châu Á và nguy cơ tụt hậu sẽ tiếp tục ám ảnh.
Giải
pháp cho Việt Nam
Để giảm bớt
nguy cơ tụt hậu, cần phải nâng cao năng suất lao động. Cụ thể Việt Nam cần phải
tiếp tục cải cách kinh tế, hoàn thiện cơ chế thị trường cạnh tranh lành mạnh,
không bị lũng đoạn vì sự tham nhũng của các tập đoàn lợi ích; tăng cường hiệu
năng của bộ máy hành chính; đào tạo công nhân viên có trình độ kỹ thuật đáp ứng
với nhu cầu hiện nay; xây dựng cơ sở hạ tầng, nhất là cho công nghiệp số và
công nghiệp xanh, thu hút và sử dụng tốt dòng đầu tư FDI đang được chuyển hướng
từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam Á.
Ngoài ra,
còn một vấn đề quan trọng nhưng chưa được chú ý đúng mức, đó là tình trạng nợ
doanh nghiệp phi tài chính đã quá cao.
Theo Sách
Trắng Doanh nghiệp 2023 do Tổng cục Thống kê vừa xuất bản, tỷ lệ dư nợ
doanh nghiệp phi tài chính/GDP luôn tăng trong thời gian qua, lên tới 255%
trong năm 2021, chủ yếu là nợ trong nước. Trong đó, nợ nước ngoài bằng ngoại tệ
chiếm khoảng 10% (hay 103 tỉ đô la Mỹ) tổng dư nợ. Tỷ lệ này cao nhất thế giới
(có tỷ lệ nợ trung bình là 95%).
Tương tự
như Trung Quốc (với tỷ lệ nợ doanh nghiệp phi tài chính/GDP 167%), nợ doanh
nghiệp quá cao làm cho thị trường tài chính và nền kinh tế mất ổn định, dễ lâm
vào khủng hoảng. Tình trạng nợ doanh nghiệp quá cao rất phức tạp vì cách giải
quyết nào cũng có cái giá phải trả. Khuynh hướng hiện nay của Việt Nam là giảm
lãi suất, khuyến khích ngân hàng mở rộng việc cho vay, tăng tín dụng cho doanh
nghiệp. Làm như thế thì có thể yểm trợ sự hồi phục của ngành bất động sản và
kinh tế nói chung trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, cái giá phải trả là
tăng thêm mức dư nợ của doanh nghiệp (hiện đã quá cao) và làm tăng nguy cơ khủng
hoảng nợ trong tương lai nếu tình hình kinh tế trở nên bất lợi (như lãi suất
tăng hay sức cầu và giá bán hàng mặt giảm).
Ngược lại,
việc mạnh dạn thanh lý toàn bộ các món nợ xấu và các doanh nghiệp đã phá sản
(giá trị tài sản thấp hơn mức nợ phải trả + vốn chủ sở hữu) sẽ gây cú sốc làm
kinh tế chậm lại hoặc suy thoái. Nhưng trong tương lai, điều này có thể lành mạnh
hóa bảng cân đối tài chính của doanh nghiệp và ngân hàng, làm cơ sở để có thể
tăng trưởng ổn định và bền vững hơn.
Cách giải
quyết trung dung của Trung Quốc đáng tham khảo khi nước này đẩy mạnh thanh
lý/tái cấu trúc nợ xấu và doanh nghiệp bất động sản phá sản tới mức vừa phải mà
nền kinh tế, xã hội có thể chịu được. Đồng thời, nước này kích cầu và yểm trợ
có chọn lọc để đảm bảo tăng trưởng tối thiểu và đối phó với cái giá phải trả là
tình trạng này có thể kéo dài thêm vài năm nữa. Kinh nghiệm của Trung Quốc
trong năm năm qua cho thấy việc giảm tỷ lệ nợ doanh nghiệp phi tài chính/GDP
đòi hỏi phải kiên trì áp dụng các biện pháp giảm tỷ lệ nợ trong thời gian dài.
Trung Quốc đã giảm tỷ lệ nợ từ 163% trong quí 3-2020 xuống 158% trong quí 2-2022;
nhưng sau đó đã tăng lên 167% trong quí 3-2023 - phần lớn vì Covid-19.
Nói
tóm lại, cần phải giải quyết tình trạng nợ doanh nghiệp phi tài chính quá cao,
nếu không, nền kinh tế luôn luôn bị đe doạ bởi khủng hoảng nợ và tăng trưởng chậm.
Trần Quốc
Hùng
(*) Kinh tế gia ở Mỹ. Tác giả xin cảm
ơn TS. Vũ Quang Việt đã cung cấp tư liệu
về việc sửa đổi cách tính GDP Việt Nam năm 2010 và tình trạng nợ doanh nghiệp.
_____________________________________
Các giao lưu kinh tế, tài chính bị chia
cắt đã làm giảm hiệu năng của nền kinh tế thế giới, tăng phí tổn kinh doanh.
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế thế giới chậm lại và áp lực lên lạm phát. IMF
đã ước tính nền kinh tế toàn cầu sẽ bị giảm 7% trong thời gian sắp tới. |
Việc mạnh dạn thanh lý toàn bộ các món
nợ xấu và các doanh nghiệp đã phá sản sẽ gây cú sốc làm kinh tế chậm lại hoặc
suy thoái. Nhưng trong tương lai, điều này có thể lành mạnh hóa bảng cân đối
tài chính của doanh nghiệp và ngân hàng, làm cơ sở để có thể tăng trưởng ổn định
và bền vững hơn. |
Nguồn : Tác giả gửi Diễn Đàn.
No comments:
Post a Comment