Nguyễn Trọng Bình
Viet-studies
8/12/2017
1.
Từ Formosa, Đồng Tâm đến BOT Cai Lậy
Nếu chịu khó đọc hết những bài báo, video clip tường
thuật và phản ảnh việc các bác tài thể hiện sự phản đối việc thu phí ở trạm BOT
ở Cai Lậy, Tiền Giang những ngày qua sẽ thấy xã hội và con người Việt Nam hôm
này đang có sự phân hóa và chia rẽ rất sâu sắc. Chỉ mỗi chuyện thu phí trên một
đoạn đường thôi nhưng mọi thứ lại lộn tùng phèo cả lên chẳng khác gì một trò hề.
Và nếu xâu chuỗi thêm những vụ việc xảy ra gần đây nhất như Formosa hay Đồng
Tâm sẽ thấy xã hội và đất nước hiện nay phải nói rằng, trên thực tế xã hội và
con người Việt đang ở trong tình cảnh “bình yên giả tạo” vô cùng nguy hiểm. Nói
cách khác, đây là những chỉ dấu rõ ràng nhất cho thấy sự khốn cùng và bấn loạn
trong nhận thức lẫn hành xử của cả hai bên chính quyền và người dân hiện nay
trước những mâu thuẫn, bất đồng và tranh chấp.
Trước hết, về phía chính quyền, như một thông lệ, mỗi
khi xảy ra sự cố nào đó thì y như là những người có trách nhiệm cao nhất của đất
nước lại ra rả nói về những “bài học kinh nghiệm” được “nghiêm túc” rút ra. Đặc
biệt là sự cần thiết phải “đối thoại” giữa chính quyền với nhân dân để tìm sự đồng
thuận. Thế nhưng, sau hai sự cố gần nhất là Formosa và Đồng Tâm, đến nay là trường
hợp BOT Cai Lậy nhưng không hiểu sao chẳng có ai trong hệ thống chính quyền Nhà
nước đứng ra tổ chức “đối thoại” nghiêm túc mọi vấn đề với các tài xế. Có người
hoan nghênh Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã kịp thời ra quyết định
không thu phí BOT Cai Lậy trong một tháng để ổn định tình hình tuy vậy, nếu
phân tích kỹ sẽ thấy đây vẫn là một quyết định rất chậm trễ. Nên nhớ đây là lần
phản đối thứ hai của các bác tài đối với BOT Cai Lậy, và đáng nói hơn lần này
máu của người dân đã đổ (vụ một bác tài bị chém phải nhập viện ở Cần Thơ). Nói
cách khác, ở phương diện xã hội và pháp luật đây là vụ việc cực kỳ nghiêm trọng
chứ hoàn toàn không phải chuyện đùa. Qua đây, một lần nữa cho thấy sự chậm chạp
và lúng túng trong tư duy và nhận thức của cả hệ thống chính trị từ trung ương
đến địa phương; chỉ giỏi nói miệng mà không làm nên người dân ngày một bất mãn
và mất niềm tin.
Có thể nói, cho đến nay, nhìn bề ngoài về cơ bản
liên quan đến sự cố ở Formosa và biến cố ở Đồng Tâm đều được chính quyền Hà
Tĩnh và Hà Nội kiểm soát khá nghiêm ngặt và chặt chẽ. Riêng với biến cố ở Đồng
Tâm, sự kiểm soát này là sự đánh đổi hình ảnh và uy tín của ông Nguyễn Đức
Chung – Chủ tịch UBND TP của chính quyền Hà Nội. Bởi lẽ, sau khi quyết định “bẽ
kèo” (liên quan đến tờ cam kết “có một không hai” mà ông đã thỏa thuận không
truy cứu trách nhiệm hình sự người dân ở Đồng Tâm) thì niềm tin của người dân Đồng
Tâm dành cho cá nhân ông Chung đã hoàn toàn sụp đổ.
Và với trường hợp BOT Cai Lậy, phải chăng cũng đang
có một kịch bản tương tự được tính toán và cần nhắc nhằm giải quyết những chuyện
ồn ào trong những ngày qua? Trước hết có thể thấy đó là quyết định tạm dừng thu
phí trong vòng 1 đến 2 tháng của người đứng đầu Chính phủ để rà soát và tổng kiểm
tra; sau đó là sự vào cuộc nhanh chóng của Bộ Công an (khi ra lệnh điều tra dấu
hiệu kích động gây rối của các “đối tượng xấu”) đã ít nhiều cho thấy điều đó.
Đây có thể xem như một màn “song kiếm hợp bích” vừa để xoa dịu, trấn an dư luận,
ổn định tình hình trước mắt (đặc biệt các tài xế) nhưng đồng thời cũng sẵn sàng
trấn áp để răn đe bất chấp cái nguồn cơn đưa đến sự phản đổi và phẫn nộ của người
dân.
Từ thực tiễn về sự cố Formosa và biến cố ở Đồng Tâm
cùng rất nhiều sự vụ trước đó nữa cho thấy, rất có thể chính quyền sẽ tiếp tục
không chịu thua dân trong vụ này; hoặc nếu có thì cũng chỉ là thua trong tạm thời
nhằm mục đích kéo dài thời gian để câu giờ mà thôi. Nếu những người dân Đồng
Tâm bị khởi tố (dù tờ cam kết với giấy trắng mực đen in dấu điểm chỉ của ông
Nguyễn Đức Chung vẫn còn nguyên) thì sẽ không có gì lạ nếu như vài ngày tới một
vài bác tài nào đó bị triệu tập, điều tra và truy cứu. Mà không phải trước đó
đã có hai bác tài bị bắt về đồn, một người bị xử phạt và giam bằng (theo các luật
sư là sai luật) đó sao? Vậy nên, các bác tài cũng đừng vội mừng trước khi một kịch
bản nào đó được chọn sau hơn 1 tháng nữa trừ khi các bác tài bỏ nghề hoặc không
còn ngang qua địa phận Cai Lậy nữa.
Tuy vậy, như đã nói ở trên, việc kiểm soát người dân
của chính quyền trong các sự vụ trên chỉ là “bề ngoài”, còn thực chất “bên
trong” người dân đang thực sự nghĩ gì, muốn gì thì chính quyền khó mà đoán định
và biết chắc được. Có thể thấy, vì miếng cơm manh áo, người dân hôm nay đã
không còn rụt rè trước những bất công như trước đây nữa. Sự đối phó của họ cũng
ngày một tinh vi và “sáng tạo” hơn. Đáng sợ nhất là có không ít người vì cuộc sống
bức bách đã không tự kìm chế nên đã bất chấp tất cả thậm chí cả mạng sống của
mình…Thế nên, dù thế nào thì cũng chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu như chính
quyền không thay đổi và điều chỉnh lại nhận thức và hành vi của mình.
Một chính quyền vì dân thì không thể và không được
tùy tiện quy chụp, kết tội người dân bởi sự phẫn nộ của họ vốn có nguồn cơn tự
sự tắc trách và vô cảm của mình. Hay một “Chính phủ kiến tạo và phục vụ” không
thể là một Chính phủ chỉ biết kéo dài thời gian trong khi bản chất của sự việc
đã rõ hơn ban ngày.
“Tức nước vỡ bờ”, “con giun xéo lắm cùng oằn” đó là quy luật và chân lý muôn thuở. Với những gì đã và đang xảy ra nếu
chính quyền cứ tiếp tục lặp đi lặp lại cách hành xử, ứng xử với người dân như
hiện nay thì e rằng câu nói “Lật thuyền mới biết sức dân như nước”
(“Phúc chu thủy tín dân do thủy”) của đại thi hào Nguyễn
Trãi năm xưa rất có thể sẽ trở thành hiện thực trong một tương lai không xa?
2.
Từ vấn đề “đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục” đến chuyện cải tiến chữ viết
Câu chuyện cải tiến chữ viết tiếng Việt gây ồn ào những
ngày qua cũng là một bằng chứng cho thấy người Việt hôm nay đang không làm chủ
được bản thân nên mạnh ai nấy nói, mạnh ai nấy phô diễn tầm hiểu biết “bách
khoa toàn thư” của mình trong thời đại công nghệ số. Nếu như ở các vụ Formosa,
Đồng Tâm hay BOT Cai Lậy, sự bấn loạn và khốn cùng trong tư duy và nhận thức của
người Việt có nguyên nhân từ sự bất bình đẳng về kinh tế, về quyền lợi vật chất
giữa một bên là các nhóm lợi ích thân hữu với một bên là đại bộ phận nhân dân
lao động thì sự bấn loạn và khốn cùng trong vụ cải tiến chữ viết Tiếng Việt lại
cho thấy nỗi mặc cảm và ảo tưởng của người Việt trong xu thế hội nhập.
Trước hết có thể thấy, nguyên nhân cụ thể và trực tiếp
nhất tạo ra cuộc tranh cãi này là do những cá nhân (đầu tiên là các anh chị
phóng viên nhà báo phụ trách mảng văn hóa, sau đó là một số “trí thức” trong
các lĩnh vực không liên quan) tuy không có chuyên môn về ngôn ngữ học nhưng lại
vội vàng và nhất là bất chấp những bài viết của các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp
lẫn các chuyên gia văn hóa; chưa chi đã tung hô và tán dương ý tưởng của PGS
Bùi Hiền; cho đây là những ý tưởng mới rồi tự cho mình
cái quyền đứng ra làm “trọng tài” phân xử, lên tiếng phê phán những người không
ủng hộ PGS Bùi Hiền bằng những lời lẽ không những ngụy biện mà còn rất trịch
thượng…
Thậm chí, nhiều người cho đến nay vẫn cứ “chấp mê bất
ngộ” dù rằng các nhà ngôn ngữ học với hiểu biết chuyên sâu đã có nhiều bài phân
tích nhằm chỉ ra những điểm bất hợp lý và không có gì mới trong
công trình của PGS Bùi Hiền một cách công phu và nghiêm túc. Đáng nói hơn, có
người còn đánh tráo khái niệm và suy diễn vô căn cứ khi lái vấn đề sang chuyện
“tự do học thuật” hay chuyện tuổi tác của PGS Bùi Hiền để bào chữa và bênh vực
cho ông. Trong khi đó, nhìn một cách tổng thể cho đến nay không một chuyên gia
ngôn ngữ hay văn hóa nào (trên báo chính thống lẫn mạng xã hội) “ném đá” cá
nhân PGS Bùi Hiền. Cũng chẳng có ai cấm không cho PGS Bùi Hiền tiếp tục nghiên
cứu. Có chăng những người “ném đá” là những độc giả bình dân đã bình luận, bình
phẩm dưới dạng các comment mà thôi. Thế nên, cuối cùng chính những kẻ luôn miệng
cho rằng những người phản đối công trình của PGS Bùi Hiền là không có “văn
hóa tranh luận”, “văn hóa phản biện” lại vi phạm tất cả những điều ấy!
Thực ra, người Việt, xét về tầm vóc và tư tưởng nói
cho cùng là một dân tộc chỉ có thể “dụng thuyết” chứ không có khả năng “lập
thuyết”. Ngoài ra, do bị ảnh hưởng và chi phối nặng nề bởi những mặt tiêu cực
trong nền “văn hóa tiểu nông” rất lâu đời (vấn đề này đã có nhiều người bàn) đặc
biệt là tính chất “ăn xổi ở thì”, tầm nhìn ngắn hạn, chỉ thấy cái lợi trước mắt…
vì vậy mà cho đến nay người Việt vẫn chưa có những phát minh, phát kiến vĩ đại
nào để đóng góp cho nhân loại (ngoại trừ một phát kiến duy nhất của GS Ngô Bảo
Châu được bạn bè quốc tế công nhận vào năm 2010).
Tuy vậy, ở phương diện ngược lại, phải thừa nhận người
Việt cũng có một thế mạnh là rất nhạy bén trong vấn đề tiếp thu và thích ứng
khá nhanh với những cái mới chứ không phải là dân tộc hay “kỳ thị”, “bảo thủ”
trước cái mới như một số người trong khi bênh vực ý tưởng của ông Bùi Hiền suy
diễn và khẳng định. (Chê bai một vấn đề nào đó không có nghĩa là kỳ thị cái mới).
Nhìn lại lịch sử sẽ thấy, nếu người Việt là dân tộc
kỳ thị cái mới thì chắc chắn sẽ không có chữ quốc ngữ với mẫu tự latinh như hiện
nay; nếu kỳ thị cái mới chắc chắn các cụ Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu… sẽ
không phải vất vả vận động, thành lập các phong trào như Duy Tân, Đông Du…để phổ
biến, tuyên truyền tri thức mới cho các tầng lớp nhân dân với mục đích lớn lao
là khai dân trí, chấn dân khí... trong thời kỳ thuộc Pháp. Tương tự vậy, trên
lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, những năm 30 của thế kỷ trước, nếu kỳ thị cái mới
hẳn hôm nay chúng sẽ không có “Thơ mới”; không có sân khấu, không có cải lương,
không có điệu nhạc bolero (cũng đang gây tranh cãi)… Hay nói đâu xa, nếu kỳ thị
cái mới hẳn là các thế hệ trẻ Việt hôm nay sẽ không bắt chước và thực hành theo
các thần tượng của họ là các tài tử, minh tinh nổi tiếng từ Âu sang Á…
Dẫu vậy, nếu phải nói về sự bảo thủ gây ra sự trì trệ
cho đất nước thì cũng phải khẳng định đây là vấn đề có thật. Nhưng sự trì trệ
này trên thực tế thuộc về một nhóm người đang nắm trọn quyền lãnh đạo và điều
hành đất nước mà thôi. Vì đã mấy chục năm qua dưới sự lãnh đạo của họ đất nước
đã không thể cất cánh như kỳ vọng và mong muốn nhưng họ vẫn kiên quyết không
thay đổi. Điều này thể hiện rõ nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và giáo
dục. Cuộc tranh cãi liên quan đến đề xuất của PGS Bùi Hiền ở phương diện nào đó
cũng có nguyên nhân từ chỗ này mà ra.
Cụ thể là, do một thời gian dài bị nhồi nhét bởi những
tri thức, kiến thức cũ kỹ, lạc hậu; lại thêm không được phép nghĩ khác, nói
khác nên đến khi mở cửa và hội nhập vơi sbạn bè quốc tế tất cả dân chúng gần
như đều cũng bị choáng ngợp và bỡ ngỡ. Giờ đây lại thêm sự bùng nổ của công nghệ
truyền thông với những tiện ích tối đa trên không gian mạng nên mạnh ai nấy thể
hiện bản thân mình. Nói cách khác, sự phản ứng lung tung (cả chê lẫn khen) theo
kiểu “tay nhanh hơn não” của không ít người Việt trên mạng xã
hội thời gian gần đây là do sự ức chế về mặt tâm lý (bởi trong
một thời gian dài họ không được tự do công khai trình bày quan điểm cá nhân trước
cộng đồng xã hội). Không gian mạng giờ đây chính là môi trường thuận lợi (nhưng
cũng đầy sự cám dỗ) để người Việt tự do “đi tìm cái tôi đã mất của
mình” trong mấy chục năm qua!
Một vấn đề nữa, do sự bảo thủ của những người lãnh đạo,
cầm quyền nên những cá nhân thực sự có tài năng và tư tưởng tiến bộ gần như hiếm
có cơ hội được đứng trong hàng ngũ của bộ máy điều hành đất nước. Hậu quả là,
xã hội và đất nước giờ đây, những kẻ được giao trọng trách liên quan đến lĩnh vực
văn hóa, giáo dục nói chung có khi lại là những kẻ vô giáo dục và vô văn hóa nhất.
Văn hóa và giáo dục của một dân tộc, một đất nước là vấn đề cực kỳ quan trọng
nhưng lại được định hướng, dẫn dắt bởi những kẻ như thế (Những kẻ mà trên thực
tế chỉ có mỗi năng lực là tìm cách vẻ vời ra càng nhiều dự án càng tốt để qua
đó tham nhũng, kiếm chác nhưng miệng lúc nào cũng nhân danh cải cách và đổi mới)
thì hỏi sao không loạn xì ngầu cả lên?
Nói tóm lại, ở góc nhìn văn hóa, qua cuộc tranh cãi
này một lần nữa cho người Việt hôm nay đang thật sự bị bấn loạn trong tư duy và
nhận thức. Hay nói như một số người là đang rơi vào vòng xoáy của sự khủng hoảng.
Nguyên nhân sâu xa của chuyện này, ngoài vấn đề thuộc về “dân tộc tính” thì có
thể nói đây chính là hệ lụy của một nền giáo dục “nhồi sọ” và giáo điều; còn về
phương diện văn hóa là do sự thiếu tôn trọng chính kiến của con người cá nhân
trong một thời gian dài trước khi có sự bùng nổ của công nghệ thông tin và
không gian mạng.
3.
Thay lời kết
Ngày 13/11/2016, khi đến tham dự ngày Đại đoàn kết
dân tộc tại xã Phật Tích tỉnh Bắc Ninh, ông Nguyễn Phú Trọng - Tổng Bí thư Đảng
có phát biểu như sau:
"Có lẽ nhìn lại chưa bao giờ quê hương ta đẹp
như thế này, chưa bao giờ quê hương ta có đời sống văn hóa, kinh tế phát triển,
xã hội ổn định, thôn xóm có nhiều hình thức hoạt động mới. Con em được học hành
đến nơi đến chốn, đời sống của bà con có nghĩa có tình. Đó không chỉ là sự thay
đổi của Tiên Du, Bắc Ninh mà nhìn rộng ra là sự thay đổi của cả nước" (…) "Mặc dù bây giờ ra đường lắm chuyện khó chịu, nghe báo chí
nói rất nhiều chuyện tiêu cực hàng ngày, rất là bực mình. Tệ nạn tham nhũng,
cán bộ hư hỏng có cả nhưng nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế
này không?”
Có thể nói, với vai trò và vị trí tối cao của mình,
suy cho cùng phát biểu của ông Trọng âu cũng là lẽ đương nhiên và rất bình thường.
Vì trách nhiệm của ông là phải nói như thế, không thể nói khác. Tuy nhiên, với
những gì đang diễn ra trong xã hội hiện nay, nhìn sâu vào bản chất của hàng loạt
vấn đề, học theo cách nói của ông Tổng bí thư, tôi buộc phải nói
khác ông rằng:
“Nhìn một cách tổng thể, xã hội ta có bao giờ bấn loạn,
đồng bao ta có bao không yên như thế này không”?
CT, 8/12/2017
Tác giả gởi cho viet-studies ngày
8-12-17
No comments:
Post a Comment