Sunday, May 21, 2017

PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ (Nguyễn Huy Vũ - ECONOMICA)




Nguyễn Huy Vũ  -  ECONOMICA
20.5.2017

Ngày 15 tháng 4 năm 1865 tại Sài Gòn, tờ báo tiếng Việt đầu tiên của Việt Nam, tờ Gia Định báo, chủ trương bởi Petrus Trương Vĩnh Ký, lần đầu tiên được ra đời ở miền Nam, đánh dấu sự phổ biến chính thức của tiếng Việt trong đời sống thông tin truyền thông hiện đại. So với nhiều ngôn ngữ khác vốn có chữ viết từ rất lâu, tới hàng ngàn năm, chữ Quốc ngữ có một lịch sử rất non trẻ. Trong suốt một thời gian dài, để gửi đi những thông điệp, người Việt mượn chữ của tiếng Hoa, và sau đó sáng tạo ra chữ Nôm. Tuy vậy, cả hai thứ tiếng này thường chỉ phổ biến trong một giới nhỏ những quan lại và giới học sỹ. Phần đông những người bình dân chẳng thạo và do đó không thể lưu truyền được gì đáng kể lại cho hậu thế. Sự thiếu vắng một hệ thống chữ viết phổ biến để lại nhiều hệ quả lâu dài cho người Việt.

Nguồn ảnh: Internet.

Bất cứ một sự phát triển nào cũng dựa trên nền tảng kế thừa. Những kiến thức của thế hệ đi trước được ghi chép, truyền lại cho những thế hệ sau. Những thế hệ sau kế thừa những thành tựu của thế hệ trước rồi khai triển, phát kiến ra những điều mới. Việc thiếu một hệ thống chữ viết khiến cho những kiến thức trong dân gian đa phần chỉ dừng lại ở mức độ truyền miệng, và một khi truyền miệng thì những kiến thức đó thường chỉ ở mức độ đơn giản. Vì lý do đó mà những người Việt hôm nay, một cách thành thật, nhìn lại ngược dòng lịch sử để thấy rằng các sáng tác và khảo cứu của người Việt chúng ta rất nghèo nàn, từ khoa học kỹ thuật cho đến văn chương hầu như chẳng có bao nhiêu. Tất cả chỉ có những sáng tác văn hóa truyền miệng với ca dao, tục ngữ và vài tác phẩm đếm trên đầu ngón tay trong đó có Truyện Kiều của Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm được nhiều người nhắc đến. Nhưng hãy suy nghĩ thật lòng rằng liệu một dân tộc tự hào có đến 4000 năm văn hiến nhưng di sản chỉ vỏn vẹn có vài tác phẩm sơ sài đếm trên đầu ngón tay như thế thì liệu có được gọi là quá nghèo nàn về văn hóa lắm không?

Ảnh hưởng tiêu cực thứ hai của việc thiếu một hệ thống chữ viết phổ biến đó là người Việt trong một thời gian dài không được làm quen với truyền thống đọc sách, trân quý sách, và cổ vũ cho việc viết sách. Việc không có truyền thống đọc sách đến lượt nó ảnh hưởng đến suy nghĩ của người Việt; người Việt đa phần không có thói quen ghi chép tỉ mẫn cũng như viết lại những kinh nghiệm để lưu truyền hậu thế. Một văn hóa tri thức và tôn trọng tri thức do đó hầu như vắng bóng ở người Việt. Nhiều người học chủ yếu để lấy bằng cấp thăng quan tiến chức, chứ không phải học vì sự hiểu biết, thúc đẩy sự phát triển của khoa học, truyền bá kiến thức hay đóng góp vào sự phát triển của quốc gia.

Sự phát triển mạnh nhất trong văn hóa đọc và tri thức của người Việt trong dòng lịch sử cho đến nay có lẽ là giai đoạn 20 năm dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Đó là khoảng thời gian khi mà chữ Quốc ngữ được phổ biến rộng rãi và sự tự do đã cho phép nở rộ các sáng tác nghệ thuật và khoa học. Sự phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn này còn nhờ ở đó một lớp trí thức Tây học, những người được đào tạo trong nền giáo dục Tây phương, thông thạo ngoại ngữ, đóng vai trò truyền tải những kiến thức của Tây phương sang văn hóa và khoa học Việt Nam. Sự phát triển đó đột ngột dừng lại kể từ sau ngày chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam sụp đổ, khi mà chính quyền mới đã bỏ tù hoặc đẩy ra nước ngoài những cá nhân tinh hoa của Việt Nam, đốt sách và triệt tiêu những sáng tạo tự do. Nên lưu ý một điều rằng những trí thức đóng góp vào sự phát triển của chế độ miền Nam Việt Nam bao gồm những người miền Nam cùng với những người miền Bắc chạy trốn cộng sản năm 1954.

Những kinh nghiệm phát triển đó cho chúng ta thấy rằng nếu muốn đất nước có một nền văn hóa và khoa học phát triển, chúng ta phải thực hiện song song hai điều. Đầu tiên, đó là sự phát triển tiếng Việt; và thứ hai, đó là nuôi dưỡng một thế hệ trí thức Tây học, những người thông thạo ngoại ngữ, được đào tạo một cách bài bản trong những môi trường giáo dục ở các nước phát triển. Những trí thức này sẽ đóng vai trò là cầu nối chuyển tải những kiến thức và kinh nghiệm của các nước phát triển về cho Việt Nam. Bên cạnh đó, việc phát triển tiếng Việt tới lượt nó thúc đẩy một văn hóa tri thức nơi người dân yêu thích đọc sách, viết sách, vào trao đổi tri thức với nhau. Có như vậy thì nền văn hóa và khoa học Việt Nam mới nở rộ và cất cánh.

Vậy đâu là những chính sách cụ thể để thực hiện những điều trên?

Trước hết, hãy tham khảo cách người Singapore, vốn khởi đầu là một đảo quốc thuộc địa của Anh nơi cư dân đa số là người Hoa và thạo tiếng Hoa nhiều hơn là tiếng Anh, xây dựng thành công một đất nước thịnh vượng nơi mà các thế hệ trẻ sử dụng thông thạo tiếng Anh. 


KINH NGHIỆM SINGAPORE 

Singapore là một ví dụ để cho thấy rằng sự chọn lựa trong chính sách của người lãnh đạo không những làm thay đổi văn hóa và suy nghĩ của một lớp người mà còn ảnh hưởng đến vận mệnh và tương lai của một quốc gia, dân tộc.

Khi bị đẩy ra khỏi liên bang Malaysia và buộc trở thành một quốc gia độc lập, Singapore đứng giữa những ngổn ngang của chọn lựa các chính sách, mà một trong các số đó là chọn cho mình một ngôn ngữ chính thức. Cho đến lúc này, Singapore là vùng đất của những người nhập cư, với đủ các tộc người, người Hoa, người Ấn, người Malay, người Anh,…, mà trong đó người Hoa là thành phần chiếm đa số. Đứng giữa hai lựa chọn tiếng Hoa và tiếng Anh, chính phủ đầu tiên của Singapore đã chọn tiếng Anh vì lý do đơn giản rằng đó là ngôn ngữ của giao thương và tri thức. Chỉ bằng cách duy trì tiếng Anh và một hệ thống luật lệ, hệ thống chính trị kiểu Anh – mà sự thành công đã được kiểm nghiệm – Singapore đã có thể đặt những nền móng vững chắc cho sự tồn tại của một quốc gia non trẻ. Những chính sách sau đó từ giáo dục, quốc phòng, ngoại giao, thương mại đều là những tham khảo và áp dụng từ các nước Anh, Hoa Kỳ, Israel, Thụy Sỹ, và Hà Lan. Và Singapore thành công như ngày hôm nay là nhờ ở sự liên tục cải tiến và học hỏi, mà có được điều đó phần lớn là nhờ ở người Singapore thạo tiếng Anh. Nhờ có thạo tiếng Anh và chăm chỉ mà họ cập nhật được những tri thức mới một cách dễ dàng và buôn bán một cách tự tin với phần còn lại của thế giới.

Không phải là không có chống đối khi chính phủ chọn tiếng Anh làm ngôn ngữ chính thức và bắt buộc làm ngôn ngữ giảng dạy chính thức ở các cấp học. Phản ứng đầu tiên dĩ nhiên đến từ cộng đồng người Hoa với các trí thức. Ngay khi Singapore độc lập, những đại diện của Phòng Thương Mại Hoa Kiều ở Singapore đến văn phòng của Lý Quang Diệu đề nghị ông chọn tiếng Hoa làm ngôn ngữ quốc gia và ngôn ngữ hành chính. Đáp lại là một cái lắc đầu và trừng mắt cùng lời đe dọa sẽ đập tan những kế hoạch như vậy.

Giới trí thức người Hoa, mà nhiều trong số họ thiên tả, chịu sự ảnh hưởng của Trung Cộng, mang trong mình mầm mống chống lại sự cai trị của chính phủ Lý Quang Diệu – một chính phủ thân phương Tây và chống cộng sản kịch liệt. Họ tập trung chủ yếu ở trường Đại học Nam Dương (Nanyang University), một trường đại học được dựng lên bởi các nghiệp đoàn người Hoa. Đại học Nam Dương ban đầu, do đó, dạy chủ yếu bằng tiếng Hoa.

Ngay khi Singapore độc lập, những gia đình người Hoa nghĩ rằng, giờ đây, sau khi độc lập khỏi liên bang Malaysia, đã đến lúc cho con em mình học bằng tiếng Hoa. Số lượng sinh viên vào đại học học bằng tiếng Hoa tăng nhanh chóng, phải hơn một nửa lượng sinh viên.

Chính phủ Lý Quang Diệu, vốn phải chiều lòng cộng đồng người Hoa để lấy phiếu trong các kỳ bầu cử, buộc phải ngó lơ, cho phép duy trì trường đại học dạy bằng tiếng Hoa. Song song đó là củng cố và hỗ trợ các cơ sở dạy bằng tiếng Anh khác. Những sinh viên ra trường, chỉ nói tiếng Hoa, không thạo tiếng Anh trở nên khó xin được việc. Điều đó dẫn đến một hiện tượng là các học sinh giỏi bắt đầu chuyển sang đầu quân vào các trường dạy tiếng Anh vốn được chính phủ hỗ trợ nhiều hơn để ra trường dễ xin được việc làm. Đến năm 1978 thì trường Đại học Nam Dương đứng trên bờ vực của sự phá sản khi các sinh viên ra trường hầu như không thể kiếm được việc làm, vì nó không còn là nơi đào tạo những sinh viên xuất sắc và họ cũng chỉ thạo được tiếng Hoa trong một môi trường đòi hỏi phải dùng tiếng Anh.

Thị trường cuối cùng bắt trường Đại học Nam Dương chuyển sang dạy bằng tiếng Anh. Tuy vậy, các giáo sư đại học, vốn khi xưa lấy bằng chủ yếu từ Hoa Kỳ, sau một quãng thời gian không dùng tiếng Anh, giờ khả năng tiếng Anh không còn lưu loát nữa. Cuối cùng, chính phủ quyết định nhập trường đại học Nam Dương vào hệ thống trường Đại học Quốc gia Singapore (National University of Singapore).

Cho đến nay, hệ thống giáo dục của Singapore là một sự sao chép lại từ Anh cho hệ thống giáo dục của bậc phổ thông và từ Mỹ cho bậc giáo dục đại học. Sự sao chép đó không chỉ dừng lại ở các giáo trình được dạy và cách thức nghiên cứu mà ngay cả ở các tổ chức sinh viên và các hoạt động ngoại khóa cho sinh viên. Ở bậc phổ thông trung học, kỳ thi trước khi vào đại học ở Singapore được gọi là kỳ thi Singapore - Cambridge GCE Advanced Level. Đây là một kỳ thi được tổ chức bởi sự hợp tác của Bộ Giáo dục Singapore và Ủy ban Thi cử Đại học Cambridge (the University of Cambridge Local Examinations Syndicate -- UCLES). Chính nhờ một sự hợp tác như vậy mà kết quả của kỳ thi được công nhận trên toàn thế giới và giúp các sinh viên Singapore dễ dàng theo đuổi các chương trình đại học ở các trường đại học khắp nơi trên thế giới.

Cũng không chỉ có kỳ thi GCE A-level với sự hỗ trợ và giúp sức của Đại học Cambridge, sự thành công của hệ thống giáo dục Singapore cũng như sự thành công của các trường đại học Singapore có được là nhờ ở sự đóng góp vô cùng to lớn bởi sự hợp tác với các trường đại học danh tiếng thế giới. Trong đó phải kể đến viện y khoa DUKE-NUS, trường chính sách công Lý Quang Diệu hợp tác với Đại học Harvard, Liên minh Singapore-MIT cung cấp các chương trình nghiên cứu giảng dạy chung bậc sau đại học giữa đại học MIT của Hoa Kỳ với hai trường đại học hàng đầu của Singapore là Đại học Quốc gia Singapore (NUS) và Đại học Công nghệ Nam Dương (NTU), sự hợp tác giữa trường đại học Johns Hopkins của Hoa Kỳ và National Heathcare Group của Singapore, ngoài ra còn có nhiều các chương trình hợp tác khác giữa các khoa, viện giáo dục giữa Singapore và hai nước Anh, Hoa Kỳ.

Những sự thành công đó, khi nhìn lại, có được nhờ ở việc chính phủ Singapore chấp thuận việc sử dụng một hệ thống giáo dục theo mô hình Anh-Mỹ và dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ giảng dạy.


CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH

Chính sách của Singapore trong việc phát triển Anh ngữ như là một ngôn ngữ chính dùng trong giáo dục, khoa học, thương mại và hành chính, cùng với những kinh nghiệm trong việc phát triển và truyền bá văn hóa và khoa học của chính quyền miền Nam Việt Nam cung cấp những bài học kinh nghiệm đặt nền tảng cho sự phát triển của Việt Nam. Nền tảng đó xoay quanh hai mục tiêu: phát triển tiếng Việt và xây dựng một nền tảng tri thức dựa trên tiếng Việt; và song song đó phát triển một môi trường giáo dục, khoa học và kinh tế nơi có nhiều người Việt thạo tiếng Anh và dùng tiếng Anh một cách phổ biến hầu giúp trao đổi và cập nhật tri thức giữa Việt Nam với thế giới phát triển.

Dưới đây là những đề xuất về chính sách phát triển ngôn ngữ mà một chính quyền cần làm.

Đầu tiên, hãy lập một ủy ban phát triển ngôn ngữ. Ủy ban này sẽ chịu trách nhiệm trong việc đề ra những chương trình phát triển tiếng Việt và phổ biến tiếng Anh. Tại sao lại là một cơ quan đảm nhiệm cả hai ngôn ngữ? Việc kết hợp không chỉ thuần túy nhằm đơn giản hóa cơ cấu tổ chức, mà còn bởi vì trong suốt một thời gian dài những tiến bộ khoa học kỹ thuật của phương Tây đã liên tục xuất hiện, đi kèm với nó là những thuật ngữ mới được dùng trong khoa học. Nhiều thuật ngữ này, do đó, không có từ tiếng Việt tương đương để diễn tả. Hậu quả là những dịch giả khác nhau buộc phải tự sáng chế ra các thuật ngữ tiếng Việt tương đương cho các bản dịch của mình. Những sáng tạo này, dù đáng hoan nghênh, nhưng chưa hẳn đã chuẩn, diễn tả đủ ý, và còn đó sự dị biệt giữa những dịch giả khác nhau. Vì lý do đó, rất cần thiết có một cơ quan chịu trách nhiệm trong việc phối hợp phát triển thêm các chữ tiếng Việt, đặc biệt là các thuật ngữ khoa học, chuẩn hóa ngữ pháp, truyền dạy cách sử dụng tiếng Việt mà trong đó bao gồm việc giảng dạy và truyền bá cách viết văn, viết báo, soạn các văn bản khoa học và pháp lý, cũng như cổ vũ cho những sáng tác tiếng Việt.

Thứ hai, bên cạnh việc phát triển tiếng Việt, chính phủ nên đưa ra một sách lược lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ thứ hai (second language), chứ không phải ngôn ngữ nước ngoài (foreign language) như hiện nay. Vì những ích lợi của nó khi giúp người dùng nhanh chóng nắm bắt được kiến thức khoa học kỹ thuật của thế giới và mở ra các cơ hội đầu tư giao thương.

Thứ ba, hãy sửa đổi lại cách dạy tiếng Anh. Có rất nhiều ví dụ để tham khảo, gần nhất là Singapore, và xa hơn là các nước Bắc Âu. Ủy ban phát triển ngôn ngữ cùng với bộ Giáo dục có thể chọn ra một nhóm chuyên viên chịu trách nhiệm nghiên cứu và so sánh những mặt tích cực trong chương trình giáo dục Anh ngữ ở các nước nơi người dân thông thạo tiếng Anh như một ngôn ngữ thứ hai để rút ra những kinh nghiệm nhằm từ đó đào tạo lại hệ thống giáo viên dạy Anh ngữ.

Thứ tư, hãy khuyến khích và ủng hộ các đài truyền hình dùng nhiều các chương trình hoạt hình và giải trí bằng tiếng Anh kèm phụ đề tiếng Việt, nhất là các chương trình dành cho trẻ em. Hãy để trẻ em làm quen với tiếng Anh. Cách làm này vừa tiết kiệm được cho các đài truyền hình trong việc biên dịch mà còn giúp trẻ em nhanh chóng làm quen với một ngôn ngữ mới. Nhờ xem truyền hình tiếng Anh mỗi ngày như vậy từ bé mà người dân Bắc Âu ai cũng dùng sõi tiếng Anh.


Thứ năm, Việt Nam may mắn có một cộng đồng người Việt hải ngoại rộng lớn ở các nước nói tiếng Anh như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Anh. Hãy tạo điều kiện để các bạn trẻ ở các cộng đồng này về Việt Nam tham gia các chương trình dạy tiếng Anh ở các trường phổ thông, mỗi bạn sẽ dạy vài tháng trong một năm chẳng hạn, bù lại là chính phủ có thể trả các khoản hỗ trợ tượng trưng cho các bạn.


Thứ sáu, chính phủ nên có một lộ trình để bắt buộc các trường đại học dùng tiếng Anh làm ngôn ngữ để giảng dạy. Một lộ trình như vậy có thể được thực hiện trong 5 năm chẳng hạn. Những trường nào thực hiện trước sẽ có được những hỗ trợ về tài chính nhằm khuyến khích việc chuyển đổi nhanh chóng. Song song đó là những chi phí hỗ trợ kiếm việc làm mới cho các giảng viên không thể giảng dạy bằng tiếng Anh, và việc nâng mức lương cho các giảng viên mới. Những sinh viên thi tuyển đầu vào bắt buộc trải qua một vòng thi tiếng Anh. Nếu trình độ tiếng Anh kém, sinh viên buộc phải học một chương trình dự bị khoảng sáu tháng đến một năm trước khi bắt đầu vào chương trình chính thức. Đây không hẳn là một đề xuất mới, mà nó đã được thực hiện khá thành công bởi các trường đại học tư như Đại học FPT. Chính vì vậy nên nó cần được nhân rộng để tất cả các sinh viên khác đều có cơ hội được hưởng.


VAI TRÒ CỦA TIẾNG HOA

Việt Nam, cũng như hai nước láng giềng Đông Á khác là Nhật Bản và Hàn Quốc, chia sẻ nhiều nét tương đồng về văn hóa với Trung Quốc.

Sự tăng trưởng kinh tế liên tục của Trung Quốc trong suốt gần bốn thập niên đã biến Trung Quốc thành một cường quốc kinh tế và một siêu cường trên vũ đài thế giới. 

Với nhiều người Việt, Trung Quốc vừa là một cơ hội, vừa là một thách thức. Cơ hội là bởi vì Trung Quốc là một thị trường rộng mở tiềm năng và Việt Nam là một láng giềng với nhiều nét tương đồng. Một khi thị trường Trung Quốc được mở ra, nó không những cung cấp cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu, mà khi môi trường đầu tư Việt Nam tạo dựng được sự cạnh tranh, nó còn giúp thu hút những doanh nghiệp nước ngoài đặt trụ sở ở Việt Nam, sản xuất và xuất khẩu ngược trở lại vào thị trường Trung Quốc. 

Thách thức lớn nhất của Trung Quốc đối với Việt Nam đó là tham vọng độc chiếm biển Đông, và ở một mức độ nào đó là sự kềm tỏa Việt Nam trong vòng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Những chính sách cứng rắn của Trung Quốc khiến cho rất nhiều người, dù cảm thông với Trung Quốc, cảm thấy ái ngại và phản đối. Ở một mức độ âm thầm nhưng lan tỏa, nhiều người bắt đầu tẩy chay những hàng hóa của Trung Quốc, thậm chí cực đoan hơn từ bỏ cả những văn hóa đã từ lâu được «Việt hóa» và trở thành một phần trong nền văn hóa đầy sống động của Việt Nam. 

Một trong các đối tượng của sự phản đối và tẩy chay đó là tiếng Hoa. Phải nhấn mạnh một điều rằng tiếng Anh là một ngôn ngữ cần thiết mà tất cả những người Việt Nam cần thông thạo trước hết. Việc thạo tiếng Anh giúp người Việt dễ dàng nắm bắt được các kiến thức và thông tin của các nước phát triển cũng như giúp Việt Nam kết nối, trao đổi, và buôn bán với phần còn lại của thế giới. Tuy vậy, đối với một thị trường Trung Quốc nơi mà các giao dịch chủ yếu thông qua tiếng Hoa, việc có được một lực lượng thạo tiếng Hoa đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy các giao thương với Trung Quốc trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Việc thạo tiếng Hoa, bên cạnh đó, còn giúp người Việt hiểu thêm về văn hóa cổ của Việt Nam và văn hóa Trung Quốc. 

Vì những ích lợi như vậy cho nên bên cạnh sự tập trung phổ biến tiếng Anh, chính phủ nên có chính sách hỗ trợ trong việc giảng dạy tiếng Hoa như một môn học lựa chọn, và sự giảng dạy đó có thể bắt đầu từ cấp hai.

Nguyễn Huy Vũ

------------------------------

CÁC BÀI VIẾT KHÁC

20.5.17

20.5.17

1.4.17

30.3.17

29.3.17

24.3.17

17.3.17

17.1.17









No comments: