Tuesday, October 12, 2010

NHỮNG CÁNH HOA VIỆT NAM ĐANG BỊ VÙI DẬP (Tưởng Năng Tiến)

Tưởng Năng Tiến
12/10/2010 | 5:38 sáng

Khi còn trẻ, đôi khi, tôi cũng (thoáng) có ý định sẽ trở thành một người cầm bút. Ở một xứ sở mà phần lớn người ta đều cầm cuốc, cầm búa, cầm kìm hay cầm súng… mà định cầm viết thì quả là một chuyện khá viển vông – nếu không muốn nói là hơi xa xỉ.
Lúc không còn trẻ (nữa) tôi mới ngộ ra rằng: bút viết nó chọn người, chứ không phải là ngược lại – trừ khi mình cứ cầm đại thì không kể. Tôi không được (hay bị) lựa, và cũng không có  máu liều – như phần lớn quí vị trong Hội Nhà văn Việt Nam – nên chuyện viết lách kể như… huề, hay nói cách khác là… trớt quớt!
Xế chiều, đôi lúc, tôi lại (loay hoay) định xoay ra cầm phấn. Lại cũng chỉ “định” thế thôi, chớ rồi (ngó bộ) thấy cũng phiền. Tiếng Anh của tôi để đi chợ thì dư nhưng đi dậy thì chắc thiếu, thiếu chắc. Cứ dậy (ráng) cũng tội cho đám học trò. Thôi thì lại ngồi chơi (không) nữa đi cho nó khoẻ, bạn bè ai cũng khuyên như thế, bon chen danh lợi làm chi – đường trần đâu có gì – cho má nó khi.
Ôi, giá mà được “như thế” thật thì (chui cha) quí hóa biết chừng nào. Tuy không cầm cuốc, cầm búa, cầm súng, cầm bút, cầm phấn, cầm kìm… nhưng tôi lại chưa bao giờ chịu ngồi chơi suông cả. Nếu không cầm ly, tôi cũng cầm chai – thường thì cả hai – kể cả lúc chạy xe. Hậu quả: tôi bị DMV (Department of Motor Vehicle) thu hồi bằng lái, hoài hoài!
Qua đến lần thứ ba thì tôi đâm ra nổi tiếng, với biệt danh là “Tiến cầm chai”. Tăm tiếng kiểu này, rõ ràng, không được vinh dự gì cho lắm. Tôi cảm thấy không thoải mái lắm với cái “thương hiệu tay cầm chai” nên (từ đó) khi được mời đến nhà ai để dùng cơm, tôi luôn luôn mang theo một bó hoa – thay vì chai rượu. Nếu có ai hỏi tại sao lúc nào cũng cầm hoa thì tôi nói (trại) vì mình là… dân Đà Lạt!
Mọi người ai cũng tin như sấm, vì ai cũng biết thành phố quê hương sinh trưởng của tôi hoàn toàn (và tuyệt đối) không có cây trái gì ăn được cả. Không có xoài, không có nhãn, không có ổi xá lị, không có chôm chôm, sầu riêng, vú sữa, bòng bong, xa bu chê, măng cụt, mãng cầu, hay cam quít, mít dừa… gì ráo trọi. Chỉ toàn là bông với hoa thôi.
Cuộc sống của người dân Đà Lạt – tất nhiên –  được ướp đẫm bằng đủ loại hương hoa: hoa đào, hoa lý, hoa mai, hoa mơ, hoa mận, hoa huệ, hoa trà, hoa hồng, hoa nhài, hoa mộc, hoa qùi, hoa cúc, hoa thược dược, hoa vạn thọ, hoa mười giờ, hoa rẽ quạt, hoa bìm bìm, hoa cẩm chướng, hoa tường vy, hoa ngũ sắc, hoa pensé, hoa poppy, hoa glaieul, hoa violette…
Thưở ấu thơ, trên đường đến trường, lũ bé con chúng tôi hay hái hoa để tặng nhau. Và khi tan học, trên đường về, tôi luôn luôn “kiếm” một bó hoa thật đẹp để mẹ thắp hương. Càng lớn, tôi càng lơ là chuyện mang hoa về nhà cho mẹ cúng Phật nhưng chưa bao giờ quên đem hoa để tặng đào – dù chỉ một ngày.
Cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chuyện “hái dâng người một đoá đẫm tương tư” mới (đột nhiên) chấm hết.
“Ủa sao vậy? Bộ nàng lên xe bông (đột xuất) đi về nhà người khác hay sao?”
“Không, fiancée của tui chả có đi đâu ráo trọi nhưng tui thì có. Tui lên xe Molotova để đi…cải tạo!”
Cuộc đời tôi, kể như, trào máu – đã đành. Đời hoa, thương ôi, cũng “máu trào” lai láng:
Đụ mẹ
Cây bông
Hắn không
Lao động
Ai trồng
Chật chỗ
Mày nhổ
Xem sao
Máu trào
Thiên cổ
Đó là thơ của ông Sơn Núi. Ai sao tui vậy. Ai chửi bậy, tui chửi theo:
Tổ cha cây hồng
Sao không lao động
Mà mày trổ bông
Trây lười (lao động xã hội chủ nghĩa) là một thái độ không thể chấp nhận được trong chế độ mới; do đó, đất trồng bông được thay bằng những… vồng lang. Lá và đọt lang dùng để luộc, hay xào; củ để độn cơm, hoặc dùng thay cho… quà sáng!
Những cây bông hiếm hoi, còn sống sót, đều phải tham dự vào công tác lễ tân – rất nặng phần tôn giáo:
Nở ngàn hoa chiến công ta dâng lên Người. Dâng lên tới Ðảng cả niềm tin chiếu sáng ngời.
Sang giai đoạn đổi mới, khi cái đói bớt ám ảnh mọi người thì mì và lang cũng thôi mọc tràn lan trên từng cây số. Hoa được phục hồi, và được dùng vô cùng thoải mái trong việc hội họp, cũng như được tùy tiện mang dâng cho tất cả các đồng chí ở cấp lãnh đạo – chớ không chỉ dành (riêng) cho Người nữa.
Xin nhìn qua khung cảnh đại hội đại biểu nhiệm kỳ 2010-2015 của Đảng bộ TP Cần Thơ (tổ chức chính thức trong hai ngày 23 và 24/9/2010) trên trang Bauxite Việt Nam cho mãn nhãn:
Hội trường nơi diễn ra đại hội được trang trí rất nhiều hoa. Cứ gọi là tràn ngập hoa, giống với khá nhiều đại hội cấp tỉnh đã diễn ra, và điều này thật khác với nhiều đại hội trước đây… Nhiều hoa quá, đại hội nhang nhác một lễ mừng công, hay lễ cúng bái ở chùa chiền, không gần với cuộc sống…
Ông Lê Thanh Hải chỉ đạo đại hội bằng việc đọc một bài viết sẵn dài 7 trang A4. Trong đó có câu: “Tăng cường quản lý chặt chẽ việc đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng”, không biết có gợi cho vị đại biểu nào nhớ đến vụ công trình đại lộ Đông-Tây ở TP Hồ Chí Minh dẫn đến chuyện bắt ông Huỳnh Ngọc Sỹ vốn không xa lạ với ông Lê Thanh Hải hay không?”
Ông Hải phát biểu xong, ông Quyên rời chỗ ngồi ở đoàn chủ tịch đến giữa sân khấu đứng chờ, mời ông Hải ra để ôm và tặng hoa. Không biết xưa nay, có cấp trên nào đi chỉ đạo cấp dưới lại được cấp dưới ôm và tặng hoa như ở Cần Thơ hay không? Chỉ thấy tặng hoa giữa nơi đã tràn ngập hoa, thấy hoa không còn quý, mà thấy như đang xem sân khấu cải lương.
“Ủa, chớ cải lương chút xíu thì đã sao kìa?”
Cần Thơ, đất miền Nam, cái nôi của cải lương, chớ bộ Thái Bình, Quảng Bình hay Quảng Ngãi đâu mà không chịu “cải lương” – cha nội? Hơn nữa, Cần Thơ lại có bến Ninh Kiều – nơi xuất xứ hai câu ca dao (tân thời) nổi tiếng:
Chiều chiều ra bến Ninh Kiều
Dưới chân tượng Bác đĩ nhiều hơn dân
Ở một địa phương bầy hầy cỡ đó thì trưng bầy hoa hoè làm cảnh, để che bớt sự nhếch nhác, là một việc làm tế nhị đáng được biểu dương. Tương tự, trao hoa cho ông Lê Thanh Hải – đại diện cao cấp nhất và tai tiếng nhất của Đảng trong ngày đại hội – cũng là một sáng kiến thần tình của ban tổ chức. Hoa vốn thanh khiết, và tạo được cảm giác thư giãn. Nó có thể giúp cho người ta… ghìm cơn mửa!
Bởi vậy ở thời này (thời đểu cáng đã lên ngôi) hoa được dùng để trang trí cho mọi dịp hội họp, và để làm đẹp cho tất cả  qúi vị lãnh đạo các cấp, chớ đâu có riêng chi ông Lê Thanh Hải. Thử ngó hình những đảng viên đang được công luận nhắc đến nhiều nhất trong thời gian vừa qua coi – ông Trần Tiến Cảnh, ông Võ Kim Cự, ông Nguyễn Văn Ngọc, ông Phạm Thanh Bình, ông Nguyễn Trường Tô … –  họ đứng đâu, ngồi đâu mà không có một lẵng hoa bên cạnh.

Ông Trần Tiến Cảnh, đại biểu tỉnh Hà Nam, nổi tiếng về dung nhan và chỉ số IQ.

Ông Nguyễn Văn Ngọc, phó bí thư thường trực Tỉnh ủy Yên Bái, được dư luận đặc biệt quan tâm vì học bằng bằng tiến sĩ chỉ trong vòng vài tháng.

Ông Võ Kim Cự, chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh, cũng nức tiếng vì tốt nghiệp thạc sĩ MBA, ở hạng thủ khoa.

Ông Phạm Thanh Bình, Bí thư Đảng ủy, người có tài ảo thuật làm cho vài tỉ Mỹ kim biến thành những đống sắt vụn.

Ông Nguyễn Trường Tô, Chủ tịch UBND tỉnh Hà Giang, người nổi tiếng vì những hình chụp khỏa thân.
Nhìn ông Tô, bên cạnh những cành hồng, tôi lại nhớ đến lời kêu gọi khẩn thiết của nhà văn Hà Văn Thùy “trân trọng gửi đến quí ông Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng – vào ngày 20 tháng 7 năm 2010 – xin cứu vớt ngay hai cháu Nguyễn Thị Thanh Thúy và Nguyễn Thúy Hằng.”

Có lẽ vì sợ ba ông trên ở quá cao, không nghe được “lời kêu gọi khẩn thiết” của kẻ thấp cổ bé miệng, nên vài hôm sau – hôm 24 tháng 7 – bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (bút danh Mẹ Nấm) lại viết thêm một “Thư kiến nghị khẩn cấp” nữa, gửi đến những quí bà chức sắc ở cấp thấp hơn (Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Chủ tịch Hội Bảo vệ Quyền Trẻ em Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc Trẻ em Việt Nam,  Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em…) xin “hãy lên tiếng để bảo vệ các gia đình và các nạn nhân, các trẻ vị thành niên trong vụ án mua bán dâm tại Hà Giang.”
Không nghe ai trả lời (trả vốn) gì, ngoài tiếng chép miệng (thở dài) của một thường dân: “Nhẹ tay với thủ phạm nhưng nặng tay với nạn nhân là nghĩa làm sao?”
Tui cũng là thường dân (luôn) nên cũng đâu hiểu là nghĩa làm sao! Chỉ biết rằng hiện cảnh của hai em học sinh Nguyễn Thị Thanh Thúy, Nguyễn Thúy Hằng tuy thật đáng thương nhưng vẫn chưa đến nỗi ngặt nghèo – có thể bị lâm nguy đến tính mạng.

Tôi biết một cánh hoa thời loạn khác hiện ở vào tình trạng hung hiểm hơn nhiều, và gần như đang đang bị công luận bỏ quên. Em tên là Đỗ Thị Minh Hạnh, hai mươi lăm tuổi, bị bắt vào tháng Hai năm 2010 cùng với hai người bạn khác –  Đoàn Huy Chương, 25 tuổi, và Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, 29 tuổi.

Đến ngày 20 tháng 5 năm 2010,  Tổ chức HRW mới biết đến vụ bắt cóc này:
“Đã ba tháng rồi, và họ vẫn bặt vô âm tín”, ông Phil Robertson, Phó giám đốc phụ trách châu Á của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền nói. “Thông lệ đối xử khắc nghiệt với tù nhân chính trị ở Việt Nam khiến chúng tôi quan ngại rằng chính quyền có thể sử dụng các biện pháp tàn nhẫn, phi nhân tính hoặc nhục mạ, thậm chí tra tấn – để buộc ba nhà hoạt động trẻ tuổi này phải nhận tội.”
Đoàn Huy Chương là một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội Đoàn kết Công Nông và đã từng bị tù 18 tháng vào năm 2006 với tội danh “lợi dụng tự do dân chủ”. Thân phụ của Chương, ông Đoàn Văn Diên, cũng bị bắt với tội danh trên cùng năm 2006, hiện vẫn đang bị giam ở Trại B5, thuộc tỉnh Đồng Nai. Nguyễn Hoàng Quốc Hùng và Đỗ Thị Minh Hạnh tích cực ủng hộ phong trào khiếu kiện của Dân Oan, hỗ trợ công nhân nghèo và nông dân mất đất đòi chính quyền phải xem xét lại việc đền bù cho họ.
Kể từ khi bị bắt – mà không một đài báo chính thức nào ở Việt Nam đưa tin – chính quyền vẫn không cho phép gia đình và luật sư liên lạc với ba người này, ngoại trừ một lần thân mẫu của Đỗ Thị Minh Hạnh được gặp con vào ngày 14 tháng Năm.”
Đỗ Thị Minh Hạnh, Nguyễn Thị Thanh Thúy, Nguyễn Thúy Hằng… chỉ là vài ba, trong số hàng chục (triệu) cánh hoa Việt Nam – đang bị vùi dập –  giữa thời ly loạn!

© 2010 Tưởng Năng Tiến
© 2010 talawas
.
.
.

No comments: