Monday, October 11, 2010

HOA KỲ và VIỆT NAM LIÊN KẾT VÌ QUAN NGẠI CHUNG VỀ TRUNG QUỐC

Cymbidium, X-Cafe chuyển ngữ
10.10.2010

HÀ NỘI - Chuyến thăm Việt Nam tuần này của bộ trưởng quốc phòng Robert M. Gates là bước mới nhất trong mối quan hệ song phương nồng nhiệt nhất kể từ khi quan hệ ngoại giao được thành lập từ 15 năm trước.
Tiến triển đều đặn của những dấu hiệu chín chắn đã xói mòn sự thù hận của chiến tranh Việt Nam, tạo nên một nền móng tin tưởng ngày càng gia tăng và một phần lớn, chuyển sự chú ý của hai quốc gia từ các vấn đề trong quá khứ đến hiện tại.
Đây là chuyến thăm Việt Nam thứ hai ở cấp bộ trưởng trong bốn tháng; Ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton đã đến vào tháng Bảy. Trao đổi ở cấp độ này đã trở thành gần như thường lệ.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng, giám đốc Viện Đông Dương tại Đại Học George Mason ở Virginia nói "Tôi có thể nói rằng mối quan hệ đang ở điểm cao nhất trong 15 năm. Căn bản là chúng ta đã dẹp bỏ các rào cản chủ yếu về sự nghi ngờ trong quan hệ quân sự, và tôi có thể đoán là nhiều điều sẽ tiến hành rất nhanh."
Ông Gates dự kiến sẽ gặp Tướng Phùng Quang Thanh, bộ trưởng quốc phòng Việt Nam, tại một buổi họp của các bộ trưởng quốc phòng của 10 thành viên trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á và các quốc gia đối tác.
Vấn đề Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trong vùng Biển Đông là mối quan tâm chính được chia sẻ bởi hai quốc gia và điều này nhấn mạnh sự thay đổi liên minh trong 35 năm kể từ khi chiến tranh đã kết thúc.
Đó là một vấn đề khá trớ trêu. Trong lúc chiến tranh, Hoa Kỳ tìm cách ngăn chặn cộng sản Trung Quốc lan vào Việt Nam. Ngày nay họ liên kết với Việt Nam vì lo ngại về sự leo thang chủ quyền hàng hải của Trung Quốc.
Trung Quốc là một đồng minh của miền Bắc Việt Nam trong cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ trong thập niên 1960 và thập niên 1970 và hiện nay là một đối tác của một Việt Nam thống nhất trong một mối quan hệ khó khăn giữa các quốc gia cộng sản có kích thước rất khác nhau.
Ông Hùng nói "Việt Nam lo ngại về Trung Quốc ở Biển Đông và Mỹ lo ngại về Trung Quốc can thiệp vào tự do hành hải. Vì thế, các chiến lược lợi ích của Việt Nam và Hoa Kỳ cùng hội tụ."
Tuần trước, Việt Nam yêu cầu thả một chiếc thuyền đánh cá và chín thủy thủ đoàn bị bắt giữ cách đây một tháng gần các hòn đảo tranh chấp. Trung Quốc cho biết thủy thủ đoàn phải trả tiền phạt, và Việt Nam khẳng định rằng các thủy thủ đoàn bị ngược đãi.
Trong tháng Ba, ít nhất một viên chức cao cấp Trung Quốc nâng cao mức độ chủ quyền lãnh thổ của họ, khẳng định với hai viên chức cao cấp của Nhà Trắng đến thăm Bắc Kinh rằng Biển Đông là một "quyền lợi cốt lõi", một cụm từ đưa vùng biển đó ngang hàng với Đài Loan và Tây Tạng, hai quyền lợi lãnh thổ nhạy cảm nhất của họ.
Để đáp lại, trong chuyến thăm Hà Nội vào tháng Bảy, bà Clinton làm cứng rắn lập trường của Washington bằng cách tuyên bố rằng Hoa Kỳ có một "lợi ích quốc gia" về tự do hành hải trong khu vực.
Để cân bằng quan hệ giữa hai cường quốc, Việt Nam cất công trấn an Trung Quốc, anh khổng lồ trước cửa nhà của mình, rằng họ sẽ không có liên minh, căn cứ quân sự hay hợp tác quân sự đe dọa họ.
Trong khi Việt Nam đánh dấu kỷ niệm 15 năm quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ trong năm nay, họ cũng tán dương một mối quan hệ ngoại giao dài hơn 60 năm với Trung Quốc.
Sự cởi mở của Hà Nội đối với Washington đã bị chậm lại vì những nghi ngờ về động cơ của Mỹ và về cam kết cho một chính sách Việt Nam.
Theo các nhà phân tích, Hà Nội hiểu rằng đối với Washington, quan hệ với Việt Nam luôn luôn là một phần của lợi ích quốc tế lớn hơn, và Washington có thể thay đổi khi những lợi ích thay đổi.
Một lần nữa, như trong thời chiến, lập trường của Hoa Kỳ đối với Việt Nam là một phần trong chính sách về Trung Quốc bao quát hơn.
Nhưng từng bước một, hai kẻ cựu thù của thời chiến tranh đã từ từ tiến gần đến nhau hơn. Quan hệ thương mại được bình thường hóa trong năm 2006. Tàu Hải Quân Hoa Kỳ ghé thăm Việt Nam trở thành thường xuyên hơn kể từ lần đầu tiên vào năm 2003.
Ông Carlyle Thayer, một chuyên gia về Việt Nam tại Học Viện Quốc Phòng Úc tại Đại Học New South Wales ở Sydney cho biết "Đó là một nhịp độ hoàn toàn có chủ ý mà họ muốn giữ ở đây. Chẳng bên nào muốn bị bên kia lợi dụng, nhưng cả hai đều muốn thúc đẩy mối quan hệ."
Tháng trước, bà Clinton sum sê nói, "Tiến bộ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thật ngoạn mục." Các quan chức Việt Nam không đến nỗi hồ hởi như thế, nhưng dường như họ đồng ý.
Ông Lê Công Phụng, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, trong bài phát biểu được trích dẫn bởi Việt Nam Thông Tấn Xã tháng trước cho biết "Việt Nam và Hoa Kỳ đang hưởng một giai đoạn tuyệt vời của mối quan hệ song phương."
Quan hệ nồng ấm tiếp tục bị chậm lại bởi mối quan ngại của Hoa Kỳ về vi phạm nhân quyền tại Việt Nam và bởi Hà Nội nghi ngờ rằng Washington đang lợi dụng vấn đề này để làm suy yếu chính quyền cộng sản.
Chính phủ Việt Nam thường sử dụng những cụm từ "diễn biến hòa bình" và "cách mạng màu", để diễn đạt quan điểm của họ là sự sụp đổ của Liên Xô và những chính phủ cộng sản Âu Châu khác đã xảy ra ít nhất phần nào bởi sự hỗ trợ từ bên ngoài cho dân chủ và nhân quyền.
Những lo sợ trái ngược nhau liên quan đến nhân quyền chính nó hoá thành cái vòng luẩn quẩn. Mối lo sợ động cơ của Hoa Kỳ đưa Việt Nam đến việc bắt giam các nhà bất đồng chính kiến mà họ nghĩ là có kết nối với Tây Phương. Và những vụ bắt bớ đó đâm ra làm gia tăng mối quan ngại của Washington về vi phạm nhân quyền.
Bà Kim Ninh, đại diện quốc gia tại Việt Nam cho Quỹ Á Châu với trụ sở ở California cho biết sự liên kết giữa hai quốc gia về vấn đề Biển Đông chứng tỏ sự xuất hiện của một mối quan hệ hướng về tương lai nhiều hơn.
Đối với Hoa Kỳ, vấn đề chính từ trước đến giờ vẫn tiếp tục là tìm kiếm đầy đủ các quân nhân còn mất tích từ cuộc chiến, mặc dù mối quan tâm đó không còn chủ yếu như xưa.
Đối với Việt Nam, vấn đề hậu chiến chính còn sót lại là đòi hỏi Hoa Kỳ hỗ trợ nhiều hơn trong việc giải quyết những hậu quả của chất độc da cam, một chất khai quang hóa học đã được rải ở nhiều vùng của quốc gia này, gây nhiều dị tật bẩm sinh.
.
.
.

No comments: