Cô dâu và lao động Việt tại Ðài Loan (Kỳ 1)
Hà Giang/Người Việt
Tuesday, October 05, 2010 7:57:36 PM
ÐÀI LOAN - Sau năm ngày được Bộ Du Lịch Ðài Loan hướng dẫn đi thăm những thắng cảnh và điểm hẹn nổi tiếng của hòn đảo nằm ở phía Ðông Nam Trung Quốc, có cái tên thơ mộng là Formosa - “hòn đảo xinh đẹp” - chiều 12 tháng 9, chúng tôi háo hức đáp xe taxi từ Ðài Bắc đến Ðào Viên, thăm “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam,” một tổ chức phi chính phủ, do Linh Mục Nguyễn Văn Hùng tổ chức.
Một số “Lao Ðộng Di Dân” Việt Nam tụ tập cùng công nhân các sắc dân khác trong cuộc biểu tình phản đối sự đàn áp và mạnh tay của cảnh sát Ðài Loan khi lùng bắt những “Runaway Migrant Workers” (Lao Ðộng Di Dân bỏ chạy). (Hình: Hà Giang/Người Việt)
Tại nơi đây, chúng tôi sẽ có cơ hội gặp gỡ, chuyện trò, tâm sự và tìm hiểu về đời sống của công nhân Việt Nam qua Ðài Loan theo diện “xuất khẩu lao động,” hoặc các cô dâu Việt Nam lấy chồng Ðài Loan, hiện đang sinh sống tại đây.
Chính phủ Ðài Loan có chương trình “nhập cảng người lao động” rất mạnh mẽ. Theo tài liệu của Bộ Lao Ðộng Ðài Loan, hiện xứ sở này có khoảng 360 ngàn lao động di dân, đa số đến từ những nước đang phát triển, như Indonesia, Philippines, và Việt Nam, trong đó theo tài liệu của Bộ Lao Ðộng Ðài Loan, người lao động di dân đến từ Việt Nam đông hàng thứ nhì, chỉ sau Indonesia.
Những “lao động di dân” này, đến Ðài Loan với ước mơ tìm cách giải quyết cuộc sống cực kỳ khó khăn nghèo túng của họ tại quê nhà, và để đổi lại nguyện vọng “kiếm một ít tiền mang về quê hương sau một thời gian lưu đầy,” họ phải đảm nhận những công việc mà người Ðài Loan mệnh danh là công việc “3 Ds,” những công việc mà người dân bản xứ “chê,” không ai thèm làm.
“3 Ds” là gì?
Ðó là 3 chữ D, bắt đầu của những chữ: “Difficult” (khó khăn), “Dirty” (bẩn thỉu), và “Dangerous” (nguy hiểm).
Tại sao lại Difficult?
Cứ hỏi cô Thu thì biết!
Chúng tôi tình cờ gặp Thu, 24 tuổi, và Hạnh, 26 tuổi, hai cô gái lao động di dân khi đi thăm “chợ đêm” ở một ngoại ô của Ðài Bắc. Giữa những tiếng bản xứ líu lo lạ tai, chúng tôi mừng rỡ khi thoáng nghe được tiếng Việt Nam, và quyết định tiến đến chào hỏi.
Một cô dâu người Việt Nam lấy chồng Ðài Loan tại Ðài Bắc trả lời: “Hạnh phúc à?” khi được hỏi cuộc sống của cô có... hạnh phúc không. (Hình: Hà Giang/Người Việt)
Thu cho biết quê ở Thanh Hóa, đến Ðài Loan theo diện “xuất khẩu lao động” được hơn một năm nay. Thu làm việc tại một viện dưỡng lão, được gọi là nơi ẩn náu của người già tại Ðài Loan. Trách nhiệm của Thu là săn sóc 12 cụ già tuổi từ 68 đến 75. Thu làm việc mỗi ngày từ 6 giờ sáng đến 8 giờ tối, và hầu như không có giờ nghỉ ở giữa.
“Công việc khó khăn và căng thẳng lắm chị ạ. Các cụ vì yếu nên tính tình bẳn gắt, em chưa kịp lo xong cho cụ này thì đã bị cụ khác réo gọi!”
“Nhiều khi em bưng bát cơm lên chưa kịp ăn thì đã phải bỏ xuống, lo cho cụ khác.” Thu tâm sự.
Còn tại sao lại Dirty?
“Thì chị bảo, các cụ không tự đi vệ sinh được, mình phải lo hết thì không bẩn làm sao được?” Hạnh, đến Ðài Loan đã gần hai năm, giải thích.
Ngoài Hạnh và Thu, trong lúc đi mua sắm tại một khu tập trung nhiều tiệm tạp hóa tại Ðài Bắc, chúng tôi cũng đã gặp được một số cô dâu Ðài Loan, đa số lấy chồng già hơn mình từ 15 đến 20 tuổi, hiện đang làm việc tại đây.
Cuộc gặp gỡ tình cờ, cũng là nhờ nghe được người nói tiếng mẹ đẻ ở xứ người thật cảm động. Chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng, chuyện trò tíu tít, nhưng phải vội vàng vì phải đi theo thời khóa biểu của đoàn.
Trước khi từ giã, anh Tùng, người quay phim đi cùng đoàn với chúng tôi hỏi một cô là cuộc sống của cô có hạnh phúc không?
Thay vì trả lời, cô chỉ thẫn thờ nhắc lại câu hỏi: “Có hạnh phúc không à?” Và ánh mắt trông theo của cô đã không chỉ làm anh Tùng, mà chúng tôi cứ mãi vương vấn.
Trên đường từ Ðài Bắc đến Ðào Viên, tôi than là sao các cô gái Việt Nam, cô nào trông cũng xinh xắn, nhưng lại hao gầy và xa vắng thế.
“Không xinh xắn sao được! Cô nào cũng được tuyển chọn bao nhiêu vòng mới đến được đây!” Anh Tùng chua chát.
Khuôn mặt của những người chúng tôi gặp trong tình cờ khiến chúng tôi càng nóng lòng đi sâu vào hành trình tìm hiểu hoàn cảnh của những người Việt Nam đang sống trên đất Ðài.
Chỉ hơn nửa giờ đồng hồ nữa thôi!
Chúng tôi sẽ gặp họ.
Nếu cảm giác đầu tiên của chúng tôi từ những ngày đầu bước chân đến Ðài Loan là đất nước này sao giống Việt Nam thế, giống từ cái nóng, từ độ ẩm khiến mồ hôi dính nhơm nhớp vào áo, đến những cơn mưa phùn đến bất chợt, và những tòa nhà hẹp mà cao chen chúc nhau, và đường phố đông người tấp nập, thì Ðào Viên, là một tỉnh lỵ nhỏ, còn giống Việt Nam hơn nữa, với dòng xe cộ như mắc cửi, những con hẻm ngoằn ngoèo, và đặc biệt là đâu đâu cũng thấy những quán ăn chỉ vỏn vẹn gồm một chiếc xe hủ tíu, và vài bộ bàn ghế thô sơ.
Chúng tôi không có nhiều thì giờ để rong chơi. Người tài xế lái Taxi từ Ðài Bắc, bỡ ngỡ với đường phố ở Ðào Viên, sau khi loay hoay kiếm mãi mới ra địa chỉ, vì, cũng giống như Việt Nam, đường phố ở Ðài Loan không dễ tìm, cuối cùng rồi cũng đưa chúng tôi đến cửa “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam.” Kim đồng hồ chỉ đúng 4 giờ 30 phút chiều.
Một vài nữ nhân viên của văn phòng, những cô gái Việt Nam trước đây cũng qua Ðài Loan theo diện cô dâu, đón chúng tôi vào khuôn viên khiêm nhường, nhưng lại là nơi nương tựa quan trọng của những người di dân lao động, và cô dâu Việt Nam trên đất khách quê người.
Ða số những người chúng tôi gặp hôm đó là thanh niên thiếu nữ, vừa cô dâu vừa lao động di dân, khoảng từ 24 đến 32 tuổi. Chưa cần chuyện trò nhiều, chỉ cần nhìn những ánh mắt chịu đựng trên những khuôn mặt non trẻ, chúng tôi đã cảm nhận được nỗi khó khăn của họ.
Tôi liên tưởng đến chữ “Dangerous” khi gặp Hương, một cô gái xinh đẹp, mới 24 tuổi, cụt mất một bàn tay khi sử dụng một máy tại xưởng nơi Hương làm việc.
“Em đang ở đây để nhờ văn phòng cha Hùng giúp thủ tục pháp lý đòi chủ nhân bồi thường “ Hương tâm sự.
Hùng, khoảng 28 tuổi, cụt một chân, chống nạng, đứng gần đó, gật đầu, và nhìn Hương bằng cái nhìn đầy thương cảm. Thương người và thương mình?
Nhận diện “xuất khẩu lao động”
Sau khi mang hành lý đến khách sạn ở gần đó lấy phòng, chúng tôi được Taxi đón đến một Thánh đường gần đó để dự thánh lễ, do Linh Mục Cường, phó giám đốc “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam ” cử hành. Linh Mục Hùng cho biết đa số những người đến dự lễ qua đây theo diện “xuất khẩu lao động.”
Vừa bước vào khuôn viên thánh đường nhỏ, nhưng chật ních, khoảng hơn 100 người, Tùng quay sang tôi thì thào: “Toàn là người trẻ thôi!”
Vâng, tuổi trẻ Việt Nam sống cảnh lưu đầy đang đứng trước mặt chúng tôi. Mặt họ thông minh quá, nhưng những ánh mắt pha nét buồn, chịu đựng, hầu như đã thành dấu ấn của những người chúng tôi gặp ở đất nước này.
Cha Hùng cho biết sáng ngày mai, nếu muốn, chúng tôi có thể tháp tùng một nhóm công nhân đón chuyến xe lửa từ Ðào Viên đến Ðài Bắc để tham dự hai cuộc biểu tình được tổ chức liền nhau của công nhân ở đây.
Cuộc biểu tình thứ nhất, sẽ diễn ra trước ty cảnh sát Ðài Bắc, để phản đối sự nặng tay của cảnh sát Ðài Loan khi lùng bắt những người lao động di dân bỏ chạy, mà chính phủ Ðài Loan gọi là “Runaway Migrant Workers.”
Cuộc biểu tình thứ nhì sẽ ở trước Bộ Lao Ðộng Ðài Loan, cũng ở Ðài Bắc để yêu cầu tăng lương căn bản, và được đối xử công bình.
“Tại sao những người lao động di dân phải bỏ chạy?” Tôi hỏi.
“Chị đi tham dự cuộc biểu tình thì sẽ hiểu!” Linh Mục Nguyễn Văn Hùng mỉm cười.
Cuộc hành trình của chúng tôi sáng mai mới thực sự bắt đầu!
Kỳ sau: Chi phí môi giới lao động, nguyên nhân đưa đến hiện tượng bỏ trốn, khởi đầu của các vấn nạn liên quan đến người lao động nước ngoài.
.
.
.
Cô dâu và công nhân Việt tại Ðài Loan (Kỳ II)
Hà Giang/Người Việt
Wednesday, October 06, 2010
Phía sau 'giấc mơ đổi đời'
ÐÀI LOAN - Bước chân đưa bất cứ người Việt Nam nào rời bỏ quê hương đến Ðài Loan theo diện “xuất khẩu lao động” cũng đều bắt đầu bằng giấc mơ giản dị: Có một cơ hội cật lực làm việc, dẫu biết rất nhọc nhằn, để giúp bản thân và gia đình thoát khỏi kiếp nghèo khổ không lối thoát ở quê nhà.
Một “Lao Ðộng Di Dân” người Việt Nam đóng vai người bị bóc lột trong một cuộc biểu tình trước cửa Bộ Lao Ðộng tại Ðài Bắc đòi tăng lương tối thiểu và phản đối tiền môi giới, cũng như tiền nhà và tiền ăn khấu trừ một cách quá cao. Các khẩu hiệu viết: “Tiền Môi Giới là bóc lột,” “Khấu trừ tiền nhà và tiền ăn là bóc lột.” (Hình: Hà Giang/Người Việt)
Giấc mơ này, đối với nhiều người, sau mỗi buổi gặp mặt thảo luận với người môi giới, lại càng có “triển vọng trở thành sự thật hơn.”
Chuyện trò với phóng viên nhật báo Người Việt, em Hưng, 30 tuổi, quê ở Thanh Hóa, cho biết theo lời của công ty môi giới, mỗi tháng em có thể kiểm được “ít nhất gần 23 ngàn Ðài Tệ,” (lương tối thiểu tại Ðài Loan lúc đó là 22,780 Ðài Tệ một tháng), một số tiền tương đương với khoảng $710, chưa kể tiền kiếm được từ “làm thêm giờ phụ trội.”
Trong khi đó, số tiền phải trả cho công ty môi giới “chỉ khoảng $6,000.”
Cũng theo lời em Hưng, công ty môi giới còn cho biết, sau khi trừ tiền nhà tiền ăn, và một ít tiền tiêu, em có thể để dành được gần $500 một tháng, như vậy, chỉ đi làm hơn một năm là “lấy lại được vốn,” thời gian còn lại, gom góp một số vốn mang về Việt Nam, “mang theo cả cơ hội đổi đời.”
Và giấc mơ màu hồng cùng sự tính toán qua giúp đỡ của người môi giới, đã khiến gia đình em mạnh dạn chạy chọt vay cho bằng được khoản tiền trả cho môi giới.
“Bố em đã phải mang giấy nhà đi cầm mới xoay xở được số tiền to lớn đó.” Hưng tâm sự.
“Ngày em đi, mẹ lo lắm, chỉ sợ con khổ, nhưng em sẵn sàng chấp nhận hết để kiếm một ít tiền giúp gia đình.”
Nhưng đó là chuyện của giấc mơ, cách đây hơn bốn năm.
Bảng lương một “Lao Ðộng Di Dân” người Việt Nam cho thấy, dù tổng số tiền kiếm được hơn 18 ngàn Ðài Tệ một tháng, người lao động chỉ có thể gửi về nhà hơn 2,500 Ðài Tệ, tương đương $80, sau khi đã khấu trừ những khoản như tiền môi giới, tiền nhà và tiền ăn ở. (Hình: Hà Giang/Người Việt)
Trên thực tế, Hưng, giờ đây là một “Runaway Migrant Worker,” (lao động di dân bỏ trốn), đang sống và làm việc bất hợp pháp ở Ðài Loan, từ hơn hai năm nay, vì theo Hưng, “em không còn sự lựa chọn nào khác.”
“Nếu em không bỏ trốn, thì có lẽ sẽ không bao giờ kiếm đủ tiền để trả nợ cho gia đình, đừng nói có vốn mang về.”
Thực tế và giấc mơ khác nhau ở chỗ nào?
Hưng đưa ra một bản sao của “bảng lương” rồi giải thích: “Ðây là bảng lương của em vào tháng 3, 2008.”
“Tiền lương em kiếm được tháng đó là 18,264 Ðài Tệ, trừ đi 2,952, tức 20% thuế thu nhập, trừ đi 428 cho bảo hiểm lao động và bảo hiểm y tế, trừ đi 1,800 cho môi giới tại Ðài Loan, trừ đi 4,000 cho tiền ăn ở, công ty muốn em giữ lại 3,000 một tháng ở Ðài Loan phòng khi hữu sự, và tiền tiêu vặt 3,500, và số tiền còn lại em có thể gửi về Việt Nam là 2,548 Ðài Tệ, tương đương với $80.”
“Chị xem, với $80 một tháng, thì phải làm việc bao nhiêu năm em mới có thể trả nợ?” Hưng phân bua.
Cứ làm một con tính nhẩm thì thấy, nếu cứ đà ấy, Hưng phải làm việc khoảng 75 tháng mới có đủ tiền gửi về cho gia đình trả nợ? Và còn phải làm bao nhiêu tháng nữa mới gom góp được tiền để mang về làm vốn?
Vấn đề là những hợp đồng xuất khẩu lao động chỉ kéo dài 2 năm, và nếu làm việc tốt, những “Lao Ðộng Di Dân” có thể được chủ gia hạn hợp đồng thêm cho một năm nữa.
Vấn đề là dù có làm việc tốt nhất để được ở thêm một năm nữa, Hưng vẫn chưa có đủ tiền trả nợ.
Nhưng tại sao lương tối thiểu là 22,780 Ðài Tệ một tháng mà lương của Hưng chỉ có 18,264 Ðài Tệ, kể cả làm thêm giờ phụ trội?
Lý do là vì nhiều người chủ hiểu được hoàn cảnh túng quẫn của “Lao Ðộng Di Dân” nên đã lợi dụng, bóc lột họ, trả họ lương dưới mức tối thiểu do Bộ Lao Ðộng Ðài Loan ấn định.
Trường hợp của Hưng là hoàn cảnh tiêu biểu của một người “Lao Ðộng Di Dân” bị dồn đến đường cùng, và phải trở thành một “kẻ đào tẩu” để tìm ra lối thoát.
“Em không thể trở về nhà tay không nhìn cảnh gia đình lâm nợ, mất nhà.” Hưng nói.
Bỏ trốn như thế thì những người như Hưng được gì và mất gì?
Cái lợi là trước tiên là họ có thể đi tìm việc làm lậu, và làm được bao nhiêu thì hầu như được giữ lại gần hết.
Cái hại là họ sẽ trở thành những người sống bất hợp pháp ở Ðài Loan và có thể bị bắt bỏ tù, rồi trục xuất về Việt Nam bất cứ lúc nào.
Số người bỏ trốn ngày càng nhiều đã khiến chính quyền Ðài Loan quyết tâm ra tay càn quét, truy lùng họ, cũng như tìm cách tìm kiếm và bắt phạt những chủ nhân mướn những người di dân bất hợp pháp.
Bộ Di Trú Ðài Loan ước lượng là con số người bỏ trốn hiện giờ đã lên đến khoảng hơn 30 ngàn người, một nửa trong số đó, tức khoảng 15 ngàn người là “Lao Ðông Di Dân” đến từ Việt Nam.
Bô Lao Ðộng Ðài Loan cho rằng nguyên nhân chính khiến “Lao Ðộng Di Dân” bỏ trốn là vì điều kiện làm việc cực khổ, lại ít lương, nhưng quan trọng hơn cả, là vì tiền môi giới phải trả để được cơ hội xuất khẩu lao động quá cao.
Dữ kiện con số những người Việt Nam bỏ trốn cao bằng một nửa tổng số của “Runaway Migrant Workers” cho thấy những công ty môi giới tại Việt Nam tính tiền người xuất khẩu lao động rất cao số với các quốc gia khác.
Bà Regina Fuchs, một thiện nguyện viên của tổ chức phi chính phủ “Hope Workers' Center” cho biết, theo bà biết, qua giao tiếp với “Lao Ðộng Di Dân“từ nhiều quốc gia, thì “Lao Ðộng Di Dân” đến từ Indonesia hay Phillipines chỉ phải trả một số tiền môi giới khoảng $3,000, so với $6,000 của môi giới Việt Nam.
Tiếp xúc với phóng viên nhật báo Người Việt, ông Yu-ling Ku, chủ tịch của tổ chức Taiwan International Workers' Association, cho biết vào tháng 11 năm 2001, dưới áp lực của các tổ chức lao động phi chính phủ, Bộ Lao Ðộng Ðài Loan cuối cùng đã công bố một quy định, cấm các nhà môi giới được nhận tiền “hoa hồng;” từ các lao công họ mang vào Ðài Loan, thay vào đó, họ chỉ có thể bắt các nhân công trả “phí dịch vụ,” không quá 1,800 Ðài Tệ/tháng trong năm đầu tiên, 1,700 Ðài Tệ/tháng trong năm thứ hai, và 1,500 Ðài Tệ trong thứ ba.
Tuy nhiên, để đối phó với bộ luật này, người môi giới Ðài Loan đã hợp tác với các công ty môi giới tại các nước nhà của người lao động, lừa đảo và bắt người lao động nhập cư ký kết hợp đồng vay vốn rất lớn, vì vậy các công ty môi giới trên cả hai bên có thể chia sẻ với nhau các hoa hồng béo bở này trong bóng tối.
Cũng theo ông Yu-ling Ku, mặc dù Bộ Lao Ðộng Ðài Loan biết rõ tình trạng này, nhưng họ không có biện pháp nào để đối phó một cách hữu hiệu vì: thứ nhất, hệ thống môi giới tạo điều kiện cho những viên chức nhà nước và chủ nhân có thể bóc lột và kiểm soát công nhân một cách dễ dàng.
Sau khi đã đặt chân vào Ðài Loan, thì nhiều người xuất khẩu lao động Việt Nam mới vỡ lẽ ra là giấc mơ kiếm tiền bằng cách làm lao nô ở nước ngoài thật ra không dễ thực hiện, và hậu quả là họ không chỉ phải đối diện với những giấc mơ tan vỡ, mà chính họ đã trở thành những mảnh đời tan vỡ.
(Kỳ tới: Những mảnh đời tan vỡ hiện nương náu ở “Văn Phòng Trợ Giúp Lao Ðộng Di Dân và Cô Dâu Việt Nam ,” Ðào Viên, Ðài Loan)
.
.
.
No comments:
Post a Comment