thời đại mới
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU & THẢO LUẬN
Số 19 - Tháng 7/2010
Kinh tế Việt Nam trước sự trỗi dậy của Trung Quốc
Trần Văn Thọ
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/201019_TranVanTho.htm
Mở đầu: Vấn đề gì cần đặt ra?
1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu
2. Cơ cấu mậu dịch Việt Trung
3. Vài hàm ý về mặt lý luận
Thay lời kết: Con đường để Việt
Mở đầu: Vấn đề gì cần đặt ra?
Với qui mô dân số và với tốc độ phát triển nhanh kéo dài hàng chục năm, kinh tế Trung Quốc đã tác động mạnh đến kinh tế thế giới trên nhiều phương diện. Sự tác động đó lớn hay nhỏ, nhất thời hay làm ảnh hưởng sâu sắc đến con đường phát triển của nước khác là tùy theo trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế của nước chịu tác động.
Tại Đông Á, Nhật và Hàn Quốc cũng bàn đến sự trỗi dậy của Trung Quốc và tác động của hiện tượng nầy đến con đường phát triển của nước họ. Nhưng trình độ phát triển của hai nước nầy cao hơn Trung Quốc nhiều, GDP đầu người còn lớn hơn Trung Quốc 9-10 lần (Nhật) hoặc 5-6 lần (Hàn Quốc), về chất lượng thể chế, tiềm năng khoa học, công nghệ của họ còn đi trước Trung Quốc nhiều chục năm. Do đó, Nhật và Hàn Quốc ý thức về sự trỗi dậy của Trung Quốc để vừa nỗ lực hơn trong việc củng cố lợi thế hiện tại và lợi dụng cơ hội từ thị trường Trung Quốc.
Cũng là nước lân cận với Trung Quốc nhưng vị thế của Việt
Đây là một đề tài lớn. Bài viết nầy chỉ xoay quanh vấn đề phát triển công nghiệp. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp đang và sẽ tác động như thế nào đến con đường công nghiệp hóa của Việt
Dưới đây, sau khi điểm qua các đặc trưng trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp của Trung Quốc (Tiết 1), bài viết sẽ phân tích quan hệ ngoại thương Việt Trung (Tiết 2) và nhìn từ một số lý thuyết về mậu dịch để rút ra vài hàm ý đối với vấn đề công nghiệp hóa của ta (Tiết 3). Các phân tích nầy sẽ cho thấy, cùng với trào lưu tự do mậu dịch ở Đông Á hiện nay, sự tác động của Trung Quốc đối với kinh tế Việt
.
1. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp
Từ đầu thập niên 1980 đến nay, kinh tế Trung Quốc phát triển trung bình gần 10%. Kết quả là hiện nay nước nầy vươn lên vị trí thứ hai thế giới về GDP và mậu dịch và có lượng dự trữ ngoại tệ nhiều nhất thế giới.
Từ góc độ quan tâm của bài viết nầy ta thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc có một số đặc điểm sau: thứ nhất, đó là quá trình công nghiệp hóa tiến nhanh trên quy mô lớn. Nhiều ngành trong công nghiệp chế biến, chế tác (manufacturing) phát triển trên dưới 20% mỗi năm như đồ điện gia dụng, xe hơi, máy tính cá nhân và nhiều loại máy móc khác. Trong nhiều mặt hàng thuộc các ngành này, Trung Quốc chiếm tới trên dưới 40% sản lượng thế giới. Vì vậy mà Trung Quốc được xem là công xưởng của thế giới.
Thứ hai, phát triển của Trung Quốc ngày càng dựa vào xuất khẩu. Xuất khẩu ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong qúa trình công nghiệp hóa của nước nầy. Tỉ trọng của xuất khẩu trong GDP chỉ có 7 % vào năm 1980 nhưng đã tăng lên 33% năm 2008. Xuất khẩu của Trung Quốc hiện nay cũng hầu hết là hàng công nghiệp. Vào những năm mới mở cửa, tỉ trọng của hàng công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc chưa tới 50% nhưng từ năm 2001 con số đó đã lên trên 90%. Như vậy trong quá trình phát triển, Trung Quốc ngày càng hướng ngoại và chiếm lĩnh thị trường thế giới bằng hàng công nghiệp.
Thứ ba, phát triển của Trung Quốc còn có đặc tính là dựa nhiều vào đầu tư. Trước năm 1992 tỉ lệ của đầu tư trên GDP vào khoảng 30% nhưng năm 2002 tăng lên 40% và mấy năm gần đây lên tới 50%. Các tỉnh cạnh tranh đầu tư và sản xuất hàng công nghiệp, gây nên hiện tượng đầu tư trùng lặp và sản xuất thừa làm kém hiệu suất của toàn nền kịnh tế. Nhưng đối với Việt nam và các nước có nền kinh tế còn nhỏ ở Đông Nam Á, hiện tượng sản xuất thừa của Trung Quốc là một trong những nguyên nhân chính làm tràn ngập hàng công nghiệp giá rẻ vào thị trường các nước nầy.
Thứ tư, cơ cấu công nghiệp của Trung Quốc ngày càng chuyển dịch lên cao. Khuynh hướng nầy phản ảnh rõ trong cơ cấu xuất khẩu. Biểu 1 chia các mặt hàng thành 5 nhóm, trong đó 3 nhóm được chia theo 3 trình độ liên quan đến kỹ năng (skill) của lao động. Những sản phẩm có hàm lượng công nghệ càng cao càng cần nhiều lao động có kỹ năng cao và do đó để sản xuất và xuất khẩu được những mặt hàng này đòi hỏi nền giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học phải cung cấp đủ nguồn nhân lực có trình độ tương ứng.
Biểu 1 cho thấy hiện nay (2008) có tới trên 30% kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thuộc nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng cao (high skill) như máy tính, máy móc về viễn thông, về y tế, dược phẩm, v.v.. . Nếu kể cả nhóm hàng dùng nhiều kỹ năng vừa phải (medium skill) như xe hơi, xe máy, đồ điện gia dụng, kim khí, v.v.. thì tỉ trọng của 2 nhóm hàng nầy chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Một điểm đáng chú ý là các mặt hàng có hàm lượng kỹ năng thấp như may mặc, giày dép, dụng cụ lữ hành, v.v.. vẫn còn chiếm một tỉ trọng lớn. Tỉ trọng trong xuất khẩu của Trung Quốc chỉ giảm đáng kể trong hai lãnh vực nông sản và nguyên liệu. Điều nầy cho thấy các loại hàng công nghiệp, từ trình độ thấp đến trình độ cao Trung Quốc đều hiện diện trên thị trường thế giới với số lượng lớn.
.
Biểu 1 : Cơ cấu xuất khẩu của Trưng QUốc và Việt
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/TranVanTho_1.jpg
.
Nhìn ở một khía cạnh khác, sự trỗi dậy của Trung Quốc không phải chỉ tạo ra thách thức đối với khu vực Á châu và thế giới. Trung Quốc phát triển mạnh không phải chỉ nhập khẩu tài nguyên, năng lượng mà còn trở thành một thị trường tiêu thụ hàng công nghiệp nhập khẩu từ nước ngoài. Như Biểu 2 cho thấy, từ năm 1990 đến 2008, nhập khẩu của Trung Quốc tăng 18 lần. Trong 983 tỉ USD nhập khẩu năm 2008, hàng công nghiệp chiếm trên 60%, đặc biệt riêng các loại máy móc chiếm khoảng 40%. Từ cùng nguồn tư liệu như trong Biểu 2, ta tính thử tỉ trọng của các loại máy móc trong tổng xuất khẩu của Trung Quốc thì thấy con số đó là 47.5%. Nhìn từ hàm lượng kỹ năng trong hàng xuất khẩu, Biểu 1 cũng cho thấy khuynh hướng tương tự. Máy móc là các loại sản phẩm có nhiều bộ phận, linh kiện, công đoạn nên trong nội bộ mỗi ngành, các công ty đa quốc gia (MNCs) triển khai phân công lao động trên qui mô toàn cầu, hình thành các chuỗi cung ứng (supply chain).[1] Từ đầu thập niên 1990, Trung Quốc đã thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) tập trung trong các ngành chế tạo các loại máy móc từ trung cấp (như đồ điện gia dụng) đến cao cấp (như máy tính, máy chụp hình kỹ thuật số) làm thành các cụm công nghiệp ở các tỉnh ven biển, nhất là ở tam giác sông Châu Giang tỉnh Quảng Đông. Qua đó, Trung Quốc tham gia mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu, vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu các mặt hàng thuộc nội bộ các ngành nầy, Hiện nay có hơn 50% kim ngạch xuất và nhập khẩu của Trung Quốc do MNCs thực hiện, nhất là MNCs có gốc Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan.
.
Biểu 2 : Cơ cấu nhập khẩu của Trung Quôc
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/TranVanTho_2.jpg
.
Phân tích ở trên cho thấy Trung Quốc đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp trên quy mô lớn và triển khai hầu như toàn diện trong các lãnh vực, từ sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp đến các sản phẩm có hàm lượng kỹ năng cao, công nghệ cao; đồng thời Trung Quốc triển khai phân công hàng ngang (horizontal trade), phân công nội ngành (intra-industry trade) với các nước khác trong các mặt hàng chế tạo các loại máy móc, là những lãnh vực chủ đạo trong mậu dịch quốc tế hiện nay. Với tính chất nầy, các nước phát triển ở trình độ cao hơn Trung Quốc như Nhật, Hàn Quốc, hoặc các nước đã thành công trong việc tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu (như Malayssia, Thái Lan,…) có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang Trung Quốc những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng cao hoặc trung bình. Nhưng đối với các nước ở trình độ phát triển thấp hơn, sự trỗi dậy của Trung Quốc là một thách thức lớn vì vừa bị Trung Quốc cạnh tranh mạnh trong những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng thấp nhưng lại chưa có năng lực triển khai phân công hàng ngang với Trung Quốc trong những nhóm hàng công nghiệp có kỹ năng trung và cao cấp.
.
2. Cơ cấu mậu dịch Việt Trung
Hiện nay trong cơ cấu xuất khẩu của Việt
Riêng mậu dịch với Trung Quốc, cơ cấu của Việt
Mậu dịch hai nước tăng nhanh từ năm 2000 nhưng ngày càng mất quân bình. Từ năm 2000 đến năm 2009, đối với Trung Quốc, nhập khẩu của Việt
Nhìn cơ cấu xuất khẩu của Việt
.
Biểu 3 : Những mặt hang VN xuất khẩu nhiều nhất sang TQ (năm 2007)
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/TranVanTho_3.jpg
.
Nhìn sang cơ cấu nhập khẩu của Việt
Các loại hàng nầy có thể chia ra thành 3 nhóm: thứ nhất là nguyên vật liệu hoặc sản phẩm trung gian như thép để chế biến thành phẩm tiêu dùng, hai là các loại máy móc (và bộ phận, linh kiện) như xe hơi, khí cụ dùng cho bưu chính viễn thông, và nhóm thứ ba là các loại sản phẩm trung gian ngành dệt may như tơ sợi tổng hợp, vải bông, vải may nội y,… Điều nầy cho thấy nền công nghiệp Việt
.
Biểu 4 : Những mặt hàng VN nhập khẩu nhiều nhất từ TQ (năm 2007)
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/TranVanTho_4.jpg
.
Mậu dịch ở biên giới qua 3 cửa khẩu chính cũng mang tính chất tương tự. Tại cửa khẩu Lào-Cai-Hà Khẩu (Vân Nam), Việt Nam xuất khẩu nông lâm thủy sản và nhập phân bón, thuốc trừ sâu, v.v.. Lạng Sơn-Bằng Tường (Quảng Tây) là cửa khẩu chuyên nhập các loại máy móc, thiết bị từ Trung Quốc vào Việt Nam. Tại của khẩu Mông Cái-Đông Hưng (Quảng Tây) Việt Nam xuất khẩu than và nhập hàng công nghiệp tiêu dùng.
Cơ cấu ngoại thương Việt Trung như phân tích ở trên đã hình thành từ những năm 1990 và hiện nay cơ cấu nầy vẫn như cũ. Từ năm 2002 tôi đã gọi đây là cơ cấu mậu dịch có tính Nam Bắc, nghĩa là cơ cấu giữa nước chậm phát triển và nước tiên tiến.[3]
Với cơ cấu nầy, khi Hiệp định thương mại tự do ASEAN Trung Quốc (ACFTA) được thực thi hoàn toàn thì áp lực của Trung Quốc đối với Việt Nam còn mạnh hơn nữa. ACFTA ký kết vào tháng 11 năm 2002 và có hiệu lực từ tháng 7 năm 2005 (thuế suất bắt đầu cắt giảm). Đối với các thành viên mới trong khối ASEAN như Việt Nam, thời hạn hoàn thành thời khóa biểu cắt giảm thuế đối với hàng nhập từ Trung Quốc là đầu năm 2015, nghĩa là chỉ còn hơn 4 năm nữa, chỉ trừ một số mặt hàng nằm trong danh mục nhạy cảm, tất cả hàng công nghiệp nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam sẽ không bị đánh thuế. Thêm vào đó, thuế suất của phần lớn những mặt hàng trong danh mục nhạy cảm cũng sẽ phải giảm xuống dưới 5% trước năm 2020. Đặc biệt so với thuế suất hiện hành mà Việt Nam áp dụng đối với hàng nhập từ các nước thành viên WTO, thuế suất cắt giảm đối với hàng nhập từ Trung Quốc theo khuôn khổ ACFTA sẽ rất lớn đối với hàng công nghiệp trong các lãnh vực như tơ sợi và vải, các loại hóa chất, đồ điện gia dụng và sản phẩm phụ trợ, xe hơi và sản phẩm phụ trợ.[4] Như đã thấy ở trên, đây là những mặt hàng mà Việt Nam hiện nay nhập khẩu nhiều từ Trung Quốc dù thuế suất cao. Do đó, khi ACFTA hoàn thành những mặt hàng nầy sẽ tràn sang Việt Nam nhiều hơn nữa.
.
3. Vài hàm ý về mặt lý luận
Thử bàn thêm về quan hệ kinh tế Việt Trung nhìn từ một số lý thuyết về mậu dịch để thấy rõ hơn những vấn đề của Việt Nam.
Trước hết là mô hình về lực dẫn (gravity model). Theo mô hình nầy, mậu dịch giữa hai nước tùy thuộc vào lực dẫn của nước nầy đối với nước kia. Lực dẫn lớn hay nhỏ tùy theo quy mô thị trường (đo bằng GDP) và khoảng cách địa lý giữa hai nước. Khoảng cách địa lý càng nhỏ thì phí tổn chuyển chở hàng hóa và các dịch vụ như bảo hiểm càng thấp và thông tin về thị trường cũng dễ thu thập. GDP lớn và tăng nhanh cũng tăng sức mua đối với hàng hóa của nước ngoài.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nền kinh tế phát triển với tốc độ cao hoặc tương đối cao, lại ở cạnh nhau nên hội đủ cấc yếu tố thuận lợi trong mô hình về lực dẫn. Đặc biệt đối với Việt Nam, Trung Quốc là nền kinh tế lớn và phát triển nhanh. Thế nhưng như đã phân tích trong Tiết 1 và 2, Việt Nam không tận dụng được thế mạnh nầy, chỉ xuất khẩu nguyên liệu và hàng sơ chế trong khi các nước khác đẩy mạnh được xuất khẩu hàng công nghiệp sang nước nầy. Nguyên nhân chỉ có thể được giải thích bằng năng lực cung cấp yếu và hạn chế của phía Việt Nam. Mô hình về lực dẫn chỉ chú ý đến mặt cầu. Cần phải phân tích mặt cung nữa.
Lý luận thứ hai liên quan đến điều kiện giao dịch (terms of trade), tức là quan hệ tương đối giữa giá hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu. Từ giữa thập niên 1950, các nhà nghiên cứu về kinh tế phát triển hầu như thống nhất nhận định cho rằng điều kiện giao dịch của các nước xuất khẩu nông phẩm và nguyên liệu tức sản phẩm khai thác từ tài nguyên luôn bất lợi vì nhu cầu của các sản phẩm nầy tăng ít, giá cả lại biến động, trong khi đó nhu cầu và giá cả của hàng công nghiệp luôn tăng nhanh vì có đàn tính thu nhập cao (thu nhập của người dân càng tăng thì nhu cầu về các mặt hàng ấy càng tăng, tăng hơn cả thu nhập). Do đó, điều kiện giao dịch của các nước sản xuất và xuất khẩu sản phẩm khai thác từ tài nguyên sẽ càng bất lợi và các nước nầy càng tăng xuất khẩu càng giảm sức mua. Nhận định nầy đã trở thành cơ sở cho chủ trương là các nước xuất khẩu tài nguyên phải công nghiệp hóa thì kinh tế mới phát triển.
Về quan hệ mậu dịch Việt Trung, Việt Nam cũng xuất khẩu nguyên liệu, nông sản. Theo ý kiến chính thống trong lý luận về kinh tế phát triển thì Việt Nam bất lợi trong điều kiện giao dịch với Trung Quốc. Tuy nhiên, có ý kiến ngược lại cho rằng kinh tế Trung Quốc phát triển mạnh mẽ với quy mô lớn nên nhu cầu về nguyên liệu luôn tăng, do đó các nước xuất khẩu nguyên liệu có lợi từ sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cụ thể là điều kiện giao dịch với Trung Quốc chẳng những không bất lợi mà ngược lại.[5]
Điểm nầy cần được kiểm chứng. Rất tiếc người viết bài nầy chưa có điều kiện về thì giờ cho việc kiểm chứng nầy nhưng có thể suy đoán là điều kiện giao dịch của Việt Nam không bất lợi vì các lý do sau:
Thứ nhất, giá cả trên thì trường thế giới về những mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất sang Trung Quốc trong 10 năm qua có khuynh hướng tăng, đặc biệt, như Hình 1 cho thấy, các mặt hàng nguyên liệu, năng lượng như than đá, dầu thô từ khoảng năm 2002 đến năm 2008 đã tăng gấp 3-4 lần. Tình trạng săn lùng tài nguyên của Trung Quốc trên khắp châu Phi, châu Á và Nam Mỹ cho thấy nhu cầu của nước nầy rất cao và ngày càng tăng.
.
Hình 1 Biến động giá trên thị trường thế giới của một số nguyên liệu
Tư liệu: Datastream.
http://www.tapchithoidai.org/ThoiDai19/TranVanTho_6.jpg
.
Thứ hai, các mặt hàng công nghiệp Trung Quốc xuất khẩu sang Việt
Tuy nhiên dù cho điều kiện giao dịch đang theo chiều hướng thuận lợi, một nước đông dân như Việt
Vấn đề ở đây là dù biết xuất khẩu tài nguyên là bất lợi trên đường phát triển nhưng với quy mô sản xuất và xuất khẩu hàng công nghiệp quá lớn, và nhu cầu tiêu thụ tài nguyên với quy mô lớn và đang tăng mạnh của Trung Quốc, thách thức đối với Việt Nam là rất lớn. Thêm vào đó, trong quan hệ mậu dich Việt Trung, còn một điểm nữa về mặt lý luận cũng đáng quan tâm. Đó là ảnh hưởng của trào lưu mậu dịch tự do hiện nay.
Ở Đông Á hiện nay, Hiệp định tự do mậu dịch (FTA) và Hiệp định hợp tác kinh tế (EPA) đang trở thành trào lưu chính trong quan hệ kinh tế giữa các nước. Mục tiêu chính của các hiệp định là cắt giảm hoặc bãi bỏ các hàng rào quan thuế và phi quan thuế, đẩy mạnh phân công lao động, tăng mậu dịch và đầu tư. Đối với các nước thành viên, do thị trường mở rộng, và do các yếu tố sản xuất như lao động, tư bản dịch chuyển nhanh sang các ngành có lợi thế so sánh, kinh tế phát triển nhanh hơn và hiệu quả hơn. Tuy nhiên, trong các hiệp định tự do mậu dịch mà trình độ phát triển giữa các nước thành viên quá khác biệt, cơ hội và thách thức đối với các nước sẽ không giống nhau. Đối với các nước còn ở trình độ phát triển thấp, thách thức lớn hơn cơ hội nếu không nỗ lực nhanh chóng hình thành và thực hiện các chiến lược, chính sách phát triển thích hợp trước khi hiệp định được thực thi hoàn toàn. Khác với kinh nghiệm của những nước đã phát triển (như Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, v.v..), các nước đang phát triển ngày nay không đủ thời gian để bảo hộ các ngành công nghiệp còn non trẻ, ít thời gian để chuẩn bị chuyển dịch sang một lợi thế so sánh mới. Do đó, trong khi chưa có các chính sách, chiến lược hiệu quả, trong khuôn khổ của FTA hoặc EPA, hàng công nghiệp từ các nươc phát triển trước sẽ tràn ngập vào các nước phát triển sau. Trong quá trình hội nhập, lợi thế so sánh hiện tại của các nước đi sau có khả năng sẽ bị cố định hóa. Tôi đã có dịp bàn vấn đề nầy chi tiết hơn trên Thời Đại mới (TV Thọ 2006) và đưa ra thuật ngữ Cái bẫy của trào lưu mậu dịch tự do trên Thời báo kinh tế Saigon để nói về thách thức mà Việt
Đối với Việt
.
Thay lời kết: Con đường để Việt
Phân tích trên đây cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đang gây tác động lớn, đang trở thành trở lực lớn trên con đường công nghiệp hóa của Việt
Đâu là con đường để Việt
Thứ nhất, trước mắt và trong trung hạn (độ 3 năm), cần có ngay các chính sách tăng sức cạnh tranh quốc tế của những mặt hàng đang có lợi thế so sánh (nhóm hàng có hàm lượng kỹ năng thấp trong Biểu 1) và chuẩn bị tham gia mạnh mẽ vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong các mặt hàng có hàm lượng kỹ năng trung bình. Chính sách nầy gồm rất nhiều bộ phận. Một là phải tạo điều kiện khai thông thị trường vốn, thị trường lao động để doanh nghiệp tiếp cận được đến các yếu tố sản xuất (hiện nay có tình trạng khu công nghiệp thiếu lao động trong khi lao động dư thừa ở nông thôn; doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa không có vốn để đầu tư thay đổi công nghệ). Chính sách hạ tầng xã hội liên quan đến đời sống của người lao động ở các khu công nghiệp, khu chế xuất cũng phải được quan tâm. Hai là phải cải thiện ngay các điều kiện về hạ tầng, ưu tiên cung cấp điện cho sản xuất, đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng giao thông liên quan trực tiếp đến sản xuất công nghiệp. Ba là phải cải thiện các khâu liên quan thủ tục hành chánh ở bến cảng, ở khu công nghiệp và những nơi có liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Những vấn đề nầy có thể thực hiện được ngay. Nhưng vấn đề là lãnh đạo phải có quyết tâm và quan chức liên hệ phải có năng lực và tinh thần trách nhiệm.
Thứ hai, trong dài hạn phải có chiến lược chuẩn bị điều kiện để chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn, tham gia được vào sự phân công hàng ngang với Trung Quốc và các nước khác ở Đông Á trong những mặt hàng có hàm lượng kỹ năng cao. Có hai điểm quan trọng liên quan đến chiến lược nầy. Một là triệt để cải cách giáo dục và đầu tư thích đáng cho giáo dục và nghiên cứu khoa học, công nghệ để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho giai đoạn chuyển dịch cơ cấu công nghiệp như đã nói. Hai là có chiến lược chọn lựa, thu hút dòng đầu tư nước ngoài (FDI) có chất lượng cao để nhanh chóng tham gia vào mạng lưới phân công lao động trong các ngành có hàm lượng công nghệ cao, đòi hỏi kỹ năng lao động cao. Nếu không có các chính sách nầy, Việt
Sự trỗi dậy của Trung Quốc đang và sẽ tác động mạnh đến kinh tế Việt
Tư liệu có trích dẫn
Ando, Michiyo (2006), Fragmentation and Vertical Intra-Industry Trade in East Asia, North American Journal of Economics and Finance, 17, Issue 3 (December), pp. 257-281.
Athukorala, Prema-chandra (2009), The Rise of
Coxhead, Ian (2007), A New Resource Curse? Impacts of
Coxhead, Ian and Sisira Jayasuriya (2009),
Kimura Fukunari and Michiyo Ando (2005), Two-Dimensional Fragmentation in
Kwan, C. Hung (2010),
Trần Văn Thọ (2002), Tính chất bắc-Nam trong quan hệ kinh tế Việt Trung, Thời báo kinh tế Saigon, số báo Tết Nhâm Ngọ, pp. 17-18.
Trần Văn Thọ (2006), Cộng đồng kinh tế Đông Á nhìn từ các nước đi sau, Thời đại mới số 8 (tháng 7). .
Trần Văn Thọ (2007), Việt
Trần Văn Thọ (2009), Xác lập tinh thần Nguyễn Trãi trong quan hệ kinh tế Việt Trung, Diễn Dàn (Tết Kỷ Sửu), bổ sung và đăng lại ở Tuanvietnam (Vietnamnet) ngày 6/1/2010.
Tran Van Tho & Kunichika Matsumoto (2010), Chugoku to Betonamu no Boueki no Jittai (Thực thể ngoại thương Việt Trung), Ch. 2 trong Viện nghiên cứu Việt Nam (2010), Chíến lược, chính sách nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của công nghiệp Việt Nam trước sự trỗi dậy của kinh tế Trung Quốc, Đại học Waseda, Tokyo.
Chú thích
[1] Hiện tượng nầy gần đây được phân tích bằng lý luận về sự phân khúc hoặc phân đoạn (fragmentation theory). Xem, chẳng hạn Kimura and Ando (2005), Ando (2006). Từ góc độ nầy, phân tích của Athukorala (2008) cho thấy sự trỗi dậy của Trung Quốc đẩy mạnh phân công nội ngành với các nước Á châu khác.
[2] SITC: Mã số tiêu chuẩn phân loại của thống kê Liên Hiệp Quốc.
[3] Xem Trần Văn Thọ (2002). Vấn đề nầy được phân tích trở lại trong Trần Văn Thọ (2009).
[4] Theo kết quả tính toán trong Tran & Matsumoto (2010).
[5] Điển hình cho ý kiến nầy là Kwan (2010). Ông ta cho rằng trong quá trình trỗi dậy của TQ những nước có vai trò bổ sung (xuất khẩu nguyên liệu) thì được lợi và những nước ở vị trí cạnh tranh (cùng xuất khẩu hang công nghiệp như TQ) thì bất lợi.
[6] Về vấn đề nầy, tư liệu khá nhiều. Riêng bàn về ảnh hưởng của Trung Quốc đến các nước Đông Nam Á, xem, chẳng hạn, Coxhead (2007).
© Thời Đại Mới
.
.
.
No comments:
Post a Comment