Ngô Nhân Dụng
Tuesday, February 23, 2010
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm/anmviewer.asp?a=108801&z=7
Hai vị tướng về hưu ở Hà Nội mới đưa ra công khai một bức thư yêu cầu đảng Cộng Sản chấm dứt ngay việc cho người Trung Hoa thuê đất rừng Việt Nam để khai thác trồng cây. Họ viết những lời lên án và cảnh cáo giận dữ nặng nề: Tự sát! Cố tình phá hoại! Gieo tai hoạ cho dân! Thâm độc và tàn bạo!
Tại sao phải nổi giận như vậy? Hai tác giả bức thư đã nói đến hành động “bán rừng”, “mua rừng” nhưng có thể khiến người đọc nghĩ đến hai chữ “bán nước”. Nếu có quốc gia nào âm mưu “mua rừng” của nước ta thì thâm độc và tàn bạo thật!
Theo lá thư ngỏ trên, mười tỉnh ở khắp ba miền Việt Nam đã cho người ngoại quốc thuê tổng cộng hơn 300 ngàn mẫu (ha) đất rừng, trong dài hạn 50 năm. Trong số đó, gần 90% đất rừng là cho những người thuê đến từ lục địa Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông, nói chung là các công ty của người Trung Hoa. Phần lớn các khu đất rừng cho thuê nằm ở vùng biên giới. Riêng trong tỉnh Lạng Sơn, sẽ cho thuê hơn 70 ngàn mẫu tây rừng, bằng một phần tư tổng số rừng cho thuê khắp nước. Lạng Sơn là nơi quân đội Trung Hoa đã phá tan thị xã thành bình địa trong cuộc chiến năm 1979.
Hai ông Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh viết: “Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước”. Hai ông cũng ám chỉ đến một âm mưu lâu dài khi viết thêm: “Đây là một hiểm hoạ cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia”. Cho nên họ tố cáo, “Các nước mua rừng của ta là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai hoạ cho nhân dân ta một cách thâm độc và tàn bạo”.
Trước những những lời tố cáo của hai ông “tướng về hưu” trên, giới lãnh đạo đảng Cộng Sản và bộ máy chính quyền trung ương, như thường lệ, không ai thèm trả lời. Giống như họ từng bỏ qua không thèm trả lời mấy trăm nhà trí thức phản đối về vụ Bauxite. Họ gần như mặc nhiên coi việc cho người ngoại quốc thuê khai thác rừng là thuộc trách nhiệm của những cán bộ ký hợp đồng cho thuê, tức là các quan chức cấp tỉnh, hay thấp hơn!
Một lần nữa, chúng ta đứng trước một vấn đề luật pháp về quyền sở hữu và quyền sử dụng đất đai, mà chế độ hiện nay cố ý giữ chặt di sản từ thời Hồ Chí Minh để lại, sau khi làm cải cách ruộng đất. Nhà nước cộng sản đã tịch thâu tất cả đất đai của toàn dân với quy tắc “nhân dân làm chủ”, tạo cơ hội cho các cán bộ cộng sản mặc sức lạm dụng, tham nhũng vì họ nắm toàn quyền quyết định! Lạm dụng cơ chế để làm giầu là một đặc quyền của các đảng viên cộng sản; nhưng khi đặc quyền đó lại có thể tác hại đến chủ quyền đất nước và gây hại lâu dài thì mọi người dân Việt
Luật pháp cộng sản coi tất cả đất đai đều thuộc quyền quản lý của nhà nước, không người dân nào có quyền làm chủ đất. Nhưng ai là người nắm quyền cấp giấy phép cho dân sử dụng đất, theo những điều kiện nào? Luật pháp không rõ ràng đầy đủ, tạo cơ hội cho các quan chức địa phương giải quyết tùy tiện, áp dụng linh động. Một công ty ngoại quốc muốn thuê đất làm trụ sở hoặc dựng nhà máy, cơ xưởng có thể phải chạy chọt với quan chức cấp huyện hay cấp tỉnh, hay phải xin phép từ trung ương, điều này tùy thuộc “mối làm ăn” lớn hay nhỏ. Việc cho thuê đất rừng chắc cũng theo lối này.
Quan chức cộng sản cấp tỉnh tại Lạng Sơn đã bác bỏ lời lên án “bán rừng” của hai vị tướng về hưu. Một viên giám đốc trong tỉnh nói rằng “Không có chuyện mua bán đất đai. Không chuyển nhượng sở hữu, mà chỉ có cho thuê!”
Nói như vậy là đánh bùn sang ao, cũng như không nói gì cả. Tất nhiên là ở trong nước Việt
Trên nguyên tắc toàn dân Việt Nam chung nhau quyền sở hữu đất đai, nhưng đảng Cộng Sản chiếm độc quyền “lãnh đạo nhà nước và xã hội” quyền hành to lớn hơn tất cả các ban giám đốc của những công ty tư bản, vì không ai có thể thay đổi ban giám đốc như trong các đại hội cổ đông! Cho nên đảng Cộng Sản nắm độc quyền sử dụng và cho phép người khác sử dụng tất cả đất đai trong nước, từ đất xây nhà ở đến đất làm ruộng hay trồng rừng, đào ao thả cá hay dùng làm nghĩa địa!
Như vậy thì các công ty Trung Quốc không cần phải “mua đất” trồng rừng ở Việt
Cho nên hai ông Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh mới cảnh cáo: “Mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn”. Họ là những người đã trông thấy hàng triệu đồng đội chết vì những lời kêu gọi lòng yêu nước. Bây giờ họ đứng trước mối hoạ mất nước!
Đó là chưa kể một điều đáng lo khác: Mối nguy trồng người! Bức thư ngỏ của hai ông tướng về hưu đã nói đến “mối nguy di dân” khi các công ty Đài Loan, Hồng Kông hay Trung Quốc đem người Tầu sang làm việc!
Hiện tượng trồng người đang diễn ra. Hiện nay ở Việt
Cuối năm ngoái, nhật báo New York Times đã viết cả một bài về việc ”xuất cảng lao động” của Trung Quốc tại Việt Nam. Họ lấy thí dụ công trường xây cất nhà máy nhiệt điện chạy bằng than ở Trung Sơn, Hải Phòng. Trong bốn năm xây dựng, chỉ có mấy trăm người Việt Nam kiếm được việc làm ở đó, còn hầu hết là người Hoa, có lúc lên đến 1,500 công nhân Tàu. Họ sống trong những cư xá riêng, với các cơ sở cung cấp dịch vụ cho họ cũng do người Trung Hoa trông coi, bốn chung quanh kín cổng cao tường. Có cả một “nhà tắm hơi đấm bóp” mà người ta biết ở trong có những “dịch vụ đen tối” khác, treo bảng chiêu khách bằng chữ Hán!
Phóng viên Thời báo
Đó là mối hoạ di dân có thực. Chính quyền cộng sản vẫn mập mờ về chuyện giấy phép làm việc của các công nhân Trung Hoa sang Việt
Nhưng đảng Cộng Sản Việt
Trong lịch sử, người Việt đã từng xâm chiếm đất đai của các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, bằng cách di dân theo lối “tằm ăn dâu”. Giữa hai cuộc chiến tranh, trong lúc hoà hiếu tạm thời, bao nhiêu thế hệ người Việt đã đi qua các nước trên, khai phá đất đai và lập thôn lập xóm, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là một thứ kế “trồng người” theo nghĩa đen. Chúng ta đã biết kết quả của kế hoạch trồng người đó ra sao.
Cho nên có thể hiểu tại sao hai ông tướng về hưu Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh lại cảm thấy cay đắng và giận dữ trước một hoàn cảnh tương tự. Vì họ phải lo lắng thấy người Việt
.
.
.
No comments:
Post a Comment