Trách
nhiệm của một quy trình hình sự phải bảo đảm sự công bằng, minh bạch, đàng
hoàng
Lê Nguyễn Duy Hậu
14/08/2025
Ai học luật hoặc xem phim Hong Kong có lẽ đều
quen thuộc với một câu mà cảnh sát thường phải đọc khi bắt được nghi phạm. “Anh
có quyền giữ im lặng, anh có quyền có luật sư, anh không bị buộc phải đưa ra lời
khai chống lại mình. Nếu anh chọn khai báo, chúng tôi sẽ ghi chép lại bằng giấy
bút và có thể dùng nó làm bằng chứng chống lại anh trước tòa“.
Với nhiều người, câu nói này khá vô lý vì
không khác gì nhắc cho nghi phạm về những gì anh này có thể dùng để tự bảo vệ
mình. Nhưng đó chính là toàn bộ ý nghĩa của lời cảnh báo này.
Những người làm luật tin rằng một bộ máy công
quyền đủ nguồn lực và đặc biệt là đủ sự quyền uy để có thể đàng hoàng lấy lời
khai của nghi phạm mà không cần phải vin vào việc nghi phạm thiếu hiểu biết,
hay bị lừa phỉnh. Trong một quy trình hình sự, người ta quan tâm đến sự minh bạch
không kém gì tìm ra hung thủ.
Câu cảnh báo đó ở Mỹ được gọi là Miranda’s
Warning (Cảnh báo Miranda). Biệt danh này lấy theo vụ án Miranda v. Arizona vào
năm 1966 khi Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ phán quyết rằng Cảnh sát Phoenix đã vi phạm
quyền có luật sư của nghi can Miranda khi không thông báo cho anh này quyền của
mình trước khi tiến hành lấy lời khai.
Chính vì sự thiếu vắng này, nên dù Miranda đã
tình nguyện khai nhận hành vi phạm tội, Tối Cao Pháp Viện vẫn yêu cầu không được
dựa vào lời khai đó làm căn cứ trình tòa để buộc tội Miranda. Đó cũng là nguyên
tắc “quả trên cây sâu” (fruits on poisonous trees) mà mình đã từng bàn tới.
Miranda’s Warning trở thành một trong những cột trụ của hệ thống tư pháp hình sự
Mỹ và thường được nước này đem đi khoe khắp thế giới.
Tuy nhiên, nếu ai đọc về nhân thân của
Ernesto Miranda thì sẽ thấy người này cũng chẳng phải là một tượng đài anh hùng
gì, nếu không muốn nói là một phạm nhân đích thực. Sau khi lời khai nhận của
Miranda bị tòa gạt bỏ, Cảnh sát Phoenix tiếp tục khởi tố anh này và đã có thể
buộc tội mà không cần lời nhận tội. Sau này khi ra tù, nghi phạm Miranda kiếm sống
từ phán quyết năm xưa bằng cách bán các thẻ có ghi Cảnh báo Miranda với giá 1.5
đô/ chiếc, là số tiền không nhỏ vào thời điểm 1970. Miranda còn bị bắt vài lần
nữa trước khi qua đời trong một vụ ẩu đả.
Mình từng hỏi thầy mình là vì sao nước Mỹ lại
chọn lấy tên của một người có vấn đề về tư cách để đặt cho một quy định rất cao
thượng kia. Thầy mình nói rằng, đặt như vậy cũng là một cách để nhắc nhở nước Mỹ
về những sai lầm ngày xưa của họ. Hậu quả lớn nhất của một “án oan” chưa hẳn là
đưa người vô tội vào tù, mà còn là khiến công chúng nghĩ rằng nhà nước là “kẻ xấu”
đang hiếp đáp những người “yếu thế” (tuy thực tế oan ở đây chưa chắc là kết luận
sai, mà là quy trình kết luận có vấn đề, và người “yếu thế” thì chưa chắc là
người vô tội). Nó khiến xã hội mất lòng tin vào sự chín chắn của hệ thống, và lắp
đầy sự thiếu vắng đó bằng những “thần tượng” không đáng.
Hiểu như vậy để thấy rằng trách nhiệm của một
quy trình hình sự không chỉ đơn giản là áp dụng luật để quy ai đúng, ai sai, mà
còn phải bảo đảm sự công bằng, minh bạch, đàng hoàng của cả quy trình để đạt được
phán quyết thỏa đáng. Không đàng hoàng trong quy trình (ví dụ như ra chợ mua
[hung khí], thay thế hung khí bị mất, bức cung, nhục hình) hay ẩu tả trong áp dụng
pháp luật (quên văn bản) thì dù giải thích kiểu gì cũng gây ảnh hưởng đến lòng
tin của công chúng, và vô tình “tôn vinh” những người có hành vi sai. Đó là chi
phí xã hội của “án oan” mà hệ thống tư pháp hình sự có nghĩa vụ phải tiết kiệm.
.
.
NGUỒN :
No comments:
Post a Comment