Trần Văn Chánh
07/08/2023
https://baotiengdan.com/2023/08/07/chung-khau-dong-tu-ky-1/
Tham nhũng tăng dần ở Việt Nam đã trở thành một quốc nạn ai ai cũng thấy
rõ và cùng thừa nhận, nếu không ngăn chặn lại được thì quốc gia, dân tộc không
chỉ không thể cất đầu lên được, mà sẽ ngày càng suy bại. Quốc nạn này kéo theo
hàng trăm hậu quả tiêu cực, ảnh hưởng xấu đến toàn bộ quá trình phát triển của
đất nước trên đủ bốn mặt chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội.
Giai đoạn chống tham nhũng tỏ vẻ rất quyết liệt hơn cả của nhà cầm quyền
Việt Nam có thể nói đã khởi động từ năm 2016, mà người ta quen gọi “đốt lò”, đến
nay thắm thoát đã gần 7 năm. Việc “đốt lò” này đáp ứng đúng nguyện vọng tha thiết
của toàn dân nên lẽ tất nhiên đã được đại đa số quần chúng hoan nghênh ủng hộ.
Tuy nhiên, bằng cách quan sát thực tế và suy luận theo một logic hoàn
toàn chắc nịch, nếu việc “đốt lò” nêu trên có đạt được ít nhiều hiệu quả tích cực
phòng và chống như nó mong muốn, thì chắc chắn đã không để xảy ra hai vụ đại
án/ đại ác Việt Á và “Chuyến bay giải cứu”. Qua hai đại án này có thể thấy, sự
âm mưu câu kết một cách tán tận lương tâm nhất và ghê rợn nhất trong lịch sử nước
Việt, với số lượng người tham gia nhiều nhất, liên quan đến số tiền tham nhũng
cũng lớn nhất (tính đến nhiều ngàn tỉ), của hàng trăm, hàng ngàn nhân vật cán bộ
lãnh đạo các cấp lớn nhỏ thuộc nhiều ngành quản lý khác nhau trong bộ máy nhà
nước, một bộ máy vốn dĩ đã thối rữa ngày càng gia tăng từ rất lâu năm rồi.
Rõ ràng, chống tham nhũng bằng biện pháp “đốt lò” (thanh kiểm tra thần tốc
trên diện rộng, phát hiện vụ án, điều tra xét hỏi, khởi tố bắt tạm giam, đưa ra
tòa xét xử, cầm tù) đã thực hành mấy năm nay, nếu không gọi hoàn toàn phá sản
thì cũng coi như cơ bản thất bại, phải gấp rút điều chỉnh theo một con đường
khác hẳn. Điều này từ trong ra đến ngoài nước ai ai cũng hiểu, như một sự thật
hiển nhiên bất tất tranh luận, duy dường như chỉ còn sót vài ba người nào đó
trong hàng ngũ lãnh đạo cấp chóp bu là chưa tỉnh ngộ, một cách vô tình hoặc cố
ý.
Cũng có thể nhóm thiểu số này đã hiểu ra vấn đề rồi nhưng không ngưng lại
được: Vì trót đã phóng lao/ leo lưng cọp (lui lại hoặc bước xuống rất nguy hiểm…);
vì tự ái nghề nghiệp tầm thường của người đã quen đóng vai trò lãnh đạo cấp cao
lâu năm; hoặc vì những lý do rất phức tạp khác, như mất kiểm soát để cho công
cuộc đấu tranh chống tham nhũng xuất lộ khả năng bị lạm dụng theo hướng xấu,
liên quan đến cuộc đấu đá tranh giành quyền lực-quyền lợi đã và đang diễn ra
ngày càng ác liệt trong nội bộ của tổ chức chính trị hiện hữu (bằng cớ là,
chính một nhà lãnh đạo thuộc cấp cao nhất cũng thỉnh thoảng có công khai nhắc
nhở các cấp dưới của mình về điều tệ hại này).
Nếu nghĩ theo hướng tốt cho những người chủ trương “đốt lò”, ta thấy, có
thể họ thật sự giàu thiện chí theo trình độ nhận thức và kinh nghiệm cá nhân có
thể còn rất hạn chế của họ, biết khó nhưng vẫn tiến hành, với ý chí kiên cường
không chịu bó tay, tỏ ra quyết liệt với một vài mặt đáng khen, đạt được một số
thành tích nhất định, như trong vài năm đã khống chế được hàng chục ngàn nhân vật
quan tham các cỡ, lên đến cấp bộ trưởng, tạo được tác dụng răn đe khá mạnh. Nếu
nghĩ theo hướng xấu, có người lại cho rằng, “đốt lò” chẳng qua chỉ là hành động
chính trị cần thiết để tô điểm hình ảnh cá nhân và thanh trừng phe phái.
Loại trừ các hướng nghĩ cực đoan (quá khen hoặc quá chê), trong khi chưa
thể kết luận chắc chắn theo hướng nào (tốt hoặc xấu) thì điều đáng tiếc khách
quan đã diễn ra và phải nhìn nhận là bên cạnh mặt tốt còn có những hiệu ứng ngược
thật sự nguy hiểm. Đó là tình trạng gây mất đoàn kết, nghi kỵ lẫn nhau; hầu hết
các quan chức phụ trách trở nên thụ động, rụt rè, gà phải cáo, đã co vòi lại
trong việc họ không còn mạnh dạn đưa ra quyết định, không dám hạ bút ký tên cho
các dự án xây dựng đúng đắn, các cuộc đấu thầu mua sắm thiết bị cần thiết (đặc
biệt trong lĩnh vực y tế chữa bệnh)… vì không có quyền lợi đi kèm chữ ký, không
dám phết phẩy ăn bạo như trước, hoặc sợ liên quan trách nhiệm có khả năng sẽ bị
điều tra xét xử lúc nào không hay. Tình trạng này, như đang diễn ra, đã làm cho
bộ máy hành chính bị tê liệt một phần quan trọng, hoạt động kinh tế-tài chính
sa sút, doanh nghiệp phá sản hàng loạt, dẫn đến trầm trọng hóa nạn thất nghiệp,
đói nghèo, kéo theo biết bao những hệ lụy tệ nạn xã hội khác, vô phương cứu chữa…
Có thể ví việc chống tham nhũng giống như chữa một căn bệnh nặng trầm
kha, người thầy thuốc dù Đông hay Tây y đều phải tinh thông nghiệp vụ, hiểu rõ
tương tác thuốc cùng các hiệu ứng phụ, trên cơ sở cân bằng hoạt động giữa các
cơ quan trong ngũ tạng lục phủ, nếu không, cái gọi là hiệu ứng phụ rất thường
khi sẽ trở thành nguyên nhân chính, trực tiếp làm cho con bệnh tử vong.
Khi xem xét một sự vật hay hiện tượng, luôn phải nhìn thấy cả hai mặt
trong mối quan hệ biện chứng âm-dương của chúng. Như việc “đốt lò”, có mặt tốt
mặt xấu; bản thân những người chủ trương nó cũng vậy: Nếu kế hoạch thực hiện bị
phá sản, đó là do nhận thức của họ còn có quá nhiều mặt hạn chế, chủ yếu do mù
quáng, tin theo chủ nghĩa Mác-Lênin một cách giáo điều mà ra, lại tối ngày lo hội
họp, không có thì giờ suy xét học hỏi, mà trở nên tối mắt lú lẫn, chứ bảo rằng
họ cố tình muốn hại dân, hại nước, hại anh em đồng chí, thì không phải.
Còn đối với đa số quần chúng bên ngoài (bao gồm cán bộ công nhân viên chức
cấp nhỏ), bận bịu công ăn việc làm, với nhãn quan chính trị hời hợt đầy hạn chế,
nghe nói chống tham nhũng, liên tục đưa quan tham vào tù nhiều, thì ham, họ chỉ
một mặt vỗ tay hoan hô mà không chịu phân tích đi vào chiều sâu vấn đề, tìm ra
căn nguyên của quốc nạn tham nhũng, khiến cho người chủ trương “đốt lò” càng
thêm hứng chí, tưởng mình đang làm đúng và cứ thế quạt thêm cho lửa cháy mạnh,
tiếp tục đốt cả “củi khô lẫn củi tươi”, theo phương châm nhắc đi nhắc lại
“không có vùng cấm, không có ngoại lệ”…
Chúng ta cũng không được quên rằng, nạn tham nhũng tràn lan ở Việt Nam là
có nguồn gốc khách quan của nó, và đã diễn ra như một tất yếu lịch sử: Một bộ
phận dân tộc từng bị ép trong cảnh đói nghèo, nhân danh chống đế quốc, lại phải
trải qua cuộc chiến tranh hy sinh xương máu trong suốt 20 năm (1954-1975) chưa
từng được sống bình yên hưởng thụ, nay hòa bình lập lại, đất nước thống nhất,
thì người ta phải tìm mọi cách bung ra các kiểu để đạt được điều kiện thụ hưởng
vật chất, sinh ra làm bậy, tạo nên một thứ CNXH dị dạng hay CNTB cuồng nhiệt,
là điều gần như tự nhiên rất khó tránh khỏi. Tương tự, chẳng hạn, khi tín ngưỡng
một nơi bị tiêu diệt lâu ngày, nếu được mở ra lại, tất yếu sẽ trở thành những
biến tướng dị đoan vô cùng quái đản!
Chống tham nhũng để bảo vệ quyền lợi của đa số nhân dân lao động, vì vậy,
bắt buộc phải làm một cách quyết liệt, nhưng cũng cần hiểu được lý do sâu xa của
sự vật, và tính nhân văn chính là thể hiện ở điểm tư duy sâu sắc này, từ đó tìm
ra hệ giải pháp thích hợp, chứ không phải cho phép kẻ tham nhũng tiền tỉ được nộp
tiền khắc phục hậu quả để thoát tội…
Cũng trong quan điểm luôn xem xét sự vật hay hiện tượng một cách khách
quan đa chiều theo luật biện chứng, tôi cho rằng trong hai vụ đại án lịch sử Việt
Á và “Chuyến bay giải cứu”, bên cạnh mặt tán tận lương tâm, vô nhân đạo của các
phần tử chức quyền tham gia (mà phần lớn đáng tội phải xử tử, theo công lý và
theo điều khoản pháp luật), vẫn còn có một mặt tích cực của chúng, cho đại cuộc,
đó là đã góp phần hữu hiệu làm cho mọi con dân trong nước, cũng như cả thế giới
càng thấy rõ hơn nữa/ không còn nghi ngờ gì nữa về tính chất hạn chế bất khả
tranh luận của bộ máy độc tài toàn trị hiện hữu. Và đây mới chính là căn nguyên
gốc rễ, nguyên nhân của mọi nguyên nhân, gây nên quốc nạn tham nhũng trầm trọng
nhất trong lịch sử dân tộc.
Vì vậy, bắt buộc bộ máy này, nếu muốn tồn tại một cách chính danh, được
nhân dân vui vẻ ủng hộ lâu dài, phải gấp rút điều chỉnh, không do dự, từ những
nguyên lý tổ chức căn bản nhất đối với bộ máy cai trị theo hướng dân chủ hóa
toàn bộ đời sống xã hội, trong đó có các nhánh quyền lực và các tổ chức dân sự
hợp pháp có thể chế ước, kiểm soát lẫn nhau, như các nước văn minh đã thực hành
từ lâu.
Trở lại công cuộc “đốt lò”, bên cạnh tác dụng tốt, loại trừ một số phần tử
tham nhũng (được dân chúng hoan nghênh), thì tác dụng phụ “đấu đá quyền lực/
thanh trừng phe phái” đương nhiên của nó, thể hiện qua việc tố cáo lẫn nhau
trên các mạng xã hội (có vài trang mạng chuyên làm việc này) cũng giúp cho dân
chúng trông thấy rõ hơn bộ mặt thật, tha hóa, xấu xa cùng cực của tầng lớp lãnh
đạo hiện nay, mà nền tảng gây nên cũng không gì khác hơn là thể chế độc tài
toàn trị mất kiểm soát, hoặc kiểm soát theo lối độc tài phi nhân tính.
Tiền đề cần thiết của mọi cuộc vận động cải cách trong lịch sử bao giờ
cũng là sự nhận thức đầy đủ thực tại chính trị-xã hội của đại đa số người dân
trong nước. Bây giờ thì ai ai cũng đã nhận ra “Sờ tới đâu cũng có tham nhũng”,
nó phát triển thành “một bầy sâu”, “ăn không chừa một thứ gì” … như một thực tại
hiển nhiên không thể chối cãi. Và khi một hiện tượng diễn ra phổ biến rộng khắp,
thì nó không còn là “hiện tượng” nhất thời nữa, mà đã trở thành bản chất.
Cho nên, có thể nói, quốc nạn tham nhũng bị đẩy tới trạng thái cực đoan
như hiện nay (biểu hiện cụ thể sinh động qua hai vụ đại án nổi tiếng nêu trên),
kèm theo việc “đốt lò” đang trên đường lúng túng, phá sản, cũng chính là cặp
tiền đề quan trọng có tác dụng chuẩn bị và thúc đẩy mạnh mẽ từ bên
trong, quyết tâm cải cách thể chế chính trị và luật pháp trong một tương lai
không xa, bởi không thể tránh né hoặc tìm cách đi lòng vòng bằng bất kỳ con đường
nào khác.
Vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản (sự vật đi đến chỗ cùng cực thì phải
biến đổi, phải quay trở lại), đó là một quy luật nhân sinh và vũ trụ, hầu như
không bao giờ sai, trừ khi người ta cố ép sự vật một cách tạm thời bằng những
biện pháp trái với quy luật tự nhiên.
(Còn tiếp)
***
Trần Văn Chánh
08/08/2023
https://baotiengdan.com/2023/08/08/chung-khau-dong-tu-ky-2/
Như chúng ta đều biết, mặc dù luôn nói chính quyền là “của dân, do dân,
vì dân”, “dân làm chủ”… nhưng đặc điểm chung của tất cả các quốc gia theo chế độ
độc tài toàn trị trên thế giới đều là giữ bí mật/ giấu giếm. Họ không muốn cho
dân biết những chuyện xấu xa, thối nát bên trong, mà họ gọi là làm “mất đoàn kết
nội bộ”, nên họ không cho tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội…
một cách thực tế như hiến pháp đã ghi (ở nước ta là Điều 25 Hiến pháp
2013). Họ chuyên dùng biện pháp mềm “tuyên giáo”, để che đậy sự thật, biện minh
cho những chính sách đi ngược lòng dân, và dùng biện pháp mạnh để trấn áp-bắt bớ-xử
“bỏ túi” một số công dân vì tin theo hiến pháp mà dám gióng lên tiếng nói, đòi
hỏi thực thi nền dân chủ pháp trị.
Tuy nhiên, thời cuộc và tình hình thực tế hiện nay đã có nhiều đổi khác.
Với mạng Internet và điện thoại thông minh giá rẻ cầm tay, mọi công dân bình
thường đều có thể thu thập thông tin từ tất cả các nguồn khác nhau, nên dù nhà
cầm quyền có cố tình giữ bí mật/ ngăn chặn các tin “xấu” cũng không phải dễ.
Nhất là đối với những vụ quá lớn, đã bung bét tùm lum, như các đại án Việt
Á, “Chuyến bay giải cứu”, trình ra bộ mặt của những vị tai to mặt lớn, bôi bác
chế độ, muốn che giấu cũng không thể còn che giấu được nữa!
Qua các vụ đại án, hoạt động tuyên truyền của ngành tuyên giáo trên thực
tế đã trở nên yếu ớt, kém sức thuyết phục, vì có sự chênh lệch quá lớn, khó chối
cãi giữa thực tế phũ phàng là quốc nạn tham nhũng và các kiểu lý luận sặc mùi
giáo điều. Trái lại là sự tràn lấn ngày càng gia tăng như vũ bão, không thể chặn
hết nổi của các trang mạng xã hội dưới những hình thức truyền thông cực kỳ đa dạng.
Đặc biệt lợi hại là, hàng trăm kênh Youtube, hàng triệu trang Facebook cá nhân
và một số báo đài nói tiếng Việt có nguồn gốc nước ngoài, gọi chung là các mạng
xã hội. Tại đây, người ta thường xuyên đưa tin bình luận về tình hình chính trị-kinh
tế-xã hội Việt Nam, về các hoạt động, việc làm của chính quyền.
Không kể một số kênh/ báo đài có tính cách phi chính trị (như ca hát, văn
hóa nghệ thuật, phổ biến kiến thức về khoa học, sức khỏe, lịch sử, hôn nhân gia
đình, kinh nghiệm sống…) và một số kênh Youtube giật gân, câu khách để kiếm tiền,
có thể tạm phân chia các mạng xã hội ra làm 3 loại chính:
(1) Những kênh/ báo đài thông tin chuyên nghiệp (đưa tin chính xác và
bình luận tương đối khách quan);
(2) Những kênh đưa tin và bình luận chống Việt Nam của “các thế lực thù địch”
(có kênh dùng cách phóng đại sự thật để chỉ trích);
(3) Một số kênh có khuynh hướng phản biện, phê phán chính sách của nhà cầm
quyền Việt Nam, nhưng có thiện chí đóng góp, khen chê đúng mực, nói có sách
mách có chứng, chống tin giả. Những kênh này không chủ trương lật đổ, chỉ vừa
phê bình, vừa kêu gọi thúc đẩy cải cách, để xây dựng một nước Việt Nam vững mạnh,
tiến bộ, giúp người dân được sống cuộc sống ấm no, hạnh phúc, trên cơ sở xây dựng
một nền dân chủ pháp trị lành mạnh, vẫn do CS Việt Nam lãnh đạo… Các kệnh loại
này thường đăng hoặc phát những bài viết phản biện xã hội đúng đắn, của thành
phần trí thức, cả trong lẫn ngoài nước.
Tổng quát, tuy có thể xuất phát từ những quan điểm và mục đích/ ý đồ khác
nhau, thậm chí đối nghịch nhau, nhưng tất cả các mạng xã hội/ báo đài nêu trên,
đều có điểm chung nhất là họ đứng trên lập trường về phía người dân (nhất là
nhân dân lao động) để đưa tin, hoặc bình phẩm việc làm sai trái của chính quyền.
Các kênh này đặc biệt tập trung vào quốc nạn tham nhũng, chính sách yếu kém về
y tế, giáo dục, chống áp bức, bất công (như về đất đai…), chống tiêu cực xã hội,
chống tình trạng vận dụng luật pháp tùy tiện. Ngoài ra, các kênh này cũng đòi hỏi
tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do dân chủ, kêu gọi phóng thích những người
bất chính kiến, nhắc nhở việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ….
Các kênh này chủ yếu tập trung phê bình các khuyết điểm liên quan việc nội
trị, còn về mặt ngoại giao, các mạng xã hội tiếng Việt thường chỉ đưa tin, ít
phê phán nặng nề, vì dường như nhà cầm quyền Việt Nam đang chọn được hướng đi
ngoại giao tương đối đúng đắn, trên cơ sở biết luồn lách khéo léo giữa các cực
cường quốc; đôi khi cũng có kẻ lên tiếng phê bình ẩu tả, cho rằng Việt Nam “hèn
với giặc” (Trung Quốc), là thiếu sự suy xét ở tầm nghiên cứu chiều sâu của vấn
đề.
Nhìn chung, dù có thể mang nhiều quan điểm và sắc thái khác nhau, nhưng
hiếm thấy các mạng xã hội tiếng Việt có chủ trương kích động bạo động, chống
Nhà nước Việt Nam dưới mọi hình thức, mà chỉ chuyên đi theo con đường ngôn luận,
mong muốn góp phần tác động để sớm có được những chuyển biến lớn tích cực,
trong điều kiện hòa bình. Các mạng xã hội thiếu đúng đắn đều không nhận được sự
ủng hộ của số đông quần chúng có hiểu biết.
Nương theo một vài kênh/ báo đài tương đối đúng đắn có nguồn gốc nước
ngoài nêu trên (lẽ tất nhiên phải từ nước ngoài, chứ trong nước thì vẫn có vài
tiếng nói, nhưng luôn bị chặn bằng “luật an ninh mạng”), giới nhân sĩ trí thức
Việt Nam (nhà văn, nhà báo, thầy giáo, bác sĩ, kỹ sư, luật sư, học giả, một bộ
phận cán bộ nhà nước tiến bộ đang làm việc, hoặc đã nghỉ hưu…) tâm huyết với tiền
đồ dân tộc, đã mạnh dạn phát biểu, đưa ra nhiều ý kiến phản biện thẳng thắn, có
tính xây dựng. Không ít người trong số họ đã can đảm nói, viết bằng một giọng
văn đanh thép, không chút kiêng dè với kiến thức uyên bác và những lý lẽ đôi
khi làm chúng ta phải vừa tâm phục, khẩu phục; vừa hết sức kinh ngạc.
Tựu trung, tất cả họ đều đòi hỏi phải mạnh dạn cải cách thể chế kinh tế-chính
trị, xây dựng nền dân chủ pháp quyền, từ góc độ nguyên lý chứ không chỉ sửa sai
lặt vặt theo kiểu chắp vá tiểu xảo. Họ coi đây mới là đường lối duy nhất đúng đắn,
hiệu quả nhất, để khắc phục quốc nạn tham nhũng, cùng nhiều tệ nạn khác, vì tất
cả đều cho rằng, nguồn gốc đích thực, hay thủ phạm của tệ nạn tràn lan không gì
khác hơn là chính cái thể chế độc tài toàn trị, không có sự phân chia rạch ròi
giữa các nhánh quyền lực, để có sự chế ước và điều chỉnh.
Đến đây, đã thật sự diễn ra hiện tượng “chúng khẩu đồng từ”, tức muôn miệng
một lời, từ trong ra ngoài nước, nếu không muốn nói trên cả toàn thế giới!
Cũng đã và đang diễn ra cục diện đấu tranh quyết liệt giữa một bên là
nhân dân lao động, một số cán bộ công chức nhà nước có tinh thần cầu tiến và giới
trí thức tâm huyết khai minh, với một bên là bộ phận (chứ không phải tất cả)
các nhà đương cuộc cao cấp CSVN cực kỳ bảo thủ.
Lẽ tất nhiên, lời thật khó tránh khỏi gây mất lòng, nên những tiếng nói
tiến bộ “muôn miệng một lời” như trên cũng đã gặp sự phản kháng, nhất định
không chịu thua từ phía chính quyền, bằng cách cho lập ra đội ngũ dư luận viên
với một số trang mạng đối lập, để bổ sung cho hàng trăm tờ báo có sẵn trong nước,
với lý luận phần nhiều yếu ớt, theo kiểu vừa ca ngợi chính sách của nhà cầm quyền,
vừa mạt sát, chụp mũ những phần tử nguyên khí quốc gia, bất đồng chính kiến.
Nhưng nếu nhà cầm quyền thật sự vững mạnh và đủ tự tin, họ sẽ không lo sợ
bị sụp đổ trước làn sóng dư luận phê phán mạnh mẽ từ khắp nơi nơi. Trái lại,
thay vì mù quáng, mất tự chủ, dùng lề lối mị dân hoặc bạo lực để trấn áp dân chủ,
họ sẽ sớm tỉnh ngộ chuyển đổi thái độ, từ thù địch sang thái độ thân thiện,
khách quan, biết gạn đục khơi trong, lắng nghe một cách có chọn lọc tất cả mọi
tiếng nói khác biệt, kể cả của những nhóm người từng bị họ gán cho danh hiệu
“các thế lực thù địch”. Muốn vô hiệu hóa để không còn bị nhức nhối, khó chịu vì
những lời dị nghị phản biện (ác cảm hoặc thiện cảm), cách tốt nhất của nhà cầm quyền
là mau mau sửa đổi, rút ra từ chính những lời dị nghị, phản biện đó.
Lênin là một người như vậy, ông ta khá độc tài, thế mà cũng thường biết
chú ý lắng nghe ý kiến của những người đối lập, chịu khó đọc các sách báo của kẻ
thù viết về cuộc cách mạng ở Nga lúc đó đang gặp nhiều khó khan. Ông ta tự nhủ:
“Những người này đã giúp đỡ chúng ta rất nhiều. Họ nhắc chúng ta chú ý đến tất
cả những sai lầm và hành động ngốc nghếch mà chúng ta mắc phải. Chúng ta phải
cám ơn họ”. Ông không ưa kẻ khác tán tụng mình hoặc thêu dệt thêm những
thành tích đã đạt được ở Nga, dù chỉ là để tuyên truyền (xem Lênin, Về
văn học nghệ thuật, NXB Văn Hóa Nghệ Thuật, Hà Nội, 1963, tr. 114).
Người xưa nói, “cuồng phu chi ngôn khả dĩ trạch yên”, nghĩa là lời nói của
kẻ điên khùng còn có chỗ xài được! Điều quan trọng đối với các lãnh đạo Việt
Nam hiện đang chịu trọng trách bây giờ, là phải luôn biết đề cao cảnh giác trước
những lời xu nịnh, ngon ngọt của bọn tiểu nhân vây quanh, để tránh tai họa cho
ngay chính bản thân mình trong tương lai.
Trước tình hình thực tế hiện tại, một khi “chúng khẩu” đã “đồng từ” như
miêu tả ở trên, thiết tưởng không còn bất kỳ một lựa chọn tốt đẹp nào khác hơn
là mau mau cải cách thể chế, bằng hành động trước tiên là thực hiện
đúng thực chất và trên thực tế tất cả những điều khoản đã ghi trong bản Hiến
pháp Việt Nam, do chính những người CS lập ra, rồi sau đó sẽ tùy theo tình
hình thực tế của từng giai đoạn cụ thể mà từ từ tính tiếp.
(Hết)
No comments:
Post a Comment