Từ Việt Nam, Lithuania, Ba Lan, đến Ukraine: Hòa bình thế giới thời
Putin
Trangđài Glassey-Trầnguyễn, Ph.D.
April 6, 2023
LTS. Trong Hội
Nghị Thường Niên Hiệp Hội Fulbright được tổ chức tại Bethesda, Maryland, Hoa Kỳ,
Tiến Sĩ Trangđài Glassey-Trầnguyễn có một bài phát biểu liên quan đến hòa bình
thế giới. Nhân dịp thế giới vừa đánh dấu cuộc xâm lăng của Nga đối với Ukraine
hồi Tháng Hai, nhật báo Người Việt nhận được bài phát biểu biểu này, và vì sự
việc vẫn còn mang tính thời sự, chúng tôi xin đăng tải để độc giả biết thêm tin
tức. Tiến Sĩ Trangđài nhận học bổng Fulbright toàn phần, bậc tối ưu, năm
2004-2005 để nghiên cứu về người Việt tại Thụy Điển. Cô là người Mỹ gốc Việt đầu
tiên và duy nhất được chọn đến Thụy Điển trong lịch sử của chương trình
Fulbright.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2023/04/DD-Hoa-Binh-Cho-Ukraine-1536x1152.jpg
Tiến Sĩ Trangđài Glassey-Trầnguyễn (thứ hai từ phải)
cùng một số sinh viên đại học Klaipeda University, Lithuania. (Hình: Trangđài
Glassey-Trầnguyễn cung cấp)
Bài phát biểu này dựa trên những cuộc gặp gỡ
tôi có được ở Lithuania và Ba Lan vào mùa Hè năm 2005. Tôi nhìn về hòa bình thế
giới và quá trình một quốc gia chống chọi với sự tấn công, đàn áp của ngoại
bang và những dư âm của nó. Với cuộc xâm lăng của Tổng Thống Vladimir Putin vào
Ukraine đang diễn ra khốc liệt từ Tháng Hai, 2022, chúng ta phải hỏi làm cách
nào để một dân tộc không chỉ đối diện với những hoang tàn, đổ nát từ chiến
tranh mà còn phải mặc cả với những hình thức đô hộ khác vốn còn kéo dài nhiều
năm nữa. Là học giả Fulbright người Mỹ gốc Việt đầu tiên đến Thụy Điển, tôi
quan tâm sâu sắc đến việc Thuỵ Điển và Phần Lan xin gia nhập khối NATO năm
2022, khi họ cảm thấy an ninh quốc gia bị đe doạ. Khi ông Putin xâm lược và tàn
phá thảm khốc đất nước Ukraine, vấn đề an ninh quốc gia của các đất nước có diện
tích nhỏ như Thụy Điển và Đài Loan trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Chúng ta
có thể tìm ra những giải pháp và hy vọng nào từ lịch sử của Lithuania và Ba Lan
cho Ukraine hôm nay?
Tháng Năm, 2005, tôi đến dự Đại Hội Liên Ngành
tại đại học Klaipeda University, Lithuania. Khi đi xe buýt từ phi trường về
Klaipeda, tôi thật sự xúc động khi xe lướt trên những con đường dài với những
cánh đồng trống hai bên. Sau này, tôi gọi Lithuania là Việt Nam thứ hai của
tôi, quê hương hậu chiến mà tôi đã sống và đã biết trong 19 năm trước khi tôi đến
Mỹ. Khung cảnh này thật quá giống quê tôi ngày xưa! Đồng không. Nhà cửa hoang
tàn. Cơ sở hạ tầng bị bỏ phế. Một sự thinh lặng buồn tênh rót vào không gian.
Cái đốn mạt và vụn vỡ thân quen đến rợn người.
Nhiều bài thuyết trình tại đại hội xoay quanh
kinh nghiệm người Lithuania đối diện với việc mất đất đai một sớm một chiều dưới
chế độ cải cách ruộng đất của nhà nước độc tài. Nông dân buộc phải canh tác cho
chính quyền, bị tước đoạt hết thành quả lao động, và phải chịu đói. Đây cũng một
thực tế mà tôi đã chứng kiến khi lớn lên ở quê nhà. Những câu chuyện này làm
tim tôi chao đảo.
Khi chúng tôi tản bộ quanh phố cảng Klaipeda,
tôi cảm nhận gánh nặng của một quá khứ bị đô hộ trên khuôn mặt và đôi vai của
những người bộ hành, và sự phẫn uất trỗi lên từ một đời sống bị đàn áp. Các bạn
người Lithuania kể lại chuyện phải sống qua mùa Đông với hệ thống sưởi “trung
tâm” của thành phố, về sự đô hộ khốc liệt của Liên Xô, và về việc tái thực hiện
các hoạt động văn hóa của họ sau khi giành được độc lập hồi thập niên 1990. Những
nụ cười buồn tênh về những trò đùa chua chát của Liên Xô.
Nhưng giữa những tàn phá thảm khốc đó vẫn có một
mạch sống nuôi dưỡng người dân Lithuania. Trong đại hội, chúng tôi tham gia một
dạ tiệc có dân nhạc và vũ điệu của người Lithuania. Đêm Văn Hóa Lithuania của đại
hội năm 2005 lóng lánh sức sống và niềm tự hào. Tôi có thể cảm nhận được những
hạt mầm của tự do và tự quyết cho Lithuania đang nẩy nở trong từng bài hát và
vũ điệu.
Tôi có thể liên tưởng một cách trực tiếp và
tinh tường về hoàn cảnh đất nước Lithuania bởi vì Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng
nề của Liên Xô trong thời gian tôi lớn lên tại quê nhà. Tôi muốn nhấn mạnh rằng
tuy Việt Nam chưa bao giờ bị Liên Xô chính thức đô hộ, nhưng ảnh hưởng của Liên
Xô hiện rõ mồn một trong mọi chiều kích cuộc sống tại Việt Nam trong thập niên
1980 và 1990. Khi tôi lớn lên, trẻ con đến trường phải học thuộc lòng những bài
thơ ca ngợi các lãnh tụ Xô Viết.
Tháng Tám, 2005, tôi đến thăm thủ đô Warsaw của
Ba Lan và gặp người Việt phi quốc gia tại chợ trời Sân Vận Động Mười Năm. Tại một
buổi hòa nhạc Chopin tại công viên Royal Łazienki, tôi gặp những đứa bé bán hoa
hướng dương tươi đầy hạt để người ta mua ăn vặt. Nét buồn vương trong những đôi
mắt ngây thơ ấy đã ám ảnh tôi. Những người bạn Ba Lan chia sẻ với tôi niềm phẫn
uất của họ về tòa nhà Văn Hóa và Khoa Học, được thành lập năm 1955, theo chỉ thị
của nhà độc tài Joseph Stalin như là “món quà của dân tộc Nga cho dân tộc Ba
Lan.” Món quà từ kẻ thống trị tiếp tục là một cái gai nhức nhối trong con mắt của
người dân Ba Lan tự do và trên một nước Ba Lan độc lập.
Tôi được tham dự đại hội kỷ niệm 25 năm thành
lập Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan tại phố cảng Gdanks. Một điểm nổi bật là thời điểm
xoay chuyển trong Phong Trào, khi Đức Giáo Hoàng John Paul đệ nhị đến hành
hương Ba Lan lần đầu tiên năm 1979. Thông điệp của ngài cho dân tộc Ba Lan rất
đơn giản, “Hãy yêu thương nhau.” Ngài được gọi là “vị giáo hoàng đã thay đổi Ba
Lan” bởi vì chuyến viếng thăm của ngài đã khơi dậy trong lòng người Ba Lan niềm
khao khát cho độc lập quốc gia. Chính niềm khao khát giành độc lập của cả một
dân tộc đã làm đòn bẩy, đưa Công Đoàn Đoàn Kết đi tới và góp phần kiến tạo độc
lập cho đất nước Ba Lan và lật đổ chế độ Cộng Sản ở Đông Âu.
Từ Tháng Hai, 2022, thế giới đã chứng kiến cảnh
người dân Ukraine chiến đấu chống ngoại xâm Nga bằng mọi giá, với niềm hy vọng
thiết tha và lòng dũng cảm phi thường. Cái giá phải trả thật quá cao. Mất mát
cũng rất lớn. Nhưng tinh thần của người Ukraine vẫn kiên cường hơn bao giờ hết.
Tôi xin kết thúc phần phát biểu của mình với một bài thơ ngắn – như một lời
nguyện khiêm cung của tôi cho hòa bình và cho một Ukraine tự do HÔM NAY – và một
cử chỉ nhỏ bé của tôi để hướng đến sự liên đới cho hòa bình thế giới.
Chim hạc tượng trưng cho lòng chính trực, sức
mạnh, sự duyên dáng, sự kiên cường, và lòng dũng cảm. Chim hạc cũng là biểu tượng
của sự trường thọ, và với ý nghĩa này mà chúng ta mong rằng đất nước Ukraine sẽ
mãi trường tồn!
*
Một ngàn
cánh hạc cho Ukraine
Trangđài
Glassey-Trầnguyễn
một ngàn cánh hạc cho Ukraine
cho Hasan Alkhalaf mười một tuổi
lìa Mẹ từ Zaporizhzhya
lìa bóng tối rợn rùng đã lẻn vào quê hương em
một mình, vượt 750 dặm đến Slovakia
chỉ với tấm hộ chiếu và một số điện thoại được viết trên bàn tay
“niềm hy vọng đã đưa tôi đi,” em nói
một ngàn cánh hạc cho Ukraine
cho sự dũng cảm của một dân tộc
tính kiên trì, tinh thần bất khuất, và sự chịu đựng,
vẫn tươi nở trong hai màu vàng và xanh dương,
như bầu trời và hoa hướng dương
đã nẩy sinh một nền hòa bình và miền phục sinh viên mãn
tuổi trẻ sẽ đẩy lùi mọi tàn phá, đổ nát
một ngàn cánh hạc cho Ukraine
ở Mariupol, Melitopol, Luhansk, Donestk,
lực lượng chống giặc đang tiến lên,
bao cánh hạc sẽ ôm ấp những vết thương của miền đất này,
Ukraine sẽ tự do!
công lý sẽ đứng vững!
một ngàn cánh hạc cho Ukraine
hỡi hòa bình, xin hãy đến
ôi, niềm vui, xin hãy đến
và tình yêu, xin ở mãi đây
chim phượng hoàng sẽ mạnh mẽ cất cánh từ đống tro tàn
của tất cả những độc ác vô lý này
cả thế giới đồng một lòng với sự thật của các bạn
Chúng ta vùng đứng với Ukraine! [đ.d.]
No comments:
Post a Comment