18 Tháng Tư, 2023
http://vanviet.info/nghien-cuu-phe-binh/vinh-biet-nh-nghin-cuu-ph-bnh-van-hoc-dang-tien/
http://vanviet.info/wp-content/uploads/2023/04/image_thumb10.png
Chân dung Đặng Tiến
Đặng Tiến là một nhà phê bình văn học có tiếng
ở miền Nam Việt Nam trước 1975. Do hoàn cảnh chiến tranh và cư ngụ nước ngoài,
bạn đọc trong nước, nhất là người miền Bắc, từ sau 1975 ít có điều kiện tiếp
xúc với phê bình văn học của ông. Trước đó năm 1972 ở miền Nam lưu hành tập Vũ
trụ thơ[1] mà nhiều người còn nhắc. Sau
này có thêm tập Vũ trụ thơ II[2] và
tập Thơ, thi pháp và chân dung[3].Tôi
cũng đọc các bài trên trang dangtien, Art2all.net. Ngoài các tài liệu ấy chúng
tôi còn biết rất ít về Đặng Tiến. Điều chúng tôi thích thú với ông, trước hết
vì ông cũng là người đam mê thi pháp như chúng tôi và ông có điều kiện đi trước
chúng tôi một thời gian khá dài.
Đặng Tiến sinh năm 1940, quê ở An Trạch, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc về thành phố Đà Nẵng. Ông tốt nghiệp văn
khoa Sài Gòn năm 1963, ra ngoại quốc từ năm 1966, từ năm 1968 ông định cư tại
Pháp, dạy tiếng Việt và văn học Việt Nam ở Orléans và Đại học Paris VII, Denis
Diderot cho đến khi về hưu năm 2005. Ông viết cho các báo trong nước và nước
ngoài. Khi ông về nước, tôi đã có mấy lần gặp ông, chủ yếu để làm quen. Đọc
sách của ông người ta thấy ông thiên về thưởng ngoạn văn học nhiều hơn là
nghiên cứu lí thuyết, phê bình văn học của ông có nét riêng.
Tập tiểu luận Vũ trụ thơ 1972
viết về năm tác giả. “Vũ trụ thơ” theo tôi hiểu, tức là “thế giới nghệ thuật
thơ”, nhan đề cuốn sách của tôi năm 1995. Đó là điều khiến tôi thú vị như gặp
được người đồng điệu. Xem nhan đề thấy ông nhìn tác phẩm văn học như thế giới
nghệ thuật, tức thế giới có quy luật riêng, khác với thế giới tự nhiên, xã hội,
một ý tưởng đã có từ giữa thế kỉ XIX, nhưng diễn giải theo các phương pháp của
thế kỉ XX. Đã xem tác phẩm là vũ trụ thì tất phải quan tâm đến con người trong
đó, quan niệm về con người, bởi thế giới nghệ thuật là thế giới của các nhân vật
trong tác phẩm được nhìn theo con mắt của nhà văn (thơ). Từ những nét chung của
vũ trụ thơ mà đi đến tìm hiểu các từ khóa nổi lên trong vũ trụ ấy, rồi từ các từ
khóa mà xác lập nên cái vũ trụ kia. Tập tiểu luận được nhiều người nhắc đến có
lẽ do có những phát hiện, khơi gợi một cách cảm thụ mới.
Có nhà phê bình cho rằng bình thơ của Đặng Tiến
vẫn chưa thoát khỏi tệ “thuật, bình, tán”, nhưng đọc kĩ thì có vẻ không đúng
như vậy. Bởi ông cũng ghét bình tán thơ thành tán phét, và chủ trương, “Nhà phê
bình ít nhiều khuynh đảo dư luận quần chúng, thì phải có trách nhiệm khoa học:
anh khen một câu thơ hay ắt phải có khả năng giải thích nó hay ở chỗ nào” (Thơ,
thi pháp và chân dung, tr. 190). Và Đặng Tiến làm được điều ấy, nghĩa là
phê bình theo một quan niệm khoa học, dùng khoa học để giải thích ý nghĩa.
Đọc Đoạn trường tân thanh ông
nhìn thấy một thế giới phi lí, hư vô, cô đơn, tha hóa, lưu đày, tựa như
đem Truyện Kiều mà minh họa cho quan niệm của chủ nghĩa hiện
sinh về cuộc đời, nhưng đó là cách ông lí giải về tư tưởng của tác phẩm, khác với
các cách trước đó. “Con người trong Đoạn trường tân thanh là
con người phi lí, nô lệ, cô đơn, nhục nhã, lưu đày, tha hóa, gian dối. Truyện
Kiều là ý thức bi đát của thân phận làm người. Nhưng giá trị Truyện
Kiều không dừng lại ở ý thức bi đát đó.” Dĩ nhiên đó là thế giới của
nhân vật chính Thúy Kiều, không phải của Thuý Vân, Kim Trọng. Tuy nhiên Nguyễn
Du đã chiến thắng khi “sáng tạo ra một tác phẩm đẹp, tạo niềm tin mới cho con
người, tạo ý thức của những giá trị cao cả tiềm tàng trong cuộc sống.”, ý nói
nghệ thuật đã chiến thắng cuộc sống bi đát (tr.27).
Khi xem tác phẩm của một tác giả là vũ
trụ thơ Đặng Tiến, cũng như người khác, sẽ không bình thơ theo bài, mà
theo cái thế giới nghệ thuật, thể hiện trong nhiều bài, của tác giả để lại nơi ấn
tượng của người bình. Đó là các motif ngôn từ như phôi pha, cách biệt, chia
lìa, héo úa, rơi rụng cứ lặp đi lặp lại trong thơ Tản Đà, một bài viết khá ấn
tượng. Phát hiện của thơ Tản Đà là sự phôi pha.
Triết lí của Đặng Tiến giống như triết gia Hi
Lạp đã nói, con người không thể tắm hai lần ở một dòng sông, người đọc mỗi lần
đọc tác phẩm một khác. Tác phẩm văn nghệ không mạch lạc như người ta tưởng, và
người phê bình cũng không có một quan niệm nhất quán, dứt khoát về một tác giả,
thiết nghĩ là một ý tưởng khả thủ, và như thế nhà phê bình cũng sẽ không tranh
cãi, nếu ai đó có ý kiến khác. Bởi tất cả đều thay đổi, phôi pha. Tác giả biết
phát hiện và có ý thức về giới hạn của phát hiện của mình. Về Quốc âm
thi tập của Nguyễn Trãi Đặng Tiến chú ý đến thi tính ở ý thức vạch lối
tìm đường về thể loại, về sử dụng từ láy, danh từ chỉ đồ vật Việt Nam và chất
thơ thanh cao, lòng yêu thiên nhiên trong trẻo. Ở bài Đức tin trong hồn
thơ Hàn Mặc Tử Đặng Tiến tranh luận với Vũ Ngọc Phan, dùng ý thức tôn
giáo, phương pháp chủ đề học (phê bình ý thức) để giải mã hình tượng thơ. Tôi
nghĩ đây là những phân tích có giá trị. Ông cho biết, trong cái thẹn thò của
trăng đã nhuốm ý thức nguyên tội và trong các bài thơ dục tình của nhà thơ tuy
táo bạo bậc nhất trong thơ mới, nhưng táo bạo đến đâu vẫn còn ý nhị, không sống
sượng. Dù có cợt nhã đến đâu đều là tình trong không tưởng. Đặng Tiến giải
thích tập thơ Đau thương làm trong khi Hàn Mặc Tử phát bệnh cực
kì đau khổ, mà vẫn an vui, là vì niềm tin đau thương đối với người Thiên Chúa
giáo là một huyền nhiệm, thai nghén cho ngày mai. Biểu tượng trăng, theo nhà
bình luận vẫn có cội nguồn trong đức tin, Trăng là ánh sáng, nhà thơ là ánh
trăng, là con của Ánh Sáng. Theo J. P. Richard, máu là cuộc sống đang chết hay
là cái chết tàn nhẫn, theo đó máu vừa là hành hạ vừa là giải thoát. Còn Hồn là
cái tồn tại đợi ngày Phục sinh. Và Hàn Mặc Tử đã sống trọn vẹn với đức tin của
mình trong những ngày đau thương nhất. Đặng Tiến không phản đối cách hiểu theo
từ bi của Phật. Tôi thích thái độ này của Đặng, bởi mình cứ tìm tòi, mà không cản
trở ai khác.
Đọc thơ Thế Lữ, Đặng Tiến lưu ý tính logich
trong cấu trúc câu thơ, đồng thời chú ý dụng công trong cách dùng các nguyên âm
để biểu hiện (Ái ân bờ cỏ ôm chân trúc, Sau trúc, ô kìa xiêm áo ai). Ông
đã phân tích một đôi câu thơ Thế Lữ (Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng,
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt) trong bài Nhớ rừng để
thấy sự kế thừa và cách tân của Thế Lữ, và bao người sau ông đã chịu ảnh hưởng.
Về Xuân Diệu Đặng Tiến lưu ý đến bối cảnh khi ông ấy xuất hiện, đề tài mới (như
tuổi trẻ…) và những hình ảnh tinh tế, âm điệu gợi cảm, tiêu tao, một cách chung
chung. Đọc đến bài Thi giới của Đinh Hùng, thì người ta thấy tiêu
chí phê bình của nhà phê bình đi tìm một thế giới của cảm giác, đóng, mở, đầy,
chảy trôi, hòa giải. Ông hình như đang vận dụng cách phân tích phân tâm học vật
chất của Gaston Bachelard để khái quát thi giới Đinh Hùng, một cách làm khá mới
lạ đối với “các nhà phê bình miền Bắc” chỉ quen đi tìm phản ánh thực tế. Hoàng
Ngọc Hiến cho rằng, “với tiêu chí của một Valéry xác định “phẩm cách đích thực
của một nhà thơ đích thực là ở những gì khác hẳn với trạng thái giấc mê” thì chắc
chắn tư cách thi sĩ của Đinh Hùng, cả tư cách phê bình thơ của Đặng Tiến nữa bị
nghi ngờ”. Nhưng Hoàng Ngọc Hiến chỉ tỏ ra hợp lí khi coi đó là cái cái gu
riêng của nhà phê bình.[4] Tôi
thì không nghi ngờ và cho rằng đó là một cách khám phá có giá trị của nó.
Tuy vậy đọc bài Nữ tính trong thơ bà
Huyện Thanh Quan thì tôi thấy nhà phê bình có chỗ hơi suy diễn. Các
hình ảnh ngàn mai, tàu chuối, dặm liễu mà coi là ba thứ cây tượng trưng cho nữ
tính có lẽ là hơi quá chăng? Trong thơ cổ không dành ba thứ biểu tượng đó cho nữ
tính, đơn giản đó là thời của diễn ngôn nam tính. Thánh thót tàu tiêu thường chỉ
nỗi buồn, lòng đầy tâm sự; dương liễu gắn với những cuộc chia li, nỗi buồn, còn
hoa mai gắn với sự cao khiết, ẩn cư. Có lẽ nữ tính ở đây nằm trong âm điệu. Đặng
tiên sinh tưởng tượng: “Có lúc thấy lòng mình thèm khát một cách xa vắng. Nhưng
lúc ấy thơ Thanh Quan bỗng chuyển mình thành một cánh tay nõn nà quàng qua gáy
tôi, ôm lấy cổ tôi. Tôi muốn cắn mạnh vào những âm thanh trắng muốt đó.” (tr.
42) Chỗ này Đặng Tiến đã có chút tán trong lúc cao hứng. Nhưng đó chỉ là hãn hữu.
Trong bài bình thơ này khi nói đến giá trị của các nguyên âm tròn môi o, ô, u Đặng
Tiến cũng phạm sơ suất như Xuân Diệu, là khi áp dụng lối phân tích giá trị của
các nguyên âm, phụ âm của thơ phương Tây vào thơ Việt. Xuân Diệu không phân biệt
thi pháp phương Tây với ngôn ngữ đa tiết tính với thơ tiếng Việt đơn tiết tính,
không phân biệt nguyên âm với các vần trong tiếng Việt như Nguyễn Quang Hồng đã
chỉ ra[5]. Tôi thấy Đặng Tiến cũng đã cảm thấy
có sự khác, nhưng có lẽ do ông không phải là nhà ngữ học nên ông không phát biểu
thành lí thuyết được.
Trong bài Lê Đạt và Bóng chữ Đặng
Tiến có một lối giải thích về thi pháp Lê Đạt khá hay và sáng rõ, giúp cho người
ta thấy giới hạn sáng tạo của nhà thơ và cái ngưỡng của nó. Ông xác định thơ Lê
Đạt chỉ lạ mà không mới (tr.317). Qua Lê Đạt, ông đánh giá thơ Việt Nam từ
1975-1995 “chỉ có những bài văn vần, có những câu thơ hay, mà chưa có nền thơ,
có nhiều tác giả mà không mấy tác gia” (tr. 316). Đó là những đánh giá của Đặng
Tiến, rất khác với đánh giá khác. Trong Thơ, thi pháp và chân dung,
Đặng Tiến còn bàn về các nhà thơ Bùi Giáng, Quang Dũng, Văn Cao, thơ Đồng
chí của Chính Hữu, Núi đôi của Vũ Cao và thơ Trường
Sơn của Phạm Tiến Duật và vài bài bàn về ca dao, quan họ với những đánh giá
khác. Nói như Hoàng Ngọc Hiến, chân dung văn học của Đặng Tiến lẽ tất nhiên
khác với chân dung của các nhà thơ trên do người khác vẽ nên, không chỉ là khác
gu cũng là dễ hiểu. Tôi muốn nói thêm một câu: Chân dung văn học của Đặng Tiến
có nét đặc sắc: không phải là chân dung bề ngoài, mà là chân dung tư tưởng nghệ
thuật của nhà thơ.
Đọc tập Vũ trụ thơ II năm
2008, ta sẽ hiểu hơn về văn học miền Nam, về thi ca thời chiến của miền Nam.
Đáng chú ý nhất là ông giới thiệu về Trịnh Công Sơn, thơ Thanh Tâm Tuyền, tiểu
sử và thơ xuân của Vũ Hoàng Chương. Rất tiếc là những bài viết của Đặng Tiến về
thơ Tô Thùy Yên không được chọn vào tập này.
Tôi nhớ đã đọc ông bình luận về thơ Tố Hữu,
thơ Nguyễn Đình Thi, thơ Hoàng Cầm, Hữu Loan, Huy Cận rồi. Đặng Tiến là nhà phê
bình rất công phu. Ông là người rất chăm chút về tư liệu, tiểu sử, văn bản tác
phẩm mà ông phê bình. Đặc biệt hơn nữa, lời văn phê bình của ông trau chuốt, mềm
mại, thể hiện sự cảm thụ tinh tế, cách hưởng thụ cái đẹp của tâm hồn. Đọc văn
ông người ta có cảm giác tin cậy.
Ngoài thơ ông cùng bình luận tiểu thuyết
mà Nhất Linh-Bướm trắng, Hạnh phúc trong tác phẩm Nhất Linh là
những ví dụ.
Đặng Tiến không chỉ bình thơ, tiểu thuyết, mà
ông còn nghiên cứu lí luận thi pháp về thơ, nhưng không nhiều. Phần nghiên cứu
lí thuyết ông hiện có rất ít, chỉ có 6 bài nghiên cứu về lí thuyết thơ của chủ
nghĩa cấu trúc và thi pháp của một vài học giả ông yêu mến như Nguyễn Tài Cẩn,
C. L. Strauss, mà lối viết cũng “rất thoáng”, thiên về chấm phá, ít trích dẫn.
Bài Thơ là gì? được viết từ năm 1973, khi chủ nghĩa cấu trúc
đang thịnh, khi công bố thành sách này (2009) thì chủ nghĩa cấu trúc đã bị thay
thế bởi giải cấu trúc. Tác giả dự định viết một loạt bài, có một hoài bão rất lớn,
nêu ra “thơ và văn xuôi khác nhau ra sao, tương quan giữa ý thơ và lời thơ, khả
năng của khoa học áp dụng cho việc hiểu thơ,” muốn “thoát li khỏi quỹ đạo kiến
thức tây phương” (xem tr. 10), nhưng không dễ thực hiện. Bởi xác định bản chất
thơ vốn là rất khó.
Mở đầu sách Phân tích văn bản thơ in
năm 1972, nhà kí hiệu học Nga Ju. Lotman viết: “Thơ là lĩnh vực nghệ thuật mà bản
chất của nó cho đến nay khoa học vẫn chưa hiểu đến tận cùng. Phải biết thỏa hiệp
với thực tế là hàng loạt vấn đề, gồm cả vấn đề quan trọng của thơ ca vẫn đang nằm
ở ngoài khả năng của khoa học.”[6] Đặng
Tiến bắt đầu với cách đặt vấn đề của chủ nghĩa hình thức Nga: Thơ khác với ngôn
ngữ thường ra sao? Đây chính là vấn đề mà R. Jakobson đặt ra trong bài Thơ
là gì? viết bằng tiếng Tiệp năm 1933[7].
Và cũng là vấn đề đặt ra trong bài báo của Phan Ngọc viết năm 1990 Thơ
là gì?[8] Điều thú vị là cả ba bài
đều đặt vấn đề đối lập thơ với văn xuôi, tức là cái không phải thơ. Rõ ràng cả
hai học giả Việt Nam đều chịu ảnh hưởng cách đặt vấn đề của R. Jakobson, khi
ông chủ trương, đối tượng của nghiên cứu văn học không phải là văn học, mà là
tính văn học, một thứ chức năng của ngôn ngữ, nó biến văn bản phi thơ trở thành
văn bản thơ.
Roman Jakobson dành cả một đời theo đuổi mục
tiêu đó. Ông tranh luận với các nhà nghiên cứu văn học để xác định thi học là
chuyên ngành thuộc ngôn ngữ học, nghĩa là ngôn ngữ học có quyền nghiên cứu chức
năng thơ bằng các kĩ thuật ngữ học[9].
Ngày nay ở Nga vẫn có nhiều người nghiên cứu thi học ngôn ngữ học về thơ. Trong
bài Thi pháp học và Ngôn ngữ học ông xác định chức năng thơ là
“đem nguyên tắc tương đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục của sự kết hợp”,
và “vấn đề cơ bản của thi ca là sự song hành (parallelism)”. Như vậy có thể hiểu
chức năng thơ là loại ngôn ngữ thơ ca, đề lên hàng đầu sự chia cắt ngôn ngữ ra
thành các vế tương đương, và ở trên từng vị trí của vế tương đương ấy người ta
chọn những gì đồng nhất hoặc khác biệt, tạo nên sự láy lại hay đối lại giữa các
vế tương đương[10]. Đáng tiếc là cái tính thơ (thi
tính, chức năng thơ) của ông vừa có trong thơ, vừa có cả ở ngoài thơ, cho nên
không có giá trị khu biệt dứt khoát thơ và phi thơ. Cả tính thẩm mĩ (chức năng
thẩm mĩ) cũng vừa có trong thơ vừa ở ngoài thơ, cho nên tự chúng không thể là
tiêu chí để xác định thơ được.
Trong bài thuyết trình Tính chủ đạo (1935)
Jakobson đã viện đến tính chủ đạo (dominant) để xác định tính thơ. Ông nói rõ mấy
điểm sau: 1. Đồng nhất tác phẩm thơ với chức năng thơ, hay là chức năng thi
tính chính là tuyên dương quan niệm nghệ thuật thuần túy, chạy theo nghệ thuật
vị nghệ thuật. 2. Chức năng thơ không chỉ tồn tại trong thơ, mà cả ngoài phạm
vi thơ, chức năng thẩm mĩ cũng tồn tại trong quảng cáo, tuyên truyền, thậm chí
trong bài báo hay chuyên luận khoa học… 3. Trong một tác phẩm thơ không chỉ có
một chức năng thẩm mĩ, mà còn có các chức năng khác, như biểu cảm, biểu thị,
kêu gọi, triết lí, xã hội học, luân lí học. Nếu xem các chức năng ấy như một thể
phức hợp cơ giới thì cũng không phải là hiểu thơ. Và khi nào chức năng thi tính
chiếm địa vị chủ đạo, biến các chức năng khác ở địa vị tòng thuộc, thì lúc ấy mới
có thể “định nghĩa thơ như một thông tin ngôn ngữ mà chức năng thẩm mĩ chiếm địa
vị chủ đạo.”[11]
Hiểu như thế thì tính thơ, tính thẩm mĩ chỉ là
điều kiện cần, chứ chưa phải là điều kiện đủ để một thông điệp trở thành thơ.
Thơ chỉ chiếm một bộ phận nhỏ trong ngôn từ thi ca mà chức năng thi tính phát
huy tác dụng. Và nếu muốn hiểu thơ là thế nào thì phải đối lập nó với cái không
phải thơ. Nhưng Jakobson cũng nói, “muốn biết cái không phải thơ, ngày nay điều
ấy không phải là dễ”[12].
Thế nhưng cả Phan Ngọc lẫn Đặng Tiến không ai quan tâm cái không phải thơ là thế
nào, cho nên khó xử lí vấn đề thơ là gì. Vì thế khi nghe Đặng Tiến viết: “Thơ
khác với ngôn ngữ thường ra sao? Vấn đề này nhà văn, giáo sư Nguyễn Văn Trung,
cách đây khá lâu đã trình bày mạch lạc.” Tôi nghĩ là ông quá lạc quan. Ông lại
viết: “Khi từ ngữ vượt khỏi công dụng thông tin ấy, để biểu hiện giá trị thẩm
mĩ tự tại thì theo Jakobson, nó có chức năng thi pháp (fonction poétique). Đó
là thơ.” (tr. 11). Ông viết tiếp: “Nói khác đi, thơ là ngôn ngữ, vậy nó cũng
truyền đạt một tình, một ý. Nhưng đặc tính không nằm trong thông điệp truyền
đi, mà nằm trong vỏ âm thanh của từ ngữ được sử dụng… Cho nên khi so sánh thơ với
ngôn ngữ thường, ta có thể nói quá đi một chút như lời Jakobson: thơ là
ngôn ngữ tự lấy mình làm cứu cánh”.(tr. 11-12). Đọc những lời này ta có thể
thấy ông đã nói khác với Jakobson mà chúng tôi đã dẫn trên. Hoàng Ngọc Hiến
trong bài Phê bình trong tập sách thơ của Đặng Tiến (bài in
trên Diễn đàn) đã không đồng tình với Jakobson, mà thích quan niệm
của P. Valéry hơn: “Thơ là sự dùng dằng giữa âm thanh và ý nghĩa.” bởi vì thơ
phải có ý nghĩa, chứ không thể chỉ là cái vỏ âm thanh được, thơ cũng không thể
chỉ là ngôn ngữ. Nhưng có lẽ Hoàng Ngọc Hiến đã trách lầm Jakobson, bởi Đặng Tiến
cũng có thể có chút hiểu khác R. Jakobson. R. Jakobson chỉ nói đến đặc điểm của
ngôn từ (ngôn ngữ) thơ theo góc độ ngữ học mà thôi, nghĩa là thứ “ngôn ngữ lấy
nó làm đối tượng” chỉ có thể là ngôn ngữ thơ mà chưa phải thơ. Bất luận thế
nào, ngôn ngữ chưa phải là thơ, dù nó có tính chất như thế nào. Ngược lại, thơ
không phải chỉ là ngôn ngữ.
Sau này Nguyễn Quang Hồng trong sách Âm
tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca (2017), vận dụng và phát triển ý tưởng
của Jakobson cũng đã nói rất rõ, lí thuyết cuả Jakobson chỉ là lí thuyết về
ngôn từ thi ca, “còn thơ chỉ là một bộ phận trong ngôn từ thi ca mà thôi”[13]. Trong bài Thơ ca Nga đương
đại Jakobson viết: “Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mĩ của nó”.[14] Tuy đã nhấn mạnh chức năng thẩm
mĩ, nhưng ngôn ngữ tự nó chưa thể trở thành thơ. Mặc dù mô hình giao tiếp ngôn
ngữ sáu thành phần và sáu chức năng của Jakobson vẫn nguyên giá trị, và lí thuyết
về thi tính của ông lúc đầu nhằm đối lập với cái phi thi tính, thì vẫn ở trong
phạm vi ngôn ngữ. Ông phân biệt ngôn ngữ thường như là ngôn ngữ tự nhiên, còn
thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mĩ, nhưng chưa lưu ý đến thơ như là hệ thống
kí hiệu thứ sinh, có chủ thể (tác giả, người đọc) khác. Văn bản thơ phải hư cấu,
đọc thơ trữ tình như là nghe lén tâm sự của người khác. Thơ văn ngoài âm hưởng,
nhịp điệu, từ ngữ, bắt buộc phải có hình tượng, có ý nghĩa, người xưa nói có ý
tượng, ý cảnh. Theo M. Bakhtin, mọi nghệ thuật, trong đó có thơ ca, tiểu thuyết
đều là diễn ngôn mang nội dung ý thức hệ (nghĩa rộng), mang ý thức chủ thể.
Cũng giống như Nhân loại học cấu
trúc của C.-L. Strauss đã mất đi vầng hào quang của nó, lí thuyết thi
tính của R. Jakobson thuộc chủ nghĩa cấu trúc, mang tính chất khoa học chủ
nghĩa, tách biệt với nhà thơ, người đọc và tâm lí, chỉ nói được về ngôn từ thi
ca, mà chưa nói được về thơ cũng mất đi viễn cảnh. Xin được lưu ý rằng, bài viết
của Đặng Tiến về thi pháp thơ hoàn thành vào năm 1973, khi chủ nghĩa cấu trúc vẫn
còn đang ở đỉnh điểm, còn khi đem in ở Việt Nam thì đã vào thời điểm giải cấu
trúc lâu rồi. Khi phê bình bài này chúng tôi cũng ở vào một thời điểm khác, với
hệ tri thức khác.
Là nhà phê bình văn học, Đặng Tiến đã thể hiện
sự hiểu sâu và sành điệu với thi ca nước nhà. Ông là nhà phê bình theo diễn
ngôn khoa học.
[1] Đặng Tiến, Vũ
trụ thơ, Giao điểm, Sài Gòn, 1972.
[2] Vũ trụ thơ II,
Thư Ấn quán, Hoa Kì, 2008.
[3] Đặng Tiến, Thơ,
thi pháp và chân dung, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2009.
[4] Hoàng Ngọc Hiến, Phê
bình thơ trong tập sách “thơ” của Đặng Tiến. Bài đăng trên diendan.org
ngày 03/09/2009, cập nhật lần cuối 12/04/2016.
[5] Nguyễn Quang Hồng,
Phan Diễm Phương, Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2017, dẫn Xuân Diệu bình câu thơ trong Chinh phụ ngâm “Ngòi
đầu cầu nước trong như lọc, Đường bên cầu cỏ mọc còn non” “với 6 chữ o rất
ngọt”, thực ra chỉ có một âm o, còn các trường hợp khác âm o nằm trong tổ hợp vần
khác, tr. 42.
[6] Ju. Lotman, Phân
tích văn bản thi ca, M., Prosveshenie, Moskva, 1972, tr. 17.
[7] Xem: R.
Jakobson, Thi học và ngữ học, Lí luận văn học phương Tây hiện đại,
Trần Duy Châu dịch, Nxb Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 2008, tr.
61-81. Thời gian này Jakobson còn phát biểu bài Cái chủ đạo (the
dominant) bằng tiếng Tiệp.
[8] Phan Ngọc, Thơ
là gì? Trong sách Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học,
Nxb Trẻ, 2000, tr. 31.
[9] Xem Lời bạt viết
cho tập Những vấn đề thi pháp học (Questions de poétique),
in ở Paris, Le Seuil, 1973. Đọc qua bản tiếng Nga trong sách Các công
trình thi pháp học, Nxb Tiến Bộ, Moskva, 1987, tr. 80-99.
[10] Nguyễn Quang Hồng,
Phan Diễm Phương, Âm tiết tiếng Việt và ngôn ngữ thi ca, Nxb ĐHQG,
Hà Nội, 2017, tr. 22.
[11] R. Jakobson, Cái
chủ đạo, trong sách: Triệu Nghị Hành chủ biên, Tập luận văn về kí
hiệu học, Nxb Bách Hoa, Thiên Tân, 2004, tr. 83. Dịch từ: Roman Jakobson:
“The Dominant”, Language in Literature, Cambridge: The Belknap
Press of Harvard University Press, 1987. PGS. TS. Hoàng Dũng đã giúp cho chúng
tôi bằng cách dịch đoạn trích trong bài Cái chủ đạo bằng tiếng
Anh nói trên sang tiếng Việt, và tôi cho rằng hiểu như đã trình bày trên là
đúng với ý của đoạn văn Jakobson. Nhân đây xin trân trọng cảm ơn PGS Hoàng
Dũng.
[12] Xem tài liệu do Trần
Duy Châu dịch, tr. 61.
[13] Nguyễn Quang Hồng,
Phan Diễm Phương, Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội, 2017, tr. 35.
[14] R. Jakobson, Các
công trình về thi pháp học, Nxb Tiến Bộ, Moskva, 1987, tr. 275.
(*) Bức chân dung vẽ Đặng Tiến là lấy từ
avatar trên FB của ông.
No comments:
Post a Comment