Xử
lý khủng hoảng chính trị: Làm ngơ làm tịt hay đường hoàng đối diện?
Cách
xử lý khủng hoảng khắc họa rõ nét chân dung của mỗi cá nhân và những nhóm nắm
quyền.
Hình : https://www.luatkhoa.com/content/images/size/w1384/2022/05/D2.jpg
“Khủng hoảng”
dường như là một phần không thể tách rời của cuộc sống, đặc biệt là trong thời
đại ngày nay.
Những ai
chăm chỉ theo dõi tin tức hàng ngày dễ có ấn tượng rằng chúng ta đang sống
trong thời của khủng hoảng - mọi vấn đề, từ lương thực, nguồn nước, y tế, giáo
dục đến an ninh, công nghệ, năng lượng, khí hậu đều có dáng dấp của khủng hoảng.
Đích thực
là bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, thế giới hiện đại có những
thành tố - như sự bùng nổ của khoa học kỹ thuật và toàn cầu hòa - khiến khủng
hoảng không những xuất hiện thường xuyên mà còn có khả năng lan rộng và gây hậu
quả gấp nhiều lần so với trước kia.
Đối phó với
khủng hoảng vì vậy là một phần không thể thiếu trong bản CV của những người làm
lãnh đạo, nhất là các vị trí đứng đầu quốc gia.
Tuy vậy,
thực tế cho thấy nhiều lãnh đạo thậm chí không có đủ tố chất để đương đầu với
khủng hoảng, chưa nói đến việc xử lý tốt chúng.
Quyển sách
“The Politics of Crisis Management: Public Leadership under
Pressure”, một nghiên cứu của các giáo sư chuyên ngành quản trị công và
khoa học chính trị của Hà Lan và Thụy Điển, cung cấp một bức tranh toàn diện và
chi tiết về cách thức mà các nhà lãnh đạo cần phản ứng khi đối phó với khủng hoảng.
[1]
Không cứ phải “khủng” mới “hoảng”, và ngược lại
Các tác giả
trước tiên đưa ra giải thích về thuật ngữ “khủng hoảng” (crisis), một điều rất
cần thiết trong bối cảnh “lạm phát khủng hoảng” mà chúng ta thường thấy trên
thuyền thông.
Theo đó, ba tiêu chí để xác định khủng hoảng
là mối đe dọa (threat), tính khẩn cấp
(urgency) và sự không chắc chắn (uncertainty).
Một sự kiện
được xem là khủng hoảng khi nó đe dọa phá hủy các giá trị được xem trọng như
tính mạng, sức khỏe, đạo đức hay lòng tin. Nhưng bằng đó chưa đủ. Mối đe dọa
này phải cấp thiết, đem lại hậu quả ngay trước mắt. Đồng thời, nó phải đi kèm với
sự bất ổn, thiếu chắc chắn: không ai biết rõ chuyện gì đang xảy ra, chuyện gì sẽ
xảy ra tiếp theo, hậu quả của những lựa chọn sẽ là tốt hay xấu, đến mức nào, rồi
sao nữa, v.v.
Với định
nghĩa đó, ta có thể lý giải vì sao một số vấn đề gây hậu quả nghiêm trọng và
ngay trước mắt - như tai nạn giao thông - lại không mấy khi được xem là khủng
hoảng. Nó lặp đi lặp lại, và hầu như ai cũng biết nguyên nhân, cách khắc phục,
cũng như các lựa chọn đánh đổi để giải quyết nó.
Hoặc có những
vấn đề nghiêm trọng và không ai biết rõ mức độ thiệt hại của nó trong tương lai
sẽ ra sao - như biến đổi khí hậu hay ô nhiễm không khí - lại ít khi được xem
như một cuộc khủng hoảng nghiêm túc chỉ vì hậu quả của nó chưa xảy ra ngay tức
khắc.
Điều này
đang dần được thay đổi khi ngày càng nhiều người dùng cụm từ “climate crisis”
(khủng hoảng khí hậu) thay cho “climate change” (biến đổi khí hậu) để nhấn mạnh
tính cấp bách của vấn đề.
Các đặc
tính riêng biệt của khủng hoảng khiến cho việc đối phó với nó cũng đòi hỏi những
tính chất và quy trình riêng biệt.
Năm nhiệm vụ của lãnh đạo trong khủng hoảng
Các tác giả
chỉ ra năm nhiệm vụ mà các nhà lãnh đạo phải thực hiện khi đối phó với khủng hoảng.
Đầu tiên là “sense making” - nhận
ra cuộc khủng hoảng.
Nhiệm vụ
có vẻ hiển nhiên này, trên thực tế, lại thường xuyên bị bỏ qua. Rất nhiều cuộc
khủng hoảng chỉ được thừa nhận khi nó đã gây ra hậu quả lớn.
Khả năng
nhận ra khủng hoảng được ví như phát hiện mầm bệnh trước khi phát tán. Trở ngại
đến từ việc phần lớn các cơ quan nhà nước được thiết kế để hoàn thành nhiệm vụ
thay vì chủ động phát hiện vấn đề. Các thông tin và dữ liệu được lưu trữ tản
mác, không được chia sẻ và điều phối kịp thời cũng khiến người ta khó phát hiện
vấn đề. Và tâm lý chủ quan của những người đứng đầu các cơ quan càng khiến khủng
hoảng có cơ hội ẩn núp chờ thời.
Nhiệm vụ
thứ hai là “decision making” - đưa ra quyết định ứng phó.
Khủng hoảng
thường khiến cho các nguồn lực như lương thực, nhân lực, vật lực trở nên khan
hiếm. Nhiệm vụ lúc này của lãnh đạo là đưa ra các lựa chọn đánh đổi để giảm thiểu
tổn thất, đảm bảo hậu quả ở mức thấp nhất.
Các lựa chọn
đều khó khăn khi nó dẫn đến xung đột lợi ích giữa các nhóm người.
Vì vậy, để
có thể ra quyết định hiệu quả, nhà lãnh đạo cần thực hiện nhiệm vụ thứ ba là “meaning
making” - truyền đạt một thông điệp chung có ý nghĩa để tập hợp mọi người.
Điểm cốt yếu
trong nhiệm vụ này là tạo được lòng tin và thực hiện tốt việc truyền thông.
Thứ tư,
sau một thời gian đối phó với khủng hoảng, lãnh đạo phải tìm cách “terminating”
- chấm dứt cuộc khủng hoảng để đưa xã hội trở về cuộc sống bình thường.
Nhiệm vụ
này đòi hỏi mức độ chịu trách nhiệm cao của người ra quyết định, khi họ phải đối
mặt với khả năng khủng hoảng có thể quay trở lại hay thậm chí lan rộng.
Và cuối
cùng, khi khủng hoảng qua đi, nhiệm vụ chiến lược của các nhà lãnh đạo là “learning”
- phải tìm cách rút ra được các bài học để chuẩn bị cho những cuộc khủng hoảng
mới.
Thí chốt và quét rác xuống gầm giường
Đối tượng
nghiên cứu của các tác giả là những nhà lãnh đạo tại các nước dân chủ.
Những lãnh
đạo dân chủ chịu nhiều giới hạn của luật pháp, thể chế, đồng thời chịu sự cạnh
tranh liên tục của các đối thủ, và vì thế không thể xử lý khủng hoảng hoàn toàn
theo ý mình.
Đó là hạn
chế, nhưng đồng thời cũng là phương thức đảm bảo các lãnh đạo này phải đối phó
với khủng hoảng theo cách thức có lợi nhất cho xã hội. Họ phải tìm ra được cách
dung hòa lợi ích giữa tất cả các bên.
Trong khi
đó, các lãnh đạo độc tài không chịu những hạn chế này. Họ có thể giải quyết những
cuộc khủng hoảng theo các cách thức cực đoan nhất, sẵn sàng “thí chốt” nhiều
nhóm người, đặc biệt là những người nghèo và không có địa vị trong xã hội.
Sự khác biệt
có thể dễ dàng được nhận thấy qua cách đối phó với đại dịch COVID-19.
Ở những nước
dân chủ, quyết định phong tỏa dẫn đến các phản ứng mạnh, và thường phải được thỏa
hiệp - đảm bảo không được tiến hành theo cách thức cực đoan, ảnh hưởng đến quyền
lợi của người dân, đặc biệt là các nhóm người yếu thế.
Trong khi
đó, tại những nước độc tài, những biện pháp ngăn sông cấm chợ được đưa ra hầu
như tức thời, không có sự tham vấn của các tổ chức dân sự, và được áp đặt một
cách cực đoan, bất kể đến quyền lợi, thậm chí là tính mạng của người dân.
Ngoài thí
chốt, cách các lãnh đạo độc tài xử lý khủng hoảng còn có thể được ví với hành động
“quét rác xuống gầm giường”.
Thay vì đối
mặt với khủng hoảng, họ làm ngơ làm tịt trước những thông tin bất lợi, tìm cách
dùng bộ máy truyền thông để khống chế, bịt miệng và đánh lạc hướng dư luận.
Có thể thấy
rõ điều này qua các cuộc “khủng hoảng mini” như việc Bộ trưởng Bộ Công an Tô
Lâm ăn thịt bò dát vàng hay như việc mới đây Thủ tướng Phạm
Minh Chính văng tục tại Mỹ. [2] [3]
Thay cho
việc công khai đối mặt với vấn đề, các nhà lãnh đạo trên lại kiểm soát hoàn
toàn bộ máy truyền thông trong nước, không cho phép ai đưa tin bài gì về vụ việc.
Trong khi
nhiệm vụ đầu tiên của một người làm lãnh đạo là phải tìm cách nhận ra khủng hoảng
càng sớm càng tốt, thì hành động quét rác xuống gầm giường lại chỉ tạo điều kiện
cho các mầm bệnh khủng hoảng ngày càng sinh sôi.
Và cùng với
đó, họ cũng quét bỏ luôn niềm tin của người dân vào năng lực lẫn tư cách lãnh đạo
của mình.
Bạn có
thể mua quyển “The Politics of Crisis Management: Public Leadership under
Pressure” bản tiếng Anh qua Amazon. Luật Khoa được hưởng chiết khấu
nếu bạn mua sách từ link của Amazon theo chương trình Amazon Associates.
Bài viết
nằm trong mục Đọc sách cùng Đoan Trang, đăng vào tối thứ Ba hàng tuần. Bài cộng
tác xin gửi cho chúng tôi tại đây.
Ban
biên tập Luật Khoa tạp chí, bao gồm Đoan Trang, rất mong chờ bài viết của bạn.
Chú thích
1. Amazon
- The Politics of Crisis Management: Public Leadership under Pressure: Boin,
Arjen, ‘t Hart, Paul, Stern, Eric, Sundelius, Bengt: 9781107544253: Books.
(2016). Amazon.
2.
R. (2021, November 8). Truyền thông quốc tế gọi món bò dát vàng của
ông Tô Lâm là Bò Cộng sản. Radio Free Asia.
3.
R. (2022, May 15). Video Thủ tướng Chính “chửi thề” không còn trên
YouTube của Bộ Ngoại giao Mỹ. Radio Free Asia.
No comments:
Post a Comment