Thử so
sánh chiến tranh Ukraine và chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979
https://www.facebook.com/nhantuan.truong/posts/5289184981113261
Khác với nhận định của nhiều người, tôi cho rằng
cuộc xâm lược (agression, tiếng Pháp) của Nga đối với Ukraine từ ngày 24 tháng
Hai 2022, với cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ tháng hai năm 1979 có nhiều điều
tương đồng, từ nguyên nhân cho tới hậu quả. Ngay cả khi chiến tranh
Nga-Ukraine, lúc viết bài này, vẫn chưa có dấu hiệu sớm kết thúc.
Về ý nghĩa từ ngữ: “agression - xâm lược”.
Theo nội dung Nghị quyết 3314 ngày 14 tháng 12 năm 1974 của Đại hội đồng LHQ,
“agression - xâm lược” là hành vi “một quốc gia sử dụng vũ trang chống lại chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của một Quốc gia khác, hoặc
theo bất kỳ phương cách khác không phù hợp với Hiến chương LHQ”.
1/ So sánh về “mục
tiêu chiến lược”.
Về “mục tiêu chiến lược”, nếu ta xét lại các
yêu sách của Putin đối với Zelensky (để chấm dứt cuộc xâm lược), điều quan trọng
cốt lõi là Ukraine phải tuyên bố "trung lập" và không được gia nhập
NATO. Trước đó Putin có hy vọng sẽ can thiệp vào nội tình Ukraine, lật đổ chính
phủ dân cử Zelensky và đưa một nhân vật thân Nga lên thay thế.
Nội dung chính sách quốc phòng bốn không của
VN: "Việt Nam chủ trương không tham gia liên minh quân sự; không liên kết
với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử
dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa
sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế".
“Không tham gia liên minh quân sự” là điều kiện
cốt lõi để trở thành “quốc gia trung lập”.
Ngoài ra VN còn có mô hình phát triển rập
khuôn với TQ “kinh tế thị trường - tư bản nhà nước”. Cả hai bên cùng có một chế
độ chính trị tương đồng với đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo mà hai đảng này có
quan hệ thân thiết “máu thịt” với nhau.
Chế độ chính trị rập khuôn TQ, cùng với nội
dung 4 không của quốc phòng VN. Đây là gì nếu không phải là cách nói khác yêu
sách của Nga đối với Ukraine (ở mức độ khiêm tốn hơn) ?
Tức là Putin chỉ muốn Ukraine trở thành một thứ
Việt Nam chư hầu ở cạnh bên thượng quốc TQ.
Tin tức báo chí cho biết có thể đã có 17 ngàn
quân Nga tử trận, trong đó có 10 vị tướng và khoảng 50 ngàn quân bị loại khỏi
vòng chiến. Cuộc xâm lược Ukraine từ hôm 24 tháng Hai đến nay đã hơn một tháng.
Nga hao quân tổn tướng, lại còn bị Mỹ, Châu Âu và các nước dân chủ tự do “trừng
phạt” kinh tế. Chưa ai đoán được sau cuộc chiến, Nga tổn thất bao nhiêu và “mục
tiêu chiến lược” của TT Putin có đạt được hay không ?
TQ mở cuộc xâm lược VN, nói là “cho VN một bài
học”. Đa số các nhà nghiên cứu quốc tế về cuộc chiến này đều cho rằng chính TQ
mới là phía đã “học được VN một bài học”. Thật vậy, TQ châm ngòi chiến tranh
biên giới, gây áp lực lên Hà nội với hy vọng giải vây cho Khmer đỏ mà việc này
không thành.
Tháng 12 năm 1978 VN mở cuộc chiến “phản công
tự vệ”, trong vòng một tuần đã đuổi Khmer đỏ ra khỏi Nam Vang và đưa một chính
phủ thân VN lên thay thế. Ngày 17 tháng giêng 1979 TQ cho 600 ngàn quân và dân
quân tấn công các tỉnh biên giới VN. Sau ba tuần TQ phải rút quân về với rất
nhiều tổn thất trong khi quân VN vẫn còn tiếp tục ở lại Campuchia cho đến cuối
năm 1988.
Rõ ràng mục tiêu TQ không đạt. TQ là bên thua
cuộc.
Ngoại giao VN và TQ “đóng băng” từ 1979 cho tới
năm 1990. Trong khoảng thời gian này quan hệ Mỹ-Trung “nồng ấm”. Kinh tế TQ
phát triển nhanh chóng do nhờ tư bản Mỹ, Nhật… tích cực đầu tư. Tập trung vào
việc chấn chỉnh nội bộ qua công cuộc “tứ hiện đại”, TQ không còn là một đe dọa
cho các quốc gia Đông và Đông Nam Á. Mỹ trút gánh nặng mặt Châu Á, dồn sức đối
đầu với Liên xô. Đến khi Liên xô giải thể 1990, kéo theo sự sụp đổ toàn bộ hệ
thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu.
TQ
mặc dầu giữ nguyên chế độ cộng sản nhưng đã đứng về “phe thắng cuộc”, cùng với
Mỹ và “thế giới tự do”. VN theo Liên xô, đứng về phía thua cuộc. VN đã phải trả
giá rất đắt.
VN thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ (1995)
và TQ (1991) với tư thế “bên thua cuộc”.
Chính sách “quốc phòng bốn không” của VN, công
bố trong Sách trắng quốc phòng 2019, theo tôi không hề là kết quả của “ngoại
giao cây tre”. Đây hiển nhiên là sự áp đặt của TQ đối với VN từ năm 1990, như
là một điều kiện để được "tái lập bang giao". Đây cũng có thể là nội
dung "cốt lõi" của cái gọi là "mật ước Thành đô 1990" (nếu
có).
Không
có quốc gia độc lập nào lại “tự nguyện hy sinh” chủ quyền về quốc phòng của
mình như VN hết cả. Ngoại trừ Nhật. Nước này
từ bỏ “quyền tham gia chiến tranh” vì lý do thua trận 1945. Hoặc Phần lan (và
Áo) tuyên bố trung lập vì phải thỏa mãn yêu sách của “bên thắng trận” Thế chiến
II là Liên xô.
VN thắng TQ trong “chiến tranh nóng” nhưng VN
thua TQ trong “chiến tranh lạnh”. Cùng đứng trong khối “cộng sản” nhưng TQ đã lựa
chọn đúng phe để theo. TQ đứng về phe “thắng cuộc”.
Việc “lựa chọn phe” để theo, trước hết chứng tỏ
“tầm nhìn chiến lược” siêu việt của lãnh đạo, sau là cách “đầu tư” khôn ngoan,
đem lại lợi ích lớn lao và lâu dài cho đất nước và dân tộc. Kinh nghiệm của TQ
đứng về bên thắng cuộc (và VN đứng về bên thua cuộc) là các thí dụ điển hình.
2/ So sánh về mục
tiêu lãnh thổ.
Thực chất của “chiến dịch quân sự đặc biệt” của
Nga là một cuộc xâm lược vũ trang của Nga vào lãnh thổ Ukraine. Ngoài “mục tiêu
chiến lược” đã nói phần trên, Putin còn có tham vọng chinh phục lãnh thổ và “vẽ
lại đường biên giới” Ukraine.
Về lãnh thổ, mục tiêu ban đầu của “chiến dịch
quân sự đặc biệt” có thể là áp đặt đường biên giới là sông Dniepr, chia Ukraine
thành hai miền Đông và Tây. Về hải phận, Putin muốn biển Azov trở thành “nội hải”
của Nga và chiếm 70% vùng “kinh tế độc quyền - EEZ” trên Biển Đen.
Để thực hiện việc này, trên thực địa ta thấy
các vùng “chiến sự” phần lớn là các thành phố về phía đông sông Dniepr. Đặc biệt,
do lợi ích chiến lược (đến từ biển), chiến tranh các tỉnh vùng ven biển (như
Marioupol) diễn ra cực kỳ khốc liệt.
Về phương diện pháp lý, ta thấy TT Putin đã
dàn dựng một “kịch bản” khá “thuận lý”.
Nga đã chiếm bán đảo Crimée của Ukraine từ năm
2014, bằng thủ tục “trưng cầu dân ý” và bằng biện pháp quân sự. Người dân gốc
Nga ở đây bỏ phiếu đồng ý sáp nhập lãnh thổ này vào Nga.
Nga cũng đã tái lập lại phương cách này cho
hai “cộng hòa nhân dân” Donetsk và Luhansk ở Donbass. Người dân ở đây bỏ phiếu
“trưng cầu dân ý” ly khai ra khỏi quốc gia Ukraine và tuyên bố độc lập. Hai “cộng
hòa nhân dân” Donbass, tức là hai “quốc gia độc lập, có chủ quyền Donetsk và
Luhansk” đã được Nga “công nhận” và thiết lập bang giao vào ngày 23 tháng Hai
2022, tức trước “chiến dich quân sự đặc biệt” một ngày.
Theo nội dung bài “tuyên bố” của TT Putin hôm
21 tháng hai 2022 và văn bản của Nga gởi Tòa Công lý quốc tế nhằm phản biện vụ
kiện Ukraine kiện Nga ngày 27 tháng Hai 2022 về cách “diễn giải và áp dụng công
ước về diệt chủng”. Nguyên nhân đưa tới việc ban bố “chiến dịch quân sự đặc biệt”
là do nạn “diệt chủng” ở Donbass. Gần 4 triệu người dân nói tiếng Nga đã bị áp
bức và giết chóc bởi các lực lượng “tân quốc xã” ở Donbass mà lực lượng này được
sự ủng hộ của chính phủ theo “chủ nghĩa dân tộc” ở Kiev.
Nội dung bản tuyên bố của Putin còn nói về “lịch
sử”, mục đích phủ nhận sự hiện hữu của “quốc gia” Ukraine. Theo Putin không hề
có “quốc gia” Ukraine mà chỉ có “sản phẩm sáng tạo” của Lenin. Cũng theo Putin,
hai dân tộc Nga và Ukraine chỉ là một.
Về chiến tranh biên giới 1979, TQ đưa ra 5 lý
do để mở cuộc chiến “dạy VN một bài học”. Tương đồng với “chiến dịch quân sự đặc
biệt” của Putin, ngoài các lý do “diệt chủng người Nga”, “nạn kiều người Hoa”
(nói bên dưới) còn có vấn đề mở rộng “lãnh thổ”.
TQ cáo buộc VN “xâm phạm đường biên giới” của
TQ. TQ tố cáo VN đem quân xâm nhập qua lãnh thổ TQ cũng như việc khủng bố và
đánh đuổi người dân gốc Hoa sinh sống cận đường biên giới Việt-Trung.
Đặc biệt TQ cáo buộc VN “dời đường biên giới”,
đưa đường biên giới về phía bắc, chiếm khoảng 60 cây số vuông lãnh thổ của TQ
thuộc khu vực sông Thanh thủy, tổng Vị xuyên tỉnh Hà giang (VN).
Về mặt chủ quyền hải đảo và biên giới biển, TQ
phản đối VN về cách diễn giải nội dung Công ước Pháp-Thanh 1887 áp dụng có lợi
cho VN ở Vịnh Bắc Việt. TQ cũng lên án VN “bội ước” khi VN phủ nhận nội dung
công hàm 1958, theo đó phía TQ cho là VN đã nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS
và TS.
So sánh lý lẽ hai bên ta thấy:
Phía Nga nại quyền “dân tộc tự quyết”, nhìn nhận
quyền này cho dân chúng sinh sống ở Crimée, Donetsk và Luhansk. Có hai điều trở
ngại.
Thứ nhứt, “quyền dân tộc tự quyết” đối chọi với
nguyên tắc nền tảng của hiến chương LHQ là nguyên tắc “bất khả xâm phạm của đường
biên giới và sự toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia”. Trên nguyên tắc này dân chúng ở
Crimée, Luhansk và Donetsk không thể tự động tổ chức “trưng cầu dân ý”, nếu việc
này đi ngược nội dung hiến pháp hoặc chưa được quốc hội Ukraine chuẩn nhận.
Tuy nhiên trên lý thuyết, luật quốc tế không
phân biệt cao thấp quyền “dân tộc tự quyết” với nguyên tắc “toàn vẹn lãnh thổ”.
Thứ hai, vấn đề là sau khi LX giải thể, Nga
cũng như Ukraine là các quốc gia “kế thừa” di sản của Liên Xô. Nga đã “nhìn nhận
biên giới hiện trạng” của Ukraine, cam kết bảo vệ quốc gia này với điều kiện
Ukraine từ bỏ quyền sử dụng vũ khí hạt nhân.
Tức là, trên danh nghĩa, phía Nga đã “bội ước”
với Ukraine khi sáp nhập Crimée và ủng hộ hai cộng hòa vùng Donbass. Các hành
vi của Nga là tác nhân làm thay đổi đường biên giới của Ukraine.
“Chiến dịch quân sự đặc biệt” của Putin, trên
vấn đề lãnh thổ, vì vậy không có “chính nghĩa”, không phù hợp với nguyên tắc
“jus ad bellum - luật về chiến tranh”. Phía Ukraine do đó được quyền “tự vệ
chính đáng”, vì vậy được sự trợ giúp quân trang quân dụng của Mỹ và các quốc
gia EU.
TQ nại tất cả 5 lý do để “dạy VN một bài học”:
1/ Việt Nam là một nước bá quyền, một siêu cường
quân sự thứ ba của thế giới.
2/ VN liên tục xâm phạm biên giới và đột nhập
vào lãnh thổ của TQ.
3/ Ngược đãi người gốc Hoa sinh và trục xuất
có hệ thống họ bằng các biện pháp vô nhân đạo.
4/ Hà khắc với nhân dân Việt Nam trong nước và
qua chiến tranh với nước ngoài (Campuchia).
5/ Sự can thiệp của Liên xô vào Đông Nam Á nhằm
bành trướng ảnh hưởng để cô lập Trung Quốc.
Trong 5 lý do, chỉ có lý do “VN xâm phạm đường
biên giới” và “chiếm đóng lãnh thổ của TQ” là “chính đáng”, jus ad bellum, phù
hợp điều 51 Hiến chương LHQ. Đủ để TQ tiến hành chiến dịch quân sự “phản công tự
vệ chiến”. Cuộc chiến này dư luận cho rằng “Mỹ không tán thành nhưng lại giúp
TQ tin tức tình báo”.
TQ cho rằng “VN xâm chiếm 60 cây số vuông lãnh
thổ của TQ”. Hồ sơ CIA bạch hóa cũng có nói về việc “VN chiếm 60 km² đất của
TQ”. Vấn đề là dữ liệu pháp lý chứng minh chủ quyền của TQ khu vực này đều
“không có hiệu lực”.
Lập luận của TQ, đường biên giới khu vực (Vị
xuyên, tỉnh Hà giang, VN) là con suối Thanh Thủy. Phía TQ cho rằng yêu sách này
phù hợp với nội dung Công ước Pháp-Thanh phân định biên giới 1887 cũng như nội
dung Công ước Bổ túc về Biên giới 1895.
Theo nghiên cứu riêng của tôi, bài biết ở đây,
TQ (và CIA) đã có nhận thức sai lầm về nội dung Công ước Phân đinh biên giới giữa
Pháp nhà nhà Thanh năm 1887 (và công nước bổ túc 1895).
Thật vậy, nội dung Công ước 1887 nhìn nhận
biên giới khu vực (Vị xuyên, Hà giang) là sông Thanh thủy.
Nhưng kết quả phân định biên giới khu vực
“sông Thanh thủy”, theo Biên bản phân giới số 3 ký ngày 13 tháng 6 năm 1897 :
"Từ Qua Sách Hà (戈索河) đến Cao Mã Bạch (膏 馬 白) thuộc Bắc Kỳ và Tân Nhai (新崖) thuộc Vân Nam". Đường
biên giới đã thay đổi và biên bản này có giá trị thay thế Công ước 1887.
Biên giới đoạn này được hai bên Pháp-Thanh đồng
thuận. Biên giới trung tuyến sông Thanh thủy chuyển đổi thành “biên giới là đường
phân thủy”, tức đường theo “sống núi”, ở phía bắc sông Thanh thủy, cách sông
này khoảng vài cây số.
Sông Thanh thủy như vậy hoàn toàn thuộc lãnh
thổ của VN.
Tức là TQ đã “sai” khi khai chiến với danh
nghĩa “phản công tự vệ chiến”. Phía TQ không có “chánh nghĩa”. TQ không chứng
minh được tính hợp cách của “jus ad bellum”. Hành vi chiến tranh của TQ không
phù hợp điều 51 Hiến chương LHQ về “quyền tự vệ chính đáng”. Đất đó của VN chớ
không phải của TQ.
Về biên giới trong Vịnh Bắc Việt. Thực ra Công
ước 1887 phân định biên giới giữa các tỉnh Hoa nam và Bắc kỳ, đã phân định
“biên giới trong Vịnh Bắc Việt”. Đó là đường kinh tuyến đi qua “đông điểm của đảo
Trà cổ”. Tức là đường kinh tuyến Paris 105°53’ kinh tuyến đông (nghĩa là kinh
tuyến 108°3’13’’ kinh tuyến đông Greenwich).
Tất cả các yêu sách của TQ về chủ quyền lãnh
thổ trên biến giới, trên biển hay hải phận quốc gia…, sau khi tái bang giao
1991 đều được chính quyền CSVN thỏa mãn.
Hiệp định phân định phân định biên giới trên đất
liền ký ngày 25 tháng 12 năm 1999 và Hiệp định phân định ranh giới trong Vịnh Bắc
Việt được ký kết ngày 30 tháng 12 năm 2000 đã thay thế Công ước Pháp-Thanh
1887. Kết quả hai hiệp ước làm cho VN mất nhiều vùng lãnh thổ (mà Pháp nhượng bất
hợp lệ cho TQ) như tổng Tụ long (Hà giang), tổng Đèo lương (Cao bằng), Tổng Kiến
duyên và Bát Tràng (Hải ninh) và nhứt là mũi Bạch long (Hải Ninh)… Diện tích tổng
cộng vài ngàn cây số vuông. Việc phân định trong Vịnh Bắc Việt cũng không công
bằng, nếu so với các phương pháp theo tập quán quốc tế. VN mất khoảng 11 ngàn
cây số vuông biển cho TQ.
Về chủ quyền HS và TS, phía TQ cho là VN đã
nhìn nhận chủ quyền các đảo này thuộc TQ, qua công hàm 1958 của ông Phạm Văn Đồng.
Hiện nay VN chỉ nhìn nhận nội dung “hải phận 12 hải lý” trên các vùng lãnh thổ
của TQ nhưng không nhìn nhận hiệu lực công hàm ở phần chủ quyền HS và TS.
Vấn đề là VN khi nhìn nhận hiệu lực hải phận
12 hải lý thì VN đã nhìn nhận hiệu lực toàn bộ công hàm 1958. Nội dung công hàm
cho thấy VNDCCH đã “im lặng” ở tuyên bố chủ quyền của TQ tại Nam sa và Tây sa.
Lập trường này của VN có thể sẽ đưa VN vào thế
“bí”, nếu TQ quyết định sử dụng vũ lực để “giải phóng những vùng lãnh thổ đang
bị địch chiếm đóng”. Hiện nay không có quốc gia nào ủng hộ VN về vấn đề chủ quyền
HS và TS, ngay cả Pháp. Tức là nếu có chiến tranh với TQ, VN sẽ đứng “một
mình”. VN yếu hơn TQ về quốc phòng, đã đành. VN còn yếu hơn TQ về bằng chứng có
giá trị ràng buộc pháp lý.
3/ Vấn đề “diệt chủng”
và “nạn kiều”.
Nga mở “chiến dịch quân sự đặc biệt” với hai
lý do. Thứ nhứt nhà cầm quyền “dân tộc chủ nghĩa” Kiev mở cuộc “diệt chủng” đối
với dân gốc Nga sinh sống ở hai cộng hòa Donetsk và Luhansk. Nga vịn vào quyền
"can thiệp vì lý do nhân đạo" để bảo vệ kiều dân Nga. Thứ hai, Nga vịn
quyền “tự về đa phương”, do yêu cầu của hai “cộng hòa nhân dân” Luhansk và
Donetsk, đúng theo nội dung điều 51 Hiến chương LHQ.
Ta thấy Nga đi lại con đường “can thiệp nhân đạo”
mà NATO đã nại lý do khi can thiệp vào nội bộ các xứ Nam tư cũ.
Khác nhau là vấn đề “diệt chủng” ở Srebrenica
là có thật. Những nhân vật chủ chốt vụ diệt chủng ở đây đều bị Tòa án hình sự
quốc tế kết án và bỏ tù.
Lập luận khai chiến của Nga đã bị Đại hội đồng
LHQ phản bác qua Nghị quyết lên án Nga xâm lược, ngày 2 tháng ba 2022 với đa số
tuyệt đối 141 thuận, 4 phiếu chống và 35 nước bỏ phiếu “trắng”.
Nga không đưa ra bằng chứng cụ thể về “diệt chủng”
ở Donbass. Mà ngay cả khi có bằng chứng, Nga không có quyền mở chiến cuộc trên
bình diện rộng, oanh tạc, pháo kích, dội bom, cho xe tăng, quân đội vào dày
xéo, phá hoại hạ tầng cơ sở… trên toàn lãnh thổ Ukraine, gây thiệt hại sinh mạng
hàng ngàn người dân cũng như tiêu diệt nguồn sống của người dân Ukraine bên
ngoài hai “cộng hòa nhân dân” thuộc Donbass.
Nga đã gây một “thảm họa nhân đạo” cho người
dân Ukraine. Nghị quyết về “Thảm họa nhân đạo” đã được Đại hội đồng LHQ thông
qua hôm trung tuần tháng ba.
Ngoài việc Putin có thể bị truy tố ra một Tòa
án hình sự đặc biệt, vì có hành vi “diệt chủng”, giết người hàng loạt ở
Marioupol. Nga còn có nguy cơ phải bồi thường chiến tranh cho Ukraine, qua vụ
Ukraine kiện Nga lên Tòa Công lý quốc tế ngày 26 tháng Hai 2022. Ước lượng thiệt
hại của Ukraine do chiến tranh của Putin gây ra, tại thời điểm này, lên tới
trên 600 tỉ đô la.
Phán lệnh “biện pháp phòng ngừa” của Tòa vừa
ban bố thuận lợi cho Ukraine hôm 16 tháng Ba 2022, ta thấy rằng Ukraine có nhiều
hy vọng thắng trong trận chiến pháp lý này.
Chiến tranh biên giới 1979, như trên đã viết
TQ nại tất cả 5 lý do để “dạy VN một bài học”. Lý do chính thức của TQ là “phản
công tự vệ chiến”. Tức một cuộc chiến tranh để tự vệ, phù hợp với điều 51 Hiến
chương LHQ.
Về lý do “nạn kiều”, tương tự như lý do NATO
can thiệp vào Nam tư cũ. Hoặc như Putin nại lý do “diệt chủng” để bảo vệ kiều
dân người Nga. TQ đã không vịn vào lý do này, mặc dầu đây là một lý do rất thuyết
phục “jus ad bellum”, để can thiệp vào VN (hơn là lý do VN xâm chiếm lãnh thổ của
TQ).
Vụ “nạn kiều” đã gây một “khủng hoảng nhân đạo”
ở bình diện rộng, liên quan tới cả hai triệu người có quốc tịch Việt Nam, trong
đó có khoảng 250 ngàn người có gốc Hoa.
Một vài tác giả VN cho rằng vụ “nạn kiều” là
do TQ bịa ra để đánh VN. Lập luận này hoàn toàn sai.
Thực tế cho thấy, với số liệu do Cao ủy tị nạn
thuộc LHQ công bố, có đến hơn 2 triệu người vượt biên, cao điểm là các năm
1978-1979. Phong trào “bán bãi vượt biên”, còn gọi là “vượt biên bán chính thức”,
do CSVN tổ chức. Những người muốn đi ra nước ngoài, phương tiện “tự túc”, trên
những chiếc thuyền đánh cá mong manh, mỗi chiếc chở tới vài trăm người. Tính đổ
đồng, 7 lượng vàng cho mỗi đầu người, chủ tàu đếm đầu người rồi đóng vàng cho
CSVN để được “mua bãi vượt biên”.
Dư luận quốc tế lên tiếng về một “khủng hoảng
nhân đạo” mà việc này do nhà cầm quyền CSVN gây ra. Báo chí nước ngoài tố cáo một
vụ “buôn người” do nhà nước CSVN tổ chức mà việc này VN thu được “hàng trăm triệu
đô la”. Số người bị nạn do tàu chìm, do hải tặc… lên đến vài trăm ngàn người.
Hiển nhiên đây là một “tội ác diệt chủng” của
CSVN, một chuyện chưa từng có trong lịch sử, (vậy mà học giả VN nhiều người lại
sớm quên). Chuyện này cần thiết viết thêm vài dòng nhắc lại.
Vấn đề người Hoa hay « nạn kiều ».
Vào năm 1975 người Hoa ở miền Nam Việt Nam khoảng
1.200.000 người, phần lớn ở Chợ Lớn (800.000), nắm phần lớn huyết mạch kinh tế
miền Nam. Con số này cộng thêm 200.000 là số dân Hoa sống tại Kampuchia, sau
1975 chạy sang VN tị nạn. Vấn đề quốc tịch người Hoa được Bắc Kinh và chính phủ
VNDCCH đặt ra sau khi ký kết hiệp định Genève 1954. Hai bên đồng thuận rằng người
Hoa tại VN (miền Bắc) được có những quyền lợi tương tự như người bản xứ nhưng
những người này phải lần hồi lấy quốc tịch Việt.
Ở miền Nam, thời chính phủ Ngô Đình Diệm đã có
những chính sách hạn chế sinh hoạt kinh tế của ngoại kiều. Người nước ngoài
không được làm một số ngành nghề, việc cấp Visa cũng khó khăn, hạn chế. Điều
này cũng áp dụng cho Hoa Kiều, vì thế lớp người này hầu hết nhập tịch Việt Nam.
Sau 1975, CSVN áp dụng chính sách “đánh tư sản
mại bản”, một số tài phiệt người Việt gốc Hoa tại miền Nam bị bắt cải tạo hay
đày đi kinh tế mới. Các bang, hội đồng hương, hội tương tế của người Hoa bị cấm
hoạt động. Hai đợt đổi tiền (1975, 1978), bề mặt là kiểm soát lượng tiền tệ,
nhưng mục tiêu lột sạch của cải của nhân dân miền Nam, trong đó người Việt gốc
Hoa là nạn nhân chính. Song song đó là chính sách “cải tạo công thuơng nghiệp”,
toàn bộ tài sản của dân miền Nam, dĩ nhiên bao gồm người có gốc Hoa, ruộng đất,
vườn tược hoàn toàn bị tước đoạt.
Năm 1976, nhân việc tổ chức bầu cử toàn quốc,
những người Việt gốc Hoa ở miền Nam bị buộc khai quốc tịch. Việc này quan hệ đến
đại đa số dân Hoa sống tại đây. Từ thập niên 50 họ đã có quốc tịch Việt Nam, một
phần do chính sách ép buộc của VNCH đã nói trên. Như thế người Hoa bị hai mất
mát lớn : vừa mất quốc tịch vừa mất tài sản.
Trong khi đó chính phủ MTGPMN đã có cam kết với
Bắc Kinh về tình trạng của người Hoa sau chiến tranh. Ngày 24 tháng 5 năm 1965,
mặc dầu còn đang chiến tranh, MTGPMN công bố một lá thư nhằm gởi đến Hoa kiều
đang ở miền Nam, nội dung cho biết những người này có quyền tự do lựa chọn quốc
tịch của mình.
Năm 1968 việc này được CP MTGPMN nhắc lại và Bắc
Kinh tiếp nhận sự việc này. Như thế đây là một lời cam kết giữa hai chính phủ.
Nhưng MTGPMN đã bị âm thầm “xóa sổ”, không kèn không trống, một số nhân vật của
tổ chức này vượt biên ra sống ở hải ngoại, một số được CSVN sử dụng, nhưng số rất
lớn khác vẫn còn ngậm đắng nuốt cay cho đến ngày hôm nay.
Trở lại vấn
đề “tội ác diệt chủng”. Hàng trăm ngàn người Việt đã chết trên biển cả. Trong số
này có những người Việt gốc Hoa. Ta có thể nói rằng đảng CSVN là nguyên nhân của
“khủng hoảng nhân đạo” 1978-1979 đồng thời là thủ phạm vụ “diệt chủng” này.
Đáng tiếc là TQ đã không lên tiếng, đã đành,
vì TQ cũng có những chủ trương tương tự với VN. Nhưng sự im lặng của Đài loan về
thảm trạng “nạn kiều” là không đúng cách. Những nạn nhân này có quốc tịch VN,
nhưng một số đông đảo có “gốc Hoa”.
Đài loan hay TQ lý ra phải yêu sách VN, như là
điều kiện bang giao, phải trả lại của cải, nhà cửa, ruộng đất… cho tất cả những
người này đồng thời phải đền bồi xứng đáng cho họ.
Trên phương diện Luật quốc tế về nhân đạo,
CSVN cũng đã phạm nhiều tội trạng. Việc “xóa trắng” văn hóa VNCH cũng là một “tội
ác”.
4/ Lời tạm kết:
Vấn đề cốt lõi trong chiến tranh, lạnh hay
nóng, đối với một quốc gia nhược tiểu là sự “chọn phe”. Sự quan trọng “chiến lược”
của hành vi chọn phe trước một cuộc chiến, đã nói trên, có thể quyết định số phận
“giàu sang hay hèn kém” của cả một dân tộc, cũng như quyết định một quốc gia “độc
lập tự chủ” hay “lệ thuộc”.
Ta thấy nước Mỹ dưới thời TT Trump có khuynh
hướng theo “chủ nghĩa biệt lập”. TT Trump cho thấy là không tha thiết với NATO.
Nếu cuộc chiến Nga xâm lược Ukraine xảy ra dưới thời Trump, ta khó có thể tiên
đoán được rằng Mỹ có tham gia bảo vệ thành viên hay không.
TT Trump và các lãnh đạo đại cường khác Tập Cận
Bình, Putin… có cái nhìn khác nhau về “trật tự thế giới cũ”.
TT Trump muốn chấm dứt “kinh tế toàn cầu”, dẹp
bỏ LHQ, dẹp bỏ tất cả các tổ chức thuộc LHQ về văn hóa, về ý tế, về lương thực..
quốc tế. Đơn giản vì các tổ chức này thường có các quyết định “đi ngược lại lợi
ích của Mỹ”.
Tập Cận Bình thì ra sức bảo vệ “kinh tế toàn cầu”
cũng như các định chế LHQ. Bởi vì TQ đã sử dụng nhiều biện pháp “bá đạo” để đưa
người kiểm soát hầu hết các định chế quốc tế. Nhưng tại Biển Đông thì TQ thách
thức “trật tự quốc tế theo luật lệ”, qua thái độ bất chấp phán quyết của tòa án
quốc tế (phán quyết của Tòa quốc tế có giá trị qui chiếu như là luật).
Putin với tham vọng “phục hồi đế quốc Nga”, vì
vậy luôn nắm lấy cơ hội để “tạo sự đã rồi”, có lợi cho Nga.
Nhưng TT Biden đã thắng cử. Chính trị nước Mỹ
thay đổi nhiều so với thời Trump. Cuộc chiến Ukraine cho thấy TT Biden có quyết
tâm bảo vệ NATO. Nước Mỹ có thể “dấn thân” bảo vệ các quốc gia thành viên.
Cuộc chiến Ukraine, Mỹ và Châu Âu thẳng tay trừng
phạt Nga. Việc này kéo dài có thể kéo theo TQ vào chung số phận với Nga. Chiến
tranh Ukraine chấm dứt cách nào thì “kinh tế toàn cầu” cũng sẽ phải kết liễu.
Câu hỏi đặt ra, VN có “chọn phe” để theo hay không
?
Tự thân các chế độ “độc tài tư bản nhà nước”
chỉ có thể phát triển được nhờ sự phồn thịnh và năng động của các quốc gia dân
chủ tự do gồm Mỹ, Châu Âu và các quốc gia Đông Á.
Sự “trừng phạt kinh tế” của Mỹ, Châu Âu và các
quốc gia Đông Á lên các chế độ “độc tài - tư bản nhà nước” đồng nghĩa với việc
“cắt đứt đường dưỡng khí” của các chế độ độc tài này.
Lựa chọn
“không theo phe” của VN hiện nay là đảng CSVN muốn “giữ nguyên trạng”. VN lệ thuộc vào TQ từ
kinh tế, ý thức hệ chính trị cho tới mô hình phát triển. Về quốc phòng, chính
sách 4 không của VN, như đã nói trên, là “nội dung mật ước Thành đô 1990”.
Putin “thí” quân vài chục ngàn người Nga chỉ để
có được một cam kết từ Ukraine, khiêm nhượng hơn các yêu sách của TQ đối với VN
mà chưa được.
Giữ nguyên trạng tức là VN khẳng định
vị trí “chư hầu” đối với “thiên triều” mà điều này chưa chắc nhân dân VN đã đồng
thuận.
.
No comments:
Post a Comment