Tại Sao Việt
Nam Không Dạy Lịch Sử Chiến Tranh Trung-Việt?
Tác giả: Travis Vincent | The
Diplomat ngày 9/2/2022
Biên dịch: Đoàn Thị Hằng Ni | Hiệu đính: Phạm Huệ Việt
Hình : https://daisukybiendong.files.wordpress.com/2022/02/thediplomat_2022-02-08-193703.jpeg
.
Những người phụ nữ Việt Nam cầm biểu ngữ có nội
dung “Nhân dân không bao giờ quên ngày 17 tháng 2 năm 1979” trong một cuộc tụ họp
tại Hà Nội ngày 17/2/2016. Ảnh: AP/Trần Văn Minh
Việt Nam không sẵn sàng đưa cuộc xung đột năm 1979
vào sách giáo khoa lịch sử, tiếp tục sự im lặng kéo dài hàng thập kỷ.
Kỳ thi tại các trường đại học ở Việt Nam thường
rơi vào cuối tháng Giêng, một vài tuần trước khi kỷ niệm chiến tranh Trung-Việt,
hay trong tiếng Việt được gọi là Chiến tranh biên giới. Vì vậy, cuối học kỳ “sẽ
là thời điểm hoàn hảo để suy ngẫm về cuộc chiến năm 1979, nhưng tôi không thể
hướng dẫn sinh viên của mình thảo luận về nó,” Hằng, giảng viên môn Chính trị
quốc tế tại một trường có thứ hạng cao ở Hà Nội cho biết.
Để phản ứng với việc Việt Nam đóng quân ở
Campuchia và ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô năm 1978, Trung Quốc
đã tiến hành một cuộc đột kích vào Việt Nam vào tháng 2/1979 và chiếm được một
số thành phố biên giới. Các mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước Cộng sản trước
đó là đồng minh đã trở nên xấu đi. Từ ngày 17/2 đến ngày 16/3, cuộc chiến đã cướp
đi sinh mạng của hàng chục nghìn binh sĩ Trung Quốc và Việt Nam, mặc dù con số
thương vong chính xác vẫn còn đang tranh cãi. Quân đội Trung Quốc rút lui sau
ba tuần, thông báo rằng sứ mệnh trừng phạt của họ đã hoàn thành.
Nhưng trong hơn bốn thập kỷ kể từ khi chiến
tranh kết thúc, các trường học của Việt Nam do dự một cách kỳ lạ trong việc giảng
dạy về cuộc xung đột. Hằng, người yêu cầu sử dụng tên giả, không thể đưa sự kiện
này vào bài kiểm tra cho học sinh của mình hoặc thậm chí vào giáo trình của
riêng mình.
Sự im lặng về chiến tranh trong khuôn viên trường
chỉ tốt hơn một chút so với khi cô còn là sinh viên năm thứ hai tại cùng một
trường đại học vào năm 1979.
“Giáo viên của tôi đã nói trong bài giảng của
chúng tôi rằng một cuộc chiến tranh [giữa Trung Quốc và Việt Nam] sẽ không thể
xảy ra bởi vì cả hai là đồng chí và anh em. Sau đó, Trung Quốc đã nã pháo vào
biên giới vào ngày hôm sau. Nhưng ông ấy không bao giờ đính chính lại lời nói của
mình. Không ai dám thốt lên lời nào về chuyện đó,” Hằng nói.
Trong khi đó, những người đồng cấp ở Trung Quốc
đại lục đề cập đến cuộc chiến và coi nó tương tự như Cuộc chiến tự vệ chống
lại Việt Nam (对 越 自卫 反击 战), như được mô tả trong bộ phim nổi tiếng năm 2017 “Fanghua” (“Tuổi trẻ”),
lấy bối cảnh của cuộc xung đột.
Trên thực tế, chính phủ Việt Nam đã ngại ngần
trong việc đưa Chiến tranh Việt – Trung vào giảng dạy cho thanh niên ở tất cả
các cấp – một lỗ hổng lạ kỳ trong bối cảnh học sinh Việt Nam đã quen thuộc với
lịch sử đầy ắp những cuộc chiến tranh chống Trung Quốc. Từ lớp 6 đến lớp 7, học
sinh được học về gần một thiên niên kỷ đất nước bị Trung Quốc đô hộ cho đến năm
938 cũng như các cuộc chiến đấu lẻ tẻ ở các triều đại khác nhau chống lại các
lãnh chúa khác nhau của Trung Quốc. Các cuộc chiến tranh đó được nghiên cứu sâu
hơn trong nội dung học từ lớp 10 đến lớp 11. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh giữa
hai quốc gia năm 1979 lại bị làm lu mờ đi trong các tiết học lịch sử. Phiên bản
năm 2001 của sách giáo khoa Lịch sử lớp 12 ở Việt Nam chỉ dành 24 dòng cuối
sách kể lại cuộc chiến tranh, trong khi phiên bản năm 2018 giảm phần miêu tả chỉ
còn 11 dòng.
Những lời kêu gọi của các chuyên gia về việc cần
cải cách sách giáo khoa lịch sử, đặc biệt là tường thuật chi tiết về cuộc đụng
độ năm 1979, cho đến nay vẫn bị phớt lờ. Mặc dù chính phủ có thể cho phép các
cuộc thảo luận cởi mở hơn về cuộc chiến trên các phương tiện truyền thông nhà
nước, nhưng việc giảng dạy toàn diện hơn về cuộc chiến này vẫn chưa được thực
hiện và có lẽ sẽ vẫn vậy. Việc viết lại và ghi nhớ cuộc chiến sẽ đòi hỏi
một cuộc đại tu các sách giáo khoa lịch sử do Đảng Cộng sản chỉ đạo thực hiện.
Cuộc chiến tranh
Ngắn và Quan trọng
Hằng thấy mình đang ở trong một tình thế cực kỳ
khó khăn, vì không thể thực hành những gì bà thường giảng với học sinh. “Tôi đã
bảo học sinh thảo luận và đặt câu hỏi trong lớp, nhưng sau đó tôi không thể thu
hút chúng vào chính chủ đề này,” giáo viên nói.
Để giải quyết tình huống khó xử, Hằng đề nghị
các học sinh của mình đọc “Hồi ức và suy nghĩ”, một cuốn hồi ký nổi tiếng và được
lưu hành trực tuyến, của nhà ngoại giao cấp cao Trần Quang Cơ, được nhiều người
coi là tài liệu có thẩm quyền nhất về quan hệ Trung-Việt trong những năm 1980.
Cô cũng khuyến khích học sinh thảo luận với cô một cách thoải mái về cuốn hồi
ký.
Đây là điều mà nhiều giảng viên ở các trường đại
học khác đã và đang làm để lấp đầy khoảng trống kiến thức.
Phạm Kim Ngọc, sinh viên năm 3 ngành Quan hệ
quốc tế tại TP.HCM, cho biết giảng viên của cô đã đề cập đến cuộc chiến tranh
này trong một bài giảng ngắn và rất hoan nghênh những câu hỏi sau giờ học. Tuy
nhiên chưa có sách giáo khoa nào để cô có thể nghiên cứu thêm.
Ngọc nói: “Chúng tôi được dạy rằng Trung Quốc
là quốc gia quan trọng nhất để nghiên cứu đối với sinh viên Việt Nam, nhưng một
sự kiện như vậy vẫn còn nhạy cảm.
Nguyễn Ngọc Trâm, giáo viên lịch sử tại một
trường trung học tư thục ở Hà Nội, nhận thấy cách tiếp cận chiến tranh từ trên
xuống rất hời hợt. Trong sách của giáo viên, không có hướng dẫn chi tiết về
cách giảng dạy cuộc chiến này. “Chiến tranh biên giới đã được đề cập ở cuối
sách giáo khoa, lẽ ra phải dạy vào cuối năm học. Song không một ai chú ý đến
nó,” bà Trâm nói.
Ngoài ra, bà Trâm cũng đang phụ đạo học sinh lớp
12 tập trung vào môn lịch sử nhằm chuẩn bị cho kỳ thi tuyển sinh đại học quốc
gia. Song Bộ Giáo dục vẫn không đưa nội dung cuộc chiến này vào nội dung ôn
thi.
“Vì nó [chiến tranh biên giới] sẽ không có
trong kỳ thi nên học sinh của tôi không có động lực để học nó,” bà Trâm cho biết.
Hướng dẫn ít ỏi về cuộc chiến này đã khiến bà
Trâm ngạc nhiên vì học sinh cấp 1, cấp 2 và cấp 3 phải học một học phần cụ thể
gọi là “giáo dục về biển đảo”, trong đó nhấn mạnh chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam đối với quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, vốn được xem là mấu chốt của sự
tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Từng học chuyên ngành lịch sử, bà Trâm có cơ hội
tìm hiểu về cuộc chiến tranh tại trường đại học của mình, mặc dù chỉ ở một mức
độ hạn chế. Tuy nhiên, nhiều người bạn của bà đã không biết về điều đó.
Đặng Ngọc Oanh, sinh viên Đại học Kinh tế Quốc
dân cho biết, cô hiểu biết về chiến tranh là nhờ bố. Oanh rất sốc vì cô chưa
bao giờ được học về nó ở trường. “Cha tôi từng là một người lính. Ông ấy không
tham gia vào cuộc chiến đó, nhưng ông đã kể cho tôi nghe về nó,” Oanh, người
sau này đã tìm hiểu thêm về cuộc chiến tranh qua sách tiếng Anh, cho biết.
Thỏa thuận từ trên
xuống để quên đi quá khứ
Mặc dù Trung Quốc ủng hộ Việt Nam trong các cuộc
chiến chống Pháp và Hoa Kỳ, nhưng quan hệ giữa hai nước đã xuống dốc trong những
năm 1960. Bằng cách phát động cuộc chiến tranh năm 1979, Trung Quốc đã tìm cách
dạy cho “một bá chủ nhỏ đầy tham vọng” Việt Nam một bài học, sau khi quốc gia
này lật đổ chế độ Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn sau khi đưa quân vào
Campuchia.
Sự thù hận của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
Trung Quốc sau đó lên đến mức mà phần mở đầu của Hiến pháp năm 1980 của Việt
Nam đã gọi Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm của Việt Nam”. Tuy
nhiên, cụm từ này đã bị loại bỏ khỏi Hiến pháp 1980 vào năm 1988 nhằm mở đường
cho quá trình bình thường hóa song phương.
Từ năm 1980-1987, Hà Nội đã có nhiều động thái
chính thức và bí mật để nối lại đàm phán bình thường hóa với đồng chí phương Bắc,
nhưng vô ích. Tháng 3/1988, Trung Quốc cưỡng chiếm các khu vực thuộc quần đảo
Trường Sa thuộc quyền tài phán của Việt Nam.
Tuy nhiên, Bắc Kinh, trong bối cảnh bị quốc tế
cô lập sau vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989, đã khởi xướng một cuộc họp bí mật
năm 1990 tại Thành Đô, Trung Quốc, nơi hai nước nhất trí “quên đi quá khứ, hướng
tới tương lai”. Kết quả là, nhà nước Việt Nam đã chọn không kỷ niệm chính thức
cuộc chiến năm 1979, và nó đã rơi vào quên lãng. Các nhà lãnh đạo cao nhất đã
tuyên bố chính thức bình thường hóa quan hệ song phương ở cả cấp nhà nước và cấp
Đảng vào năm 1991.
Một thập kỷ sau, hai bên ký Tuyên bố chung về
Hợp tác Toàn diện. Năm 1999, trong chuyến thăm của Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới
Bắc Kinh, một phương châm hay còn gọi là “16 chữ vàng” đã được thông qua trong
mối quan hệ của hai nước: láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu
dài và hướng tới tương lai. Đồng thời, Nguyễn Cơ Thạch, người nổi tiếng với lập
trường cứng rắn trong các vấn đề Trung Quốc và thúc đẩy quan hệ chặt chẽ hơn với
Hoa Kỳ, đã bị loại khỏi Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương, thậm chí mất chức Bộ
trưởng Ngoại giao.
Trong nhiều bảo tàng, từ “chiến tranh” đã được
tránh và “Trung Quốc” thậm chí không được nhắc đến khi đề cập đến sự kiện năm
1979, không giống như những mô tả về “cuộc đấu tranh anh dũng và chính nghĩa chống
lại thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và quân ngụy miền Nam Việt Nam”. Trong một thời
gian dài, Việt Nam không công nhận những người đã ngã xuống trong cuộc chiến
tranh biên giới là anh hùng. Những người lính hy sinh trong cuộc chiến chống
Trung Quốc chỉ được gọi là “bảo vệ tổ quốc”, không giống như những người đồng đội
của họ trong các cuộc chiến chống Pháp và Hoa Kỳ.
Trong khi Việt Nam thành công trong việc buộc
Trung Quốc rút lui vào năm 1979, cả phương tiện truyền thông chính thống và
sách giáo khoa lịch sử của nước này đều không đề cập đến đây là một chiến thắng
quân sự. Mặc dù Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh,
nhưng Việt Nam đã hoàn toàn im lặng trước những hành động tàn bạo của cuộc chiến
năm 1979 do Trung Quốc gây ra.
“Bọn phản động” tưởng
nhớ chiến tranh
Tuy nhiên, chính phủ đã thay đổi quyết định
trong bối cảnh Trung Quốc ngày càng quyết đoán ở Biển Nam Trung Hoa, trong tiếng
Việt được gọi là Biển Đông. Năm 2014, căng thẳng giữa hai nước leo thang khi
Trung Quốc di chuyển một giàn khoan dầu đến vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa đang
tranh chấp. Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc nổi lên khắp Việt Nam. Nhiều
người bắt đầu bày tỏ sự quan tâm đến các cuộc xung đột vũ trang trong quá khứ với
nước láng giềng ở phía bắc. Cuộc chiến do đó đã sống lại trong ký ức của công
chúng.
Theo Giáo sư Vũ Tường từ Đại học Oregon, chiến
tranh Trung-Việt vẫn chia rẽ sự lãnh đạo của Hà Nội ngày nay. Một phe đổ lỗi
cho Lê Duẩn, một cựu lãnh đạo Đảng nổi tiếng là chống Trung Quốc, trong khi phe
kia cho rằng Đảng đã sai vì đã quá tin tưởng Trung Quốc.
“Việc cho phép bất kỳ cuộc thảo luận nào về
chiến tranh đều có nguy cơ làm sâu sắc thêm rạn nứt đó và sự tồn vong của Đảng
và sẽ vạch trần những sai lầm của ban lãnh đạo Đảng,” ông Vũ nói qua email. “Việc
dạy trẻ em về cuộc chiến này theo thời gian có thể tạo ra áp lực dư luận buộc Đảng
phải rời xa Trung Quốc và xích lại gần Mỹ hơn, điều mà họ không muốn”.
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2018 với BBC, ông
Dương Danh Dy, cựu Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc và là cơ
quan hàng đầu về nghiên cứu Trung Quốc tại Việt Nam, cho biết vẫn chưa biết ai
đã chủ mưu cho sự im lặng về cuộc chiến.
Nhưng rõ ràng ai là người đóng vai trò chính
trong việc mở lại các cuộc thảo luận và tưởng niệm: chính là các cựu chiến binh
Việt Nam trong cuộc xung đột. Đặc biệt, những người tham gia trận Vị Xuyên và
Hà Giang là những người có tiếng nói nhất.
Các kênh truyền hình quốc doanh bắt đầu phát
các bộ phim tài liệu về chiến tranh. Nhiều tác phẩm nghệ thuật về chiến tranh bắt
đầu được lưu hành. Hơn 30 năm sau khi chiến tranh kết thúc, nhà nước đã đưa ra
sáng kiến tìm kiếm hài cốt của những người lính đã ngã xuống ở Vị Xuyên.
Vào tháng 2/2016, Chủ tịch nước Trương Tấn
Sang đã có chuyến thăm đặc biệt tới các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam để
tưởng nhớ chiến tranh, trở thành chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam làm điều
đó.
Không phải cho đến khi kỷ niệm 40 năm chiến
tranh vào năm 2019, phương tiện truyền thông trong nước của Việt Nam mới nói về
nó một cách công khai, mặc dù với những bài tường thuật bị kiểm duyệt. Cuốn
sách “Những người đi giữ biên cương” năm 2019 do Nhà xuất bản Thông tin và Truyền
thông thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông xuất bản, là một trong số ít ấn phẩm
chính thức về chiến tranh bằng tiếng Việt. Người ta vẫn gọi đó là cuộc chiến
tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, tránh đề cập đến tên Trung Quốc.
Đầu năm nay, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã đến
thăm Đài tưởng niệm ở phía Bắc tỉnh Quảng Ninh, bày tỏ lòng thành kính với các
chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến tranh năm 1979. Tuy nhiên, so với các lễ kỷ
niệm hàng năm của Việt Nam về các chiến thắng vẻ vang trước Pháp và Mỹ, thì chiến
thắng trước Trung Quốc được kỷ niệm ở mức độ khiêm tốn hơn.
Ngoài ra, một số chủ đề vẫn hoàn toàn nằm
ngoài giới hạn, chẳng hạn như số người chết và việc hành quyết những người dân
tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, những người đã từng ủng hộ quân đội Trung Quốc
trong chiến tranh.
Cần đại tu sách
giáo khoa
Là một giáo viên, bà Trâm phải cân bằng giữa
việc truyền đạt với học sinh về cuộc chiến phần lớn “đã bị lãng quên” và không
vượt qua ranh giới bất thành văn.
Bà Trâm nói: “Tôi phải truyền đạt mọi thứ bằng
ngôn ngữ uyển chuyển”. “Tôi phải giảng dạy từng chút một, nếu không phụ huynh sẽ
phàn nàn rằng những gì tôi dạy khác với sách giáo khoa”.
Bà Trâm, tận dụng môi trường sư phạm tương đối
cởi mở ở một trường tư thục, cũng cố gắng dạy các học sinh nhỏ tuổi của mình về
những dấu mốc quan trọng khác trong lịch sử mà sách giáo khoa còn thiếu.
Bà Trâm nói: “Điều quan trọng là phải dạy họ rằng
Việt Nam vào năm 938 không giống như Việt Nam ngày nay. Bà nói thêm “Tôi vẫn phải
dạy cho học sinh của mình rằng có nhiều giai đoạn lịch sử về cái được gọi là‘
Việt Nam ’ngày nay, chứ không phải chỉ có một Việt Nam duy nhất được định nghĩa
trong sách giáo khoa quốc gia”.
Tuy nhiên, một số câu chuyện vẫn đặc biệt khó
thay đổi.
Viết lại lịch sử của Chiến tranh Trung-Việt
cũng sẽ đòi hỏi những trình bày chi tiết hơn về việc đưa quân vào Campuchia năm
1978, mà phía Việt Nam vẫn ám chỉ là “giải phóng Campuchia khỏi Khmer Đỏ”. Cuộc
xung đột đó được đề cập trong 13 dòng là “cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây
Nam” trong sách giáo khoa lịch sử hiện hành.
Nhà nước Cộng sản cũng chưa bao giờ thừa nhận
Việt Nam Cộng hòa ở miền nam là một chính phủ hợp pháp. Nói cách khác, nó chưa
bao giờ công nhận hai nước Việt Nam cùng tồn tại trong thế kỷ 20, mà coi Việt
Nam là một quốc gia bị chia cắt bởi những kẻ xâm lược và người Việt phản động.
Sự thất thủ của Sài Gòn được miêu tả trong sách giáo khoa là đại diện cho sự thống
nhất tất yếu của đất nước.
Kết quả là, cuộc giao tranh quân sự giữa lực
lượng hải quân của Trung Quốc và Nam Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974
cũng đã rơi vào quên lãng. Tất cả các sách giáo khoa lịch sử quốc gia cho học
sinh trên toàn quốc đều tập trung vào miền Bắc Việt Nam.
Tại Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục trực thuộc
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã độc quyền xuất bản sách giáo khoa sử dụng trên toàn
quốc hàng chục năm nay. Kể từ năm 2019, chính phủ đã cấp phép cho thêm một số
nhà xuất bản làm nhiệm vụ này. Các trường học bây giờ có thể chọn những cuốn
sách sẽ được sử dụng. Năm 2021, sách giáo khoa lớp 10 mới được phát hành. Năm
2023, một số phiên bản sách giáo khoa lớp 12 sẽ được lưu hành. Nhưng trừ khi Đảng
Cộng sản đồng ý nới lỏng hạn chế của mình, sách giáo khoa lịch sử sẽ chỉ là
bình mới rượu cũ.
-------------
Travis Vincent là một nhà hoạt động xã hội đang ở Việt
Nam.
Nguồn :
Why
Won’t Vietnam Teach the History of the Sino-Vietnamese War?
By Travis Vincent
February 09, 2022
No comments:
Post a Comment