Lựa chọn nào
cho Việt Nam trong tình hình thế giới mới?
Hiếu
Chân/Người Việt
February 15, 2022
https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/lua-chon-nao-cho-viet-nam-trong-tinh-hinh-the-gioi-moi/
Cuộc xung đột ở Ukraine đang đẩy Nga và Trung
Quốc vào thế liên minh chống phương Tây trong khi Hoa Kỳ công bố chiến lược Ấn
Độ Dương-Thái Bình Dương mà trọng tâm là lập một hàng rào bao vây Trung Quốc cả
về kinh tế lẫn an ninh, trong đó Việt Nam được đánh giá là một đối tác hàng đầu.
https://www.nguoi-viet.com/wp-content/uploads/2022/02/A1-Lua-chon-nao-cho-Viet-Nam-1068x663.jpg
Trong hoàn cảnh Nga
đã ngả theo Trung Quốc, Việt Nam khó có thể dựa vào Moscow để cân bằng ảnh hưởng
của Trung Quốc như trước. Trong hình, Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải)
và Tổng Thống Nga Vladimir Putin trong diễn đàn “Vành Đai và Con Đường” ở Bắc
Kinh hôm 27 Tháng Tư, 2019. (Hình minh họa: Valery Sharifulin/Sputnik/AFP via
Getty Images)
Những biến cố lịch sử đang có thể làm thay đổi
lựa chọn của Việt Nam hay không? Để trả lời câu hỏi này, cần xem lại lịch sử
“đu dây” trong các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
Quan hệ Việt-Nga để
cân bằng thế lực
Quan hệ Việt-Nga có nguồn gốc sâu xa từ thời
khối Cộng Sản quốc tế còn là một thế lực toàn cầu xung quanh “anh cả Đỏ” Liên
Bang Xô Viết. Đỉnh điểm của quan hệ Việt Nam-Liên Xô là Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp
Tác Liên Xô-Việt Nam ký kết ngày 3 Tháng Mười Một, 1978, tại Moscow và có hiệu
lực 25 năm thể hiện sự hợp tác chiến lược toàn diện giữa hai nước đồng minh Cộng
Sản.
Sau khi Liên Xô sụp đổ thì quan hệ Việt Nam với
Nga không còn sâu đậm nữa. Nhưng Việt Nam vẫn phải dựa vào Nga, tập trung ở hai
lĩnh vực khai thác dầu mỏ và vũ khí. Nhờ các mỏ dầu ở ngoài khơi Vũng Tàu, công
ty liên doanh dầu khí Việt-Xô, sau này là Việt-Nga, đã giúp Hà Nội sống được
qua thời kỳ kinh tế sụp đổ. Đổi lại, khi kinh tế Việt Nam bắt đầu khởi sắc nhờ
“tháo khoán” nông nghiệp và đầu tư nước ngoài, Hà Nội bắt đầu hiện đại hóa quân
đội thì nguồn cung cấp đầu tiên mà họ nhắm đến là các công ty vũ khí Nga. Các
loại chiến đấu cơ Su-30MK2/MK, Su-27SK, chiến hạm hộ vệ tên lửa Gepard 3.9,
Gepard 5.1 và tàu ngầm lớp Kilo của Nga lần lượt được mua về và bố trí vào các
đơn vị Không Quân, Hải Quân Việt Nam.
CSVN coi quan hệ mật thiết với Nga như một
cách “cân bằng” với thế lực của Trung Quốc. Bắc Kinh có chính sách cưỡng ép các
công ty dầu khí quốc tế không được hợp tác với Hà Nội để khai thác dầu ở Biển
Đông. Nhiều công ty dầu khí phương Tây đã bỏ Việt Nam nhưng các công ty Nga như
Rosneft, Zarubezhneft vẫn tiếp tục hoạt động trong liên doanh dầu khí Việt-Nga.
Việc mua sắm vũ khí của Nga cũng nằm trong ý đồ phòng thủ sự xâm lược của Trung
Quốc.
Tuy nhiên, đến nay, nguồn dầu khí ngoài khơi
Việt Nam không còn nhiều nên hợp tác Việt-Nga trong lĩnh vực khai thác dầu đã
không còn mật thiết. Việc mua vũ khí Nga cũng không có mấy ý nghĩa vì Moscow
bán cho Hà Nội thứ gì thì cũng bán cho Bắc Kinh thứ ấy, số lượng nhiều hơn và
tính năng có khi tân tiến hơn vì Trung Quốc trả nhiều tiền hơn; chưa kể rằng
Trung Quốc đã rất thành công trong việc sao chép và cải tiến các loại vũ khí mà
họ đã mua của Nga, đưa chúng lên một nấc cao mới.
Quan hệ “hợp tác-đấu
tranh” Việt Nam-Trung Quốc
Với Trung Quốc, sau Hội Nghị Thành Đô năm
1990, Việt Nam đã gần như trở thành một nước “chư hầu,” không chỉ sao chép mô
hình độc đảng toàn trị đi cùng với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa của Trung Quốc mà còn bị Bắc Kinh khống chế về nhiều mặt, từ chính trị,
kinh tế đến văn hóa, nhân sự. Điểm đặc biệt là giữa Việt Nam và Trung Quốc
không chỉ có quan hệ giữa hai nước, hai chính phủ mà có cả quan hệ giữa hai đảng
cộng sản có cùng ý thức hệ và mô hình chính trị. Chính quan hệ giữa hai đảng
bao phủ lên và chi phối quan hệ giữa hai nước.
Tuy nhiên quan hệ Việt Nam-Trung Quốc không phải
lúc nào cũng thuận buồm xuôi gió, một phần vì tâm lý ghét Trung Quốc đã ăn sâu
thành một thứ căn tính của dân tộc Việt sau ngàn năm bị đô hộ và chiến tranh chống
xâm lược phương Bắc, một phần vì trào lưu chống thể chế độc tài đảng trị nhưng
phần lớn là do chính sách chèn ép, xâm lấn liên tục của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Vì lẽ đó, đảng Cộng Sản cầm quyền ở Việt Nam
phải “cân bằng” hai xu thế: không làm trái ý đảng Cộng Sản Trung Quốc đàn anh
mà không hy sinh lợi ích của dân tộc một cách lộ liễu có thể gây phản ứng mạnh
của dân chúng. Những sự kiện nổi bật trong quan hệ giữa hai nước cho thấy Việt
Nam luôn bị động, bị lép vế trước những thủ đoạn xảo quyệt của Cộng Sản phương
Bắc. Bắc Kinh có ảnh hưởng quyết định ở các ban của đảng Cộng Sản, các bộ Công
An và Công Thương của chính phủ, cùng một số lãnh đạo địa phương, trong khi bộ
Quốc Phòng có xu hướng đề phòng những âm mưu xâm lấn, thậm chí gây chiến tranh
của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Quan hệ Việt-Mỹ,
con bò sữa
Với nhà cầm quyền CSVN, Hoa Kỳ là kẻ cựu thù,
là nước có âm mưu thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam và xóa bỏ sự tồn tại của
đảng Cộng Sản thông qua cuộc vận động cho tự do, dân chủ, nhân quyền. Và đó là
điều đảng Cộng Sản không bao giờ chấp nhận cho nên quan hệ giữa Việt Nam với
Hoa Kỳ chưa bao giờ có sự tin cậy, đối tác đúng nghĩa.
Nhưng để thoát ra khỏi cuộc cùng quẫn kinh tế
những năm 1976-1990, Việt Nam buộc phải “gác lại quá khứ” thù địch để xây dựng
quan hệ với siêu cường duy nhất trên thế giới. Sự kiện Hoa Kỳ bãi bỏ cấm vận
kinh tế và bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Cộng Sản Việt Nam năm 1995,
ký hiệp định thương mại Việt-Mỹ 2001 và Việt Nam tham gia Tổ Chức Thương Mại Thế
Giới (WTO) năm 2006, tất nhiên là có sự chấp thuận của Mỹ – đã là những đòn bẩy
quan trọng giúp Việt Nam khôi phục và phát triển kinh tế, thương mại. Việc khai
thông kênh thương mại với thị trường Mỹ là điều kiện căn bản thu hút các nhà đầu
tư nước ngoài đến Việt Nam mở nhà máy, công ty, tạo công ăn việc làm tạo nên
cái xương sống của nền kinh tế mấy chục năm nay.
Cho đến nay, CSVN vẫn chỉ nhìn nước Mỹ như một
thị trường tiêu thụ khổng lồ, một con bò sữa cần vắt kiệt để bù cho sự phụ thuộc
vào kinh tế Trung Quốc. Một ví dụ, trong năm 2021 dù đại dịch COVID-19, giá trị
hàng hóa Việt Nam bán sang Mỹ vẫn cao hơn giá trị nhập cảng từ Mỹ (thặng dư
thương mại) lên tới $80.2 tỷ; trong khi nhập cảng từ Trung Quốc cao hơn giá trị
xuất cảng (thâm hụt thương mại) tới $53.5 tỷ, theo số liệu của tạp chí Ngân
Hàng.
Thỉnh thoảng, để duy trì con bò sữa thị trường
Mỹ, CSVN có nhượng bộ chút ít đòi hỏi của Washington về nhân quyền, tự do tôn
giáo, hợp tác tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA), trả tự do và
trục xuất một số tù nhân lương tâm, nhưng sau khi sóng gió đã qua, Việt Nam lại
tiếp tục đi theo con đường đàn áp đã có.
Nga-Trung liên kết
và chiến lược của Hoa Kỳ
Những biến động lớn trên thế giới hiện nay, đặc
biệt là cuộc xung đột đang nóng bỏng ở Ukraine giữa Nga và phương Tây đang buộc
Việt Nam phải xét lại các mối quan hệ.
Chiến tranh có thể sẽ không bùng nổ ở Ukraine
và Châu Âu, nhưng một hiệu ứng phụ của nó là đẩy Nga và Trung Quốc dấn sâu vào
một liên minh kinh tế-quân sự cùng chống lại phương Tây. Chủ Tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình và Tổng Thống Nga Vladimir Putin đã có cuộc gặp chính thức tại Bắc
Kinh ngày 4 Tháng Hai vừa qua nhân khai mạc Thế Vận Hội Mùa Đông 2022. Hai bên
đã có một tuyên bố chung cho thấy Nga nhượng bộ Trung Quốc khá nhiều như tuân
thủ nguyên tắc “Một Trung Quốc,” công nhận Đài Loan “là một phần lãnh thổ không
thể tách rời của Trung Quốc” và phản đối chiến lược của Mỹ thu hút các đồng
minh để bao vây Trung Quốc tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, đặc biệt phê
phán hoạt động của các diễn đàn an ninh như Bộ Tứ (QUAD – gồm Mỹ, Nhật, Ấn Độ
và Úc) và liên minh mới hình thành AUKUS gồm Anh, Mỹ, Úc.
Trong lúc đó Hoa Kỳ công bố bản đánh giá tổng
quan chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương cùng lúc với chuyến công du của Ngoại
Trưởng Antony Blinken tới Úc tham dự các hội nghị cấp cao của Đối Thoại Bộ Tứ
(QUAD) và Liên Minh AUKUS – những liên minh quân sự không chính thức mới hình
thành nhằm chống lại ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực.
Bản đánh giá chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương lần này tiếp theo và cụ thể hóa Hướng Dẫn Tạm Thời về Chiến Lược An
Ninh Quốc Gia mà Tòa Bạch Ốc công bố hồi đầu Tháng Ba năm ngoái và trong cả
hai văn kiện, Việt Nam đều
được nói tới như là một trong các đối tác dẫn đầu ở khu vực mà Mỹ sẽ tăng cường
mối quan hệ.
Nhiều điều khoản của chiến lược – bao gồm tăng
cường liên minh và hiện diện quốc phòng cũng như mở rộng các mối liên kết
thương mại, kinh tế và cơ sở hạ tầng khu vực mạnh mẽ hơn – được thiết kế nhằm củng
cố vững chắc vị trí của Hoa Kỳ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, đồng thời
cũng tăng cường sức mạnh cho cả khu vực chống lại ảnh hưởng kinh tế, sức mạnh
quân sự và sáng kiến Vành Đai Con Đường của Trung Quốc. Một thế trận “bao vây”
Trung Quốc được hình thành nếu chiến lược thành công trong việc xây dựng liên
minh, tăng cường quan hệ và củng cố năng lực tập thể của các nước láng giềng với
Hoa Lục, bao gồm Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, Mông Cổ, New Zealand, Singapore,
Đài Loan, Việt Nam cộng với các nước QUAD và AUKUS đã đề cập.
Lựa chọn nào cho
Việt Nam?
Việc Việt Nam được nêu tên như một đối tác dẫn
đầu trong chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Hoa Kỳ, cũng như những
chuyến viếng thăm cấp cao của Bộ Trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin, của Phó Tổng
Thống Kamala Harris tới Hà Nội đã cho thấy Washington đánh giá cao vai trò và vị
trí của Việt Nam trong việc định hình trật tự quốc tế dựa trên luật lệ trong một
“Châu Á-Thái Bình Dương tự do và rộng mở.”
Trong hoàn cảnh Nga đã ngả theo Trung Quốc, Việt
Nam khó có thể dựa vào Moscow để cân bằng ảnh hưởng của Trung Quốc như trước.
Tuy nhiên, dựa trên các mối quan hệ lịch sử của Việt Nam chúng tôi cho rằng Hà
Nội sẽ không đáp ứng lời kêu gọi “chiến lược” của Hoa Kỳ, không tham gia vào thế
trận bao vây Trung Quốc do Mỹ dẫn dắt. Khả năng lớn hơn là Việt Nam sẽ ngả theo
hướng Nga-Trung, sẽ tiếp tục nhân nhượng Trung Quốc vì lựa chọn đó phù hợp với
bản chất phản động của đảng Cộng Sản Việt Nam, bất chấp lợi ích của đất nước.
Điều đó có nghĩa là Hà Nội tiếp tục “đu dây,” tận dụng độ mở của thị trường
phương Tây để phát triển kinh tế nhưng càng ngày càng gắn bó với Nga-Trung về
chính trị và an ninh. Việc đưa tên Việt Nam vào chiến lược Ấn Độ Dương-Thái
Bình Dương của Hoa Kỳ có thể là một cử chỉ vội vàng, thể hiện mong muốn của
Washington hơn là dựa trên những sự đánh giá thực tế mối quan hệ giữa Việt Nam
và các cường quốc.
Một cơ hội lịch
sử nữa của Việt Nam có thể sẽ bị bỏ lỡ nhưng không thể khác, chừng nào đảng Cộng
Sản Việt Nam còn ngự trị ở Ba Đình. (Hiếu Chân) [qd]
No comments:
Post a Comment