Thursday, April 30, 2020

MỘT NGÀY CHO THUYỀN NHÂN (Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ)




Phạm Hồng Sơn chuyển ngữ
Dịch giả gửi tới Dân Luận
30/04/2020

Cuộc tấn công “thần tốc” của quân đội miền Bắc Việt Nam tiến vào Sài Gòn, và kết thúc vào ngày 30 tháng Tư năm 1975, đã kéo theo một thảm họa nhân đạo chưa từng xảy ra đối với nhân loại kể từ sau Thế Chiến II. Thảm họa này được thế giới gọi tên “Boat People” (thuyền nhân), cái tên đã trở thành lịch sử. Nhưng thảm họa thuyền nhân – bỏ nước ra đi - đã diễn ra nhiều ngày trước 30/04/1975 và vẫn còn tiếp diễn cho đến tận hôm nay, dù bằng những hình thức khác, với những bi kịch khác, như vụ tất cả 39 người Việt đã cùng chết ngạt trong một xe tải trên đường trốn vào Anh tháng 10/2019. Lịch sử thuyền nhân Việt Nam chắc chắn vẫn còn kéo dài chừng nào cái chính thể đã chiến thắng vào ngày 30/04/1975 còn tồn tại.

Cuốn sách L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong của Patrice Franceschi, ấn hành 08/1979, là một nỗ lực quí giá ghi lại đoạn đầu lịch sử thuyền nhân của người Việt Nam chúng ta. Đây là một lịch sử không đáng hãnh diện nhưng không thể và không nên chối bỏ hay quên lãng.

Nhân dịp 30-04, xin mời quí vị xem một vài thông tin có tính phóng sự, thống kê trong cuốn sách này về Thuyền Nhân.

Người dịch và tóm lược : Phạm Hồng Sơn, 25/04/2020

                                                    * * *

Chắc chắn ngày 15 tháng Sáu năm 1979 sẽ được các sử gia tương lai ghi nhận là một trong những mốc quan trọng trong lịch sử của những người tỵ nạn Việt Nam. Bởi vào ngày này toàn thế giới mới bắt đầu thực sự mở to đôi mắt để nhìn vào những thảm cảnh đã diễn ra trên các vùng biển gần bờ tại Biển Đông. Trong bốn năm, đã có hàng trăm ngàn người Việt bỏ nước ra đi trước sự thờ ơ ráo hoảnh của công luận quốc tế. Có mấy ai biết trước thời điểm này đã có khoảng 100 tới 200 000 người đã chết đuối giữa biển khơi trên đường trốn chạy khỏi Việt Nam?

Số người tỵ nạn cứ tiếp tục tăng dần lên, chen chúc trong các trại dựng tạm ở Thái Lan, Indonésie, Mã Lai, Philippines và ở nhiều nơi không mấy ai biết. Thi thoảng báo chí cũng có vài dòng cho biết lại xảy ra một thảm cảnh chìm thuyền nghiêm trọng hơn thảm cảnh mới xảy ra, một cuộc họp thượng đỉnh ở đâu đó hay một vài quyết định nào đó. Thậm chí một bài báo còn viết rõ “ở đó đang diễn ra một chuyện không bình thường”. Nhưng chẳng có mấy ai để ý đến những vụ chết chóc đó. Thảm cảnh người tỵ nạn Việt Nam bỏ nước ra đi đã chìm nghỉm trong biển cả thông tin hàng ngày của thế giới với muôn vàn sự kiện.

Mọi sự hẳn sẽ còn tiếp diễn như thế, với số người tỵ nạn chết đuối cứ chồng lên trên biển hay sự đau khổ của họ cứ kéo lê trong các trại tỵ nạn, nếu như không có sự xuất hiện của con tàu Đảo Ánh Sáng (Île de lumière) [i] và nhất là nếu không có ngày 15 tháng Sáu năm 1979 - đồng loạt các nước có trại tỵ nạn tạm cư tuyên bố sẽ đẩy tất cả hàng ngàn thuyền nhân ra biển khơi vì các quốc gia của họ đang khốn đốn. Lời đe dọa hóa ra lại biến thành tiếng kêu cứu đánh thức con người. Bỗng nhiên, người ta biết rằng 300 000 thuyền nhân đang sắp bị giết chết. Đây chẳng còn là vấn đề trục trặc trong việc giải quyết dòng người di cư nữa, mà là một cuộc thảm sát holocauste mới đang chuẩn bị thực hiện, công khai và ráo riết ngay trước mắt công luận.

Như để chứng minh không phải đe dọa suông, chính quyền Malaisie đã tăng cường các cuộc xua đuổi và cho đăng tải các con số hàng ngàn thuyền nhân đã bị xô ra ngoài bể. Chính quyền Thái Lan còn mạnh bạo hơn, họ đẩy người tỵ nạn Cambodge về lại xứ sở gốc dù biết rõ hậu quả sẽ là cái chết. Ở châu Âu, công luận hét lên: Ôi, Khủng khiếp!

Ngày 15 tháng Sáu năm 1979, lương tâm của phương Tây, cả chính quyền lẫn dân thường, đã thức tỉnh trước thảm họa thuyền nhân.

                                                           * * *

Tại trại Pulau Bidong (Malaisie), mười lăm ngày đầu của tháng Sáu vẫn diễn ra mọi sự buồn khổ giống như gần 300 ngày trước đó. Trong thời gian này đã có khoảng 30 thuyền tỵ nạn cập đảo đưa tổng số thuyền tỵ nạn tới đảo lên thành 450 và tổng số thuyền nhân trên đảo lên con số 42 000 người trên một diện tích 1,2 km­­2. Có lẽ đây là nơi có mật độ dân số cao nhất thế giới.

Trên tàu Đảo Ánh Sáng, công việc cứu chữa bệnh tật cho thuyền nhân vẫn tiếp tục. Tới nay, nhóm bác sỹ tình nguyện thứ ba người Pháp đã tới luân phiên thực hiện công việc nhân đạo này. Ngoài chuyên môn y tế, những người tình nguyện còn phải đối mặt với những vấn đề đã diễn ra từ trước: Giới chức Mã Lai ngày càng cay nghiệt với thuyền nhân. Những con thuyền tỵ nạn mới vẫn cố tiến gần tới Đảo Ánh Sáng trước sự cảnh giới, xua đuổi của các cảnh sát Mã Lai. Một lần, trong đêm, một con thuyền mỏng manh đã thoát được sự vây bắt của giới chức Mã Lai và cập sát vào Đảo Ánh Sáng. Người trên thuyền cho biết có nhiều thuyền nhân đang bị bệnh hoặc bị thương. Trước tình cảnh này, thuyền trưởng Herbelin đã quyết định đưa hết mọi người từ thuyền lên Đảo Ánh Sáng. Nhưng cảnh sát đã lao tới phản đối các bác sỹ. Viên chỉ huy ra lệnh phải trả lại ngay lập tức tất cả các thuyền nhân cho họ. Herbelin trả lời rằng anh là người có toàn quyền quyết định trên Đảo Ánh Sáng và không thể đẩy những thuyền nhân ốm yếu, thương tật này ra biển khơi, tất cả sẽ chết mất. Đứng trên Đảo Ánh Sáng, các dây thần kinh của cô y tá trẻ Guylaine Martin, người Pháp, chạy dần dật. Chứng kiến cảnh tượng ngang trái ngay từ đầu, Guylaine Martin, giận điên người, đã khạc và nhổ một bãi nước bọt vào thẳng toán cảnh sát. Để tránh rắc rối, thuyền trưởng Herbelin đã phải giải thích ngay rằng người phụ nữ này là một bệnh nhân bị viêm phế quản từ lâu và rất hay khạc nhổ. Toán cảnh sát dường như đã tin ngay vào lời giải thích. Nhưng để chắc chắn hơn, để buộc cảnh sát phải chấp nhận để 300 thuyền nhân ở lại Đảo Ánh Sáng, anh thợ máy cùng vài thủy thủ khác đã nhanh chóng dùng một chiếc rìu đục thủng một lỗ to vào lòng thuyền của thuyền nhân. Thần chết đã bị đuổi đi trong gang tấc!

Ngày 15 tháng Sáu đã tới: ông phó Thủ tướng Mã Lai M. Mahathir tuyên bố thẳng rằng 76 000 “di dân bất hợp pháp” đang tạm trú trên đất nước của ông sẽ bị đẩy ra ngoài vùng biển quốc tế và chính quyền sẽ ra luật mới để ngăn tất cả các thuyền nhân mới.

Trong những ngày tiếp theo, không một thuyền tỵ nạn nào cập đảo Pulau Bidong. Giới chức Mã Lai đã thực sự xua đuổi thuyền nhân. Họ còn tiến hành sửa chữa, đóng mới các tàu thuyền cần thiết để đưa thuyền nhân trong trại ra biển. Để tránh bạo động, họ tung tin để những người sắp chết tin rằng ở ngoài khơi các tàu Mỹ đang chờ họ.

Tại Pháp, ủy ban “Một con tàu cho Việt Nam” dưới sự điều hành của bác sỹ Bernard Kouchner đã cho tổ chức ngay một cuộc họp báo tại khách sạn Lutetia nhằm báo động công luận và yêu cầu chính phủ phải hành động ngay. Tham dự cuộc họp báo là đại diện của nhiều tổ chức thiện nguyện, tôn giáo, thế tục và người ta lại thấy các trí thức danh tiếng, nhiều người còn là đối thủ của nhau cùng xuất hiện: Glucksman, Sartre, Aron, Montand, Signoret, v.v. Bernard Kouchner thông báo sẽ thành lập một ủy ban châu Âu cho người tỵ nạn Đông Dương và yêu cầu, không cần chờ phải có hội nghị quốc tế, nước Pháp và một số nước khác phải lập ngay các trại tỵ nạn trung chuyển trên lãnh thổ của mình để chia sẻ gánh nặng với các nước Đông Nam Á. Ông đề nghị lập ngay một cầu hàng không. Bernard Kouchner nói rằng dù Pháp đã có hành động khá lớn, nhận hơn 50 000 thuyền nhân, nhưng với tình trạng khẩn cấp hiện nay nước Pháp vẫn cần phải làm nhiều hơn nữa.

Bernard Stasi, phó Chủ tịch Hạ viện, đảm bảo rằng ít nhất quota thuyền nhân của Pháp sẽ được chu tất và cho biết trong những ngày tới sẽ triệu tập một cuộc họp nghị viện về vấn đề nhân quyền.

Raymond Aron cho rằng những hành động tự nguyện của xã hội như Đảo Ánh Sáng là cần thiết nhưng chưa đủ, cần phải có thêm hành động từ chính phủ.

Jean-Paul Sartre thì khẳng định cần phải giúp đỡ nhiều hơn nữa cho các tỵ nạn-thuyền nhân cho dù những người này không phải luôn luôn đứng cùng chính kiến với ông và dù tỷ lệ thất nghiệp của Pháp vẫn cao.

Nhiều tổ chức, cá nhân đã đưa ra các sáng kiến, cam kết hành động, từ việc nhận một gia đình thuyền nhân tới ở nhà mình trong 06 tháng cho tới việc nhận các trẻ em đã mất cha mẹ làm con nuôi.

Cuộc họp báo kết thúc bằng một yêu cầu từ cử tọa gửi tới Tổng thống Giscard d’Estaing về việc mở ngay một trại tỵ nạn đầu tiên và lập một cầu hàng không để đưa thuyền nhân tới Pháp, bất kể họ là người Việt Nam, Cambodge hay Lào.

Begin, Thủ tướng Israël gửi thư cho Tổng thống Mỹ Carter nói về các hạn chế của cuộc họp báo và đề nghị tất cả các quốc gia nên chấp nhận ngay một số lượng thuyền nhân tương ứng với khả năng của mình.

Jean-Pau II, Giáo hoàng Vatican, phát ra lời kêu gọi “lương tâm nhân loại” và đề nghị mỗi con người hãy nhận lấy một phần trách nhiệm.

Ngày 20 tháng Sáu, Bernard Kouchner cùng bác sỹ gây mê Michel Bonnot lên đường bay tới Pulau Bidong mang theo một hàng hóa đặc biệt: 75 000 liều vaccin TAB chống thương hàn. Vài ngày sau 480 Kg các loại vaccin khác (bại liệt, bạch hầu) tiếp tục được gửi đến để bắt đầu chương trình tiêm chủng cho thuyền nhân.

Ngày 22 tháng Sáu, hai thuyền chở 900 thuyền nhân đã bị đẩy ra khơi xa bất chấp thỉnh cầu của Đại sứ Pháp Travert tại Mã Lai kêu gọi chính quyền Mã Lai đừng xua đuổi thuyền nhân. Ngày 24 tháng Sáu, lợi dụng một cơn bão biển, một chiếc thuyền dài 24 m, mang số hiệu 0020, chở 600 người đã lọt được vào đảo. Song phải nhờ có sự can thiệp của Bernard Kouchner và sự hiện diện của nhiều nhà báo, những thuyền nhân này mới không bị đẩy ra biển. Cũng ngày này tại Pháp, có chừng 2 000-3 000 người gốc Đông Dương biểu tình ở chân tháp Eiffel kêu gọi mở một hội nghị quốc tế về thuyền nhân.

François Mitterand kêu gọi các thị trưởng trong đảng xã hội của ông nhận 20 000 thuyền nhân trong 6 tháng hoặc 1 năm. Ông còn nói rõ rằng đảng của ông “sẽ hợp tác với mọi sáng kiến của Pháp, bất chấp mọi phản đối chính trị, để cứu giúp thuyền nhân.”

Jacques Chirac, Thị trưởng Paris, tuyên bố thành phố Paris đã quyết định thuê một tàu biển để đi đón 1 500 thuyền nhân; Hội đồng Paris đã thành lập một ủy ban cho thuyền nhân và sẽ gây một quĩ tín dụng trợ giúp các chi phí phát sinh.

Kênh truyền hình Antenne 2 tổ chức một Soirée de Solidarité nhằm kêu gọi các thị trưởng Pháp đón nhận các thuyền nhân tới sống ở các địa phương của họ. France Inter tung ra chiến dịch “S.O.S thuyền nhân Đông Dương chết đuối” để thu thập các đóng góp về vật chất (quần áo, nhu yếu phẩm, thuốc chữa bệnh) cho thuyền nhân. Giám mục Etchegarray và Alain Poher, chủ tịch Hiệp hội các Thị trưởng Pháp, cũng lên TV kêu gọi “nếu mỗi quận hạt của đất nước chúng ta sớm tiếp nhận ngay một gia đình thuyền nhân… đó sẽ là một đóng góp quan trọng để giúp bớt khổ đau cho những nạn nhân này.” Michel Debré đăng một bài viết trên La Croix kêu gọi mỗi thành phố hãy nhận một hoặc nhiều gia đình thuyền nhân. Tất cả các tổ chức từ thiện, từ Médecins Sans Frontières cho tới l’Armée du Salut, đều đưa ra các chương trình huy động tương tự. Sự đáp ứng, đóng góp vô cùng rộng lớn và tích cực.

Nhưng liệu nước Pháp có khả năng để thay thế Malaisie và chấp nhận rủi ro để tiếp nhận mãi mãi 50 000 hay 100 000 thuyền nhân nếu không nước nào hành động?

Đây không phải là câu trả lời của Tổng thống Giscard d’Estaing khi ông tiếp một phái đoàn của ủy ban “Một con tàu cho Việt Nam”. Tuy nhiên, ai cũng hiểu Tổng thống sẽ phải cân nhắc hiện trạng nội bộ của nước Pháp.

Phái đoàn tới gặp Tổng thống gồm Claudie Broyelle, Jean-Paul Sartre, André Glucksman, Raymond Aron, Jean-Claude Sénéchal và Me Miquel đã được ông đảm bảo sẽ nêu vấn đề thuyền nhân tại hội nghị thượng đỉnh G7 sắp tới tại Tokio. Tổng thống cũng khẳng định đã cho quyết định nhận ngay 5 000 thuyền nhân nữa.

Ở phía bên kia của bán cầu, chính quyền Nam Hàn cho biết sẽ cấp 200 000 đô-la Mỹ cho chính quyền Indonésie để được đến cứu giúp các thuyền nhân. Trong khi đó, Đại sứ của Việt Nam tại Malaisie đã tuyên bố rằng chính quyền Việt Nam sẵn sàng nhận trở lại các thuyền nhân nếu những người này biết “thừa nhận lỗi lầm”, và lần đầu tiên người ta thấy trong các trại tỵ nạn ở Hong Kong có cả các thuyền nhân là người Bắc Việt.

Về phía đảng cộng sản Pháp, đáp lại không khí khẩn trương, đoàn kết cứu giúp thuyền nhân, đảng này đã ra tuyên bố tố cáo đang có một chiến dịch chống cộng. Montdargent, một hạ nghị sỹ của đảng này cũng tuyên bố: “Chúng tôi tố cáo chính quyền đang lợi dụng thảm kịch này để che đậy các hậu quả trong chính sách điều hành đất nước vào lúc cần phải có các sửa đổi về hành chính và ra luật để tống xuất hàng ngàn dân nhập cư đang gây tổn hại cho sự phát triển của đất nước.” Pierre Juquin, người mới nắm chức trưởng bộ phận thông tin của đảng cộng sản, còn nói rõ thế này: “Các thành phố do thị trưởng cộng sản điều hành đang phải chịu đựng việc tiếp nhận các nhân công nhập cư sẽ không tiếp nhận các thuyền nhân Việt Nam để tránh gánh nặng cho dân chúng.”

Tại Thượng đỉnh G7 ở Tokio, Tổng thống Mỹ Carter cho biết Hoa Kỳ đã quyết định tăng gấp đôi quota hàng tháng lên 14 000 thuyền nhân. Cùng lúc tại Mỹ, một chiến dịch lớn được huy động nhằm thúc đẩy chính quyền liên bang phải hành động nhiều hơn nữa.

Khắp nơi, mọi người đều bàn luận về các giải pháp để giải quyết bi kịch thuyền nhân. Nhiều người đề xuất huy động tất cả các tàu thuyền thương mại hay hải quân trong vùng để cứu vớt những thuyền nhân đang lên đênh trên biển. Nhưng vấn đề chính vẫn còn nguyên: thuyền nhân sẽ đi đâu sau đó?

Chính quyền Việt Nam cũng tỏ ra nhượng bộ chút ít. Theo thỏa ước với Cao Ủy Tỵ Nạn, có khoảng 100 người đã được rời Việt Nam bằng máy bay sang Trung Cộng.

Ngày 28 tháng Sáu, ASEAN (Indonésie, Mailaisie, Philippines, Singapour, Thaïlande) nhóm họp tại Bali với mục tiêu thúc Hà Nội đồng ý lập một trung tâm trung chuyển thuyền nhân ngay tại lãnh thổ Việt Nam dưới sự điều hành của Cao Ủy Tỵ Nạn thuộc Liên Hợp Quốc. Hội nghị cũng kêu gọi cộng đồng quốc tế tác động Việt Nam để sớm chấm dứt cuộc di tản thuyền nhân. Michaël O’Kennedy, đại diện cho CEE (Cộng đồng kinh tế châu Âu) trong hội nghị này đã tuyên bố CEE có thể sẽ cắt viện trợ lương thực cho Việt Nam nếu chính quyền này không có hành động để chấm dứt cuộc chạy trốn; các viện trợ này sẽ chuyển cho những nước ASEAN tiếp nhận thuyền nhân. Thủ tướng Anh Thatcher đang có chuyến thăm tới Canberra cũng đồng ý với giải pháp này sau khi đã lên án sự “ác độc” của chính quyền Hà Nội.

Tại Genève, sau phiên họp của ủy ban điều hành của Cao Ủy Tỵ Nạn, các quốc gia Argentine, Áo, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Israël, Na Uy, Thụy Điển và Thụy Sỹ đã cam kết nhận nhiều hơn các thuyền nhân. Riêng Mỹ cho biết có khả năng nhận 20 000 thuyền nhân. Trong khi đó các nước mới mạnh lên nhờ dầu lửa vẫn tỏ ra điếc đặc trước các lời kêu gọi.

Nghị viện của Hội đồng châu Âu, nhóm họp tại Stockholm đã kêu gọi mọi thành viên của mình ủng hộ đề xuất về một hội nghị quốc tế.

Tại Hạ viện, Raymond Aron cho biết rằng các tàu của Pháp đã nhận được lệnh cứu vớt tất cả các thuyền nhân khi gặp trên biển. Thủ tướng Pháp cũng cho biết từ ngày 15/05/1975 đến 31/12/1978 các gói tín dụng trong ngân sách sức khỏe dành cho thuyền nhân đã tăng lên 440 triệu quan, không kể các chi phí giáo dục và y tế.

Oilivier Stirn, Quốc vụ khanh tại bộ Ngoại giao đã tới thị sát vùng Nam Thái Bình Dương và tới Kualumpur để đảm bảo việc triển khai các biện pháp hỗ trợ do chính phủ Pháp bảo trợ, nhưng ông chỉ nhận được lời đảm bảo của chính quyền Mailaisie sẽ không đẩy thuyền nhân ra biển khi nào hội nghị quốc tế được tổ chức.

Các thuyền nhân trên đảo ngày càng lo lắng trong ngóng đợi cho tới ngày 01/07/1979 khi Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, thông cáo một hội nghị quốc tế về thuyền nhân sẽ tổ chức tại Genève trong hai ngày 20 và 21. Từ nay, các thuyền nhân chỉ còn cần phải kiên nhẫn hơn và hy vọng rằng, giống như nhiều quốc gia, hội nghị sẽ không trở thành một phiên tòa kết án Hà Nội – điều sẽ làm cho tình trạng của họ trở nên bấp bênh hơn. Đối với ban quản lý trại, vận may còn mỉm cười hơn khi Simone Veil tới thăm trại và đã hứa sẽ đưa 450 trẻ mất gia đình tới Pháp, ngoài quota chính thức. Lúc này, có người mới chợt nhớ ra năm 1979 là năm được gọi: “Năm của Trẻ Thơ”.

Hội nghị tại Genève đã qui tụ sự hiện diện của 65 quốc gia, bàn thảo trong 48 giờ về thảm họa thuyền nhân. Kết thúc Hội nghị, Kurt Waldheim, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc cho biết: “Mục tiêu của chúng tôi là nhằm giải quyết hoàn toàn thảm trạng đang diễn ra và chúng tôi đã gần như đạt được tất cả.” Số lượng thuyền nhân dự kiến được tái định cư đã chuyển từ 125 000 lên 260 000. Cao Ủy Tỵ Nạn có một ngân sách bổ sung 190 triệu đô-la Mỹ, cùng với lời hứa của Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Sonoda sẽ chịu 50% tổng chi phí cần thiết cho các hoạt động cứu trợ thuyền nhân tại Đông Nam Á.

Philippines đề xuất thiết lập một trung tâm tạm cư trên lãnh thổ của họ giống ở đảo Galand (Indonésie). Trung Cộng sẽ nhận 10 000 thuyền nhân “với điều kiện những người này thực sự muốn làm lại cuộc đời mới ở Trung Cộng”. Hoa Kỳ thông báo các chiến hạm Hoa Kỳ sẽ tuần tiễu quanh Việt Nam để tìm kiếm, cứu vớt thuyền nhân. Tuy nhiên, đại diện của Hoa Kỳ tại Hội nghị, phó Tổng thống Mondale đòi hỏi phải có một thời hạn cho việc chấm dứt thảm trạng thuyền nhân, không để Việt Nam tiếp tục “tống xuất” công dân của họ nữa.

Con tàu Đảo Ánh Sáng, cái tên như một định mệnh, đã chấm dứt sứ mệnh tại Pulau Bidong. Nhưng Đảo Ánh Sáng vẫn tiếp tục sứ mệnh nhân đạo ở những nơi khác. Trên đường trở lại Singapore, Đảo Ánh Sáng đã cố tìm và cứu vớt được nhiều thuyền nhân.
Đối với trại Pulau Bidong, một trang đời mới đã mở ra phía trước.

Bảng thống kê số thuyền nhân ra đi định cư tại nước thứ ba từ Pulau Bidong trong L’exode vietnamien – les réfugiés de Pulau Bidong

[i] Về Đảo Ánh Sáng, xin xem: Đảo Chết gặp Đảo Ánh Sáng.
[*] Nhan đề này là của người dịch.






No comments: