Nguyễn Khắc Mai
05/05/2019
Mấy ngày nay,
quanh ngày 30 tháng Tư, buổi sáng, ngồi trên hiên gác 3, lại nghe tiếng
con chim phi phi. Nó cứ kêu từ chập sáng cho đến 9, 10 giờ thì bay đi
nơi khác. Không thấy kêu nữa. Cứ một lúc nó lại kêu: phi phi, phi phi,
phi phi… Tôi đặt tên cho nó như cái âm mà tôi nghe ra. Con chim này thuở
nhỏ ở Huế, mẹ tôi gọi là con chim vịt. Bà kể câu chuyện y như người
miệt vườn Nam bộ kể…
Ngày xưa có
người đàn ông được vợ đưa cho ít tiền đi làm ăn. Ông đi đến một khu
ruộng thấy một bầy vịt đang lặn hụp mò cua cá. Mấy người dân ở đó
bảo là vịt của họ, nếu ông mua họ sẽ bán cho cả bầy. Ông đồng ý
mua, rồi cầm cành tre có túm lá ở đầu ngọn, lội xuống ruộng định
đuổi vịt về. Chẳng ngờ, đó là đàn vịt trời. Một con bay lên rồi cả
đàn bay theo. Ông chạy băng qua những thửa ruộng, miệng không ngớt gọi
vịt. Vít vít vịt vịt vịt… Ông mệt đứt hơi, ngã lăn ra ruộng không
ngớt kêu: vít vít vịt vịt vịt. Ông chết hóa thành con chim bay khắp
xứ để gọi về cái giấc mơ đang vuột khỏi tầm tay. Người nông dân đặt
tên là con chim vịt.
Nhưng thưở nhỏ
học cours preparatoire (lớp dự bị, còn gọi lớp tư, theo hệ thống lớp
năm, đồng ấu, enfantin, lớp mà cụ Nguyễn Công Hoan gọi là lớp đầu
đầy trốc, rất tanh). Rồi đến lớp Tư, Dự bị, lên lớp Ba rồi lớp Nhì,
lớp Nhất, hết bậc tiểu học.) Trường tiểu học Đông Sơn Thanh hóa,
cạnh chùa Đại Đồng, chung quanh rất nhiều ao chuôm. Thỉnh thoảng vào
đầu mùa hạ, lại nghe tiếng chim phi phi kêu. Một hôm thầy giáo bảo,
các con có muốn nghe sự tích con chim không. Rồi thầy kể.
Ngày xưa, bên châu
Âu, có chiến tranh, (bấy giờ vào năm 1941, đang có Đại chiến thế giới
II). Có một gia đình nọ cả cha, mẹ, anh chị em đều chết hết. Chỉ
còn lại cậu con út. Cậu đi qua các chiến trường tìm cha mẹ và gào
khóc thảm thiết: “Perre, mere, frere, soeur…tous sont perdus”. Nghĩa là:
Cha, mẹ, anh, chị đều mất cả rồi. Mấy chữ tiếng Pháp nói nhanh nghe
tựa như tiếng con chim. Cậu không ngớt kêu thương thảm thiết. Cho đến
khi mệt lã chết đi, cậu hóa thành con chim bay khắp vùng tìm cha mẹ.
Trong đầu óc non trẻ của tôi lờ mờ nhận ra rằng thầy đang dạy mình
những chữ (cha, mẹ, anh, chị…), mà còn cho mình nghĩa của câu chuyện
thương tâm và nỗi đau mất mát trong chiến tranh.
Tiếng kêu của con
“phi phi” vào dịp 30 tháng tư năm nay, khiến tôi nhớ lại câu chuyện của
Thầy kể cho nghe gần 80 năm trước. Con chim vịt là tư duy của một nền
kinh tế nông nghiệp tự nhiên. Còn con chim bay khắp nơi để kêu lên tiếng
thảm thiết sự mất mát trong chiến tranh lại đến từ một khung trời
văn hóa khác. Tôi không còn nghe ra mấy tiếng phi phi nữa, mà mường
tượng như nghe nó đang kêu thê thảm nơi Ô Đồng Lầm xưa của kinh thành
Thăng Long, nay là Hà Nội. Cái bi kịch là Hà nội đang tự hào như là thành
phố của “hòa bình”. Cớ sao tôi cứ nghe ra tiếng chim như vẫn đang kêu
gọi thê thảm nỗi đau mất mát chiến tranh: Pere, mere, frere, soeur… tous
sont perdus! (Cha, mẹ, anh, chị, chết cả rồi.)
Trong tư duy cổ
truyền của Việt nam, chiến tranh là tàn ác, mất mát đau thương.
Nguyễn Trãi nói trong Quân Trung Từ Mệnh: “Kể ra binh đao (chiến tranh)
là thứ hung bạo, đánh nhau là việc nguy hiểm… Cái họa, của việc
dùng binh đến cùng, cậy vào vũ lực là điều thánh nhân vẫn răn
ngừa…”. Tuy nhiên trong lịch sử Việt Nam, nhiều cuộc chiến tranh đã
xảy ra, phần lớn là những cuộc chiến chống quân xâm lược do các đế
chế Tàu, từ Ân, Tần, Hán, Đường Tống, Nguyên, Minh, Thanh và Tàu Cộng!
Vì thế lịch sử Việt Nam còn là lịch sử của chiến tranh giữ nước.
Giá như Việt Nam không chiến thắng được trong những cuộc chiến ấy,
cầm chắc đã là môt tỉnh của Tàu rồi.
Còn cuộc chiến
kéo dài ngót một phần tư cuối thế kỷ XX vừa qua thì sao? Người bạn
của tôi, anh Nguyễn Trung đã thống kê nhiều tính chất của nó. Có
chiến tranh chống xâm lược và can thiệp của ngoại bang, có chiến tranh
ý thức hệ, có chiến tranh ủy nhiệm, có cả nội chiến. Riêng tôi, tôi
nghĩ đến hai điều.
Thứ nhất, nó là
cuộc chiến huynh đệ tương tàn bi thảm nhất trong lịch sử Viêt Nam.
Hàng triệu người Việt ở cả hai miền đã chết oan uổng, bị tàn tật
suốt đời, hàng vạn gia đình tan nát. Những con chim phi phi đang bay
khắp mọi miền, có phải là oan hồn của những em bé đã mất cả cha
mẹ, anh, chị, em! Bi thảm hơn nữa là đã có ngót cả triệu người chết
trong các trại cải tạo và chết trên biển cả.
Tôi vừa nhận được
thư của người bạn cũ sau 60 năm không biết tin nhau. Nhưng trong niềm vui
gặp lại nhau, tôi lại ngậm ngùi đau xót. Anh ấy kể, bây giờ sống yên
ổn ở Mỹ, nhưng không thể nào quên được cảnh con gái bị hải tặc hãm
hiếp rồi quăng xác xuống biển. Nào chỉ riêng anh bạn của tôi. Đó là
thảm kịch thế kỷ của dân tộc.
Một cuộc chiến
quá khốc liệt, quá đau buồn, quá thê thảm, quá mất mát. Nhưng, điều
thê thảm nhất là người ta đã không thể kiến tạo cho Dân, Nước một
cuộc sống nên hồn, bình yên và tử tế, sau chiến tranh. Bốn mươi năm
đã trôi qua, một cuộc nhận thức có văn hóa, có lý, có tình để hòa
giải, để hòa hợp, để thống nhất Dân Tộc, an ủi người đã ngã xuống
bất cứ bên nào, xoa dịu vết thương, chưa diễn ra. Rồi chung tay xây đắp
một tương lai Tự Do và Hạnh Phúc, mà thật sự đã có nguồn lực trong
tầm tay!
Bi kịch của cuộc
chiến này là kẻ chiến thắng đã đem một ý thức ngoại lai, hổ lốn và
giữ cho mình một tâm thức trung cổ “được làm vua”, mà lịch sử nhân
loại đã vượt lên. Kẻ chiến thắng đã áp vào Việt Nam những bài học,
những mô thức đậm nét trung cổ, lạc hậu của Nga Xô, Trung Cộng, duy
trì quyền lực theo một phương thức rất trung cổ: “Cỡi ngựa giành lấy
nước”. Hoặc “chính quyền ở đầu ngọn súng”, như Mao xếnh xáng quan
niệm. Mà nước ở đây lại là môt quan niệm không khác gì chủ nghĩa
phong kiến đã trở nên phản động lỗi thời. Họ cũng quan niệm đồng
nhất nước với đảng. Thế thì có khác gì các nhà vua thuở trước bên
Tàu.
Điều thứ hai mà
tôi cũng thường nghĩ đến khi chiêm nghiệm những bài học lịch sử cổ
đại cũng như hiện đại. Đó là khái niệm “phản lịch sử”. Tôi không
dùng khái niệm này với nghĩa thông thường, là phản tiến hóa hay
phản tiến bộ. Khi quan sát lịch sử Việt Nam và thế giới, tôi nghiệm
ra, bên cạnh cái lịch sử hiện thực, cái đã xảy ra, tôi thấy có “mặt
trái” của nó. Cái mặt trái đó, thường là những ý tưởng, có khi là
mầm mống manh nha của những hành động trái chiều với lịch sử đang
xảy ra. Đáng tiếc, do những nguyên nhân lịch sử, xã hội nào đó, mà
khuynh hướng ấy đã không thể trở thành hiện thực.
Tôi vận dụng ý
niệm về phản hạt, phản vật chất để nghĩ về “phản lich sử”. Ví như
trong Quân Trung Từ Mệnh, Nguyễn Trãi đã dự báo, cuộc chiến tranh xâm
lược mà nhà Minh áp đặt lên nước ta sẽ hao tiền, tốn của, thiệt hại
sinh linh, nhất định sẽ thất bại, vô ích. Các tướng tá nhà Minh từ
bỏ cuộc chiến ấy là hơn. Nhưng tại sao cái “phản lịch sử”, là hãy
từ bỏ cuộc chiến vô nghĩa ấy đi, đã không thể xảy ra.
Cuộc chiến tranh
bi thảm kết thúc vào ngày 30-4 cũng thế. Xã hội Việt Nam, trong thế kỷ
XX từng có tư tưởng giành Độc lập và kiến thiết Quốc gia bằng phương
thức hòa bình, phi bạo lực, “bạo lực tắc tử”. Đầu thế kỷ XX, Đông
Kinh Nghĩa Thục từng đề xướng một chiến lược Quốc gia trong “Văn Minh
Tân Học Sách”. Giành và duy trì đôc lập bằng phương thức hòa bình,
độc lập dân tộc đi đôi với phát triển dân quyền, xây dựng nền kinh tế
có công nông thương tín hiện đại, lấy kinh tế tư nhân là chủ đạo. “Nếu
người giàu có bỏ tiền ra để làm công nhiệp, thì quốc dân phải lấy
đó làm điều biết ơn, cớ sao lại đem lòng kỳ thị”. (VMTHS).
Phương thức lấy
kinh tế tư nhân làm chủ đạo, ra đời hơn một thế kỷ trước ở VN, nó là
“phản lịch sử” của sự kỳ thị kinh tế tư nhân, mà đến hôm nay vẫn
còn bị ám ảnh chưa bức phá ra được. Vào thời hiện đai, tâm thức
Việt vẫn ám ảnh nhiều, vẫn còn rơi rớt tư duy Trung Cổ. Nhục nước
phải rửa bằng máu, giành nước trên yên ngựa, chính quyền ở đầu ngọn
súng… Quốc ca vẫn còn âm điệu trung cổ sắt máu: “Thề phanh thây uống
máu quân thù”, rồi thay bằng, “đường vinh quang xây xác quân thù”.
Có một chuyện
vui, gần đây, một tiến sĩ nữ đã về hưu nói, lâu nay em vẫn nghĩ, “xây
xác” nghĩa là chỉ làm chúng bị thương thôi. Ai ngờ là dã man đến
thế. Văn hóa Việt Nam thể hiện trong chính trị, kinh tế, nghệ thuật,
xã hội… chưa tạo ra một tâm thức mới, một nhân cách mới của quốc
dân! Cứ nghĩ về một nhân cách Nhật Bản hôm nay mà thêm hổ thẹn.
Sau ngày 30-4, cớ
sao cái “phản lich sử” ấy đã không xảy ra: Độc lập, Thống nhất đi đôi
với Dân chủ Dân quyền, kinh tế tư nhân phát triển. Văn hóa khoa học
nghệ thuật, như chí sĩ yêu nước Nguyễn Hữu Cầu, môt yếu nhân của Đông
Kinh Nghĩa Thục, từng nói vào cuối năm 1945: “Nền độc lập này mà
Quốc dân vừa giành lại được, chúng ta phải bảo vệ bằng những hoạt
động tinh thần. Các Dân tôc chỉ trường tồn bằng khoa học và nghệ
thuật”. Khoa học, nghệ thuật, giáo dục, dân trí, quan trí, vốn xã
hội… vẫn còn rất ngổn ngang.
Những điều rất
đạo lý, rất hợp lý, tiến bộ và hợp trào lưu chung của nhân loại,
cũng đã manh nha xuất hiện ở ngay trong lòng xã hội ta… Cớ sao từ
30-4 ngày ấy, đã cách nay đến một nửa thế kỷ, nhiều điều thiên hạ
đã làm được, mà chúng ta vẫn còn loay hoay gỡ rối.
Gần đây trong
Diễn đàn Kinh tế tư nhân, tôi vẫn nghe những đại gia kinh tế xin bộ
nọ, bộ kia quan tâm lập quy hoạch cho ngành này ngành nọ phát triển.
Tại sao các nhà kinh tế không tự mình hình thành quy hoạch, rồi
chính quyền phải theo đó mà có chính sách luật lệ để thúc đẩy
thực hiện. Phải chăng cái não trạng kinh tế chỉ huy, kế hoạch hóa
vẫn còn nặng cân. Cứ nghĩ, theo một nghiên cứu của Havard, năm 1960,
Việt Nam và Nam Hàn ở cùng một trình độ. Nay sau nửa thế kỷ, họ
tiêu phí cả tổng đầu tư, cả thời gian đều ít hơn ta. Thế mà, họ đã
là một nước công nghiệp có kinh tế, khoa học và xã hội hiện đại,
thu nhập quốc dân so với ta gấp hàng chục lần. Bi kịch là ta bị “Ma
đưa lối, quỷ dẫn đường. Lại lần theo lối đoạn trường mà đi!”
Gần đây nhân đọc
tiểu thuyết “Những Mãnh Rồng” của Nguyễn Minh Tường, tôi vẫn thường ao
ước, giá như lặp lại những mãnh rồng còn trong nước và những mãnh
có ở khắp các châu lục, sao ta lại không thể hình thành một xã hội
Rồng – Tiên hiện đại, nhân văn, hài hòa, hạnh phúc.
Còn nhớ thơ
Đường có bài “Đánh đuổi con chim oanh đi. Đừng cho nó véo von trên
cành. Làm cho giấc mơ của ta tan vỡ. Khiến ta không thể gặp chàng ở
Liêu tây”. Tôi không muốn đuổi con chim phi phi, mà cứ để cho nó kêu tha
thiết trong hồn mình.
Ô Đồng Lầm, Hà
Nội nhân dịp 30-4 2019
____
Vài hình ảnh đau thương trong ngày 30/4/1975:
No comments:
Post a Comment