Vào
ngày 18/1/2018, Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố sách trắng về nhân quyền lần thứ
2 mang tên "thúc đẩy và bảo vệ quyền con người ở Việt Nam". Tôi rất lấy
làm hoan nghênh việc Bộ Ngoại giao quan tâm đến vấn đề nhân quyền, và dày công
biên soạn một quyển sách chứa đựng nhiều thông tin hữu ích, mô tả các chính
sách, hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế về nhân quyền. Tuy nhiên theo dõi
Sách trắng dài 87 trang, tôi nhận thấy Sách chỉ tập trung nêu lên các thành tựu
đạt được, mà chưa phản ánh đầy đủ về các hạn chế, khiếm khuyết trong việc đảm bảo
thực hiện quyền con người tại Việt Nam. Hơn hết, Sách trắng không tiến hành
phân tích, đối chiếu các quy định pháp luật Việt Nam về quyền con người có phù
hợp tiêu chuẩn luật nhân quyền quốc tế hay không.
Trong
tinh thần của một công dân quan tâm đến việc thụ hưởng quyền con người của người
dân Việt Nam, với sự trải nghiệm từ thực tế, sự quan sát và vốn kiến thức trong
lĩnh vực nhân quyền, tôi xin mạn phép phản hồi Sách trắng nhân quyền vừa được Bộ
Ngoại giao công bố. Trên tinh thần ấy, bài phản hồi là các phản ánh và bổ sung
cho Sách trắng về các khía cạnh tiêu cực đang hiện hữu, về tình trạng pháp luật
nhân quyền quy định một đằng nhưng thực thi một nẻo trên thực tế, và sự không
tương thích của pháp luật Việt Nam so với tiêu chuẩn pháp luật quốc tế về nhân
quyền.
Bài
phản hồi này được thiết lập theo cấu trúc mục lục của Sách trắng, với các nội
dung tương ứng, nhưng tập trung phân tích ở các lĩnh vực trọng tâm làm hạn chế
việc thụ hưởng quyền con người ở Việt Nam. Bài phản hồi có thể gây ra sự không
đồng tình của những người biên soạn Sách trắng, hoặc đi ngược lại quan điểm của
Bộ Ngoại giao, nhưng điều đó là không quan trọng đối với tác giả, vì trên phương
diện học thuật nghiên cứu và quyền con người, việc phản ánh các luồng quan điểm
và nhận định khác nhau là điều không thể thiếu, hầu mong đóng góp vào kiến thức
chung về nhân quyền, qua đó tăng cường sự hiểu biết về nhân quyền để thúc đẩy sự
cải cách về pháp luật và hành động trên thực tế nhằm đảm bảo việc thụ hưởng đầy
đủ về quyền con người ở Việt Nam.
Tôi là Phạm Lê Vương Các, một người hoạt
động và nghiên cứu luật nhân quyền độc lập tại Sài Gòn, nêu lên nhận định phản
hồi của mình như sau:
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
VỀ NHÂN QUYỀN
Sách
trắng đã không nêu lên quan điểm của đảng cầm quyền về các vấn đề nhân quyền,
cũng như không dành một dòng nào nói đến đến vai trò của Đảng tác động ra sao đến
hiện trạng nhân quyền Việt Nam, mà chỉ đề cập đến quan điểm và chính sách của
nhà nước. Dù vô tình hay hữu ý, việc bỏ sót chủ thể là đảng cầm quyền đối với vấn
đề quyền con người là phớt lờ đi cái gốc, cái bản chất đã làm ra sự tiến bộ hay
thoái lùi trong việc thụ hưởng quyền con người tại Việt Nam hiện nay.
Thật
sự, chính sách của nhà nước và sự thi hành của cơ quan thẩm quyền sau đó đối với
vấn đề nhân quyền ra sao lại hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm và chủ trương của
Đảng. Điều này không chỉ phản ánh đúng với thực tế mà còn được đảm bảo thực hiện
bằng Điều 4 Hiến pháp quy định Đảng CS VN lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Dù
đảng cầm quyền có các quan điểm, chủ trương và chính sách khác nhau qua từng
giai đoạn của đất nước, nhưng cho tới hôm nay, khi thế giới đang thảo luận sôi
nổi và vận động thúc đẩy "súc quyền", tức đảm bảo cho quyền của súc vật,
thì đảng cầm quyền vẫn tiếp cận vấn đề quyền con người trong tâm lý dè dặt, với
một trạng thái đầy nghi hoặc, và đôi khi thù địch với việc mở rộng quyền con
người tại Việt Nam.
Gần
đây nhất, chỉ một tháng trước khi Sách trắng được công bố, Đảng đã ban hành Quy
định 102-QĐ/TW về kỷ luật đảng viên, nêu rõ: "Đảng viên sẽ bị kỷ luật bằng
hình thức khai trừ nếu đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập",
"xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng". Rõ ràng, với quy định
này cho thấy, quan điểm và chủ trương của Đảng vẫn xem các thiết chế nền tảng
trong việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người như "tam quyền phân lập",
"xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng" là không cùng chung
dòng chảy tư tưởng với Đảng.
Làm
sao có thể đảm bảo được quyền xét xử công bằng khi không có "tam quyền
phân lập", tức tòa án không được độc lập khi xét xử? Dù rằng luật có quy định
thẩm phán khi xét xử được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng trên thực tế
làm sao để một thẩm phán là một đảng viên khi xét xử dám khước từ sự chỉ đạo của
đảng ủy cấp trên và dám chối bỏ điều 4 Hiến pháp về sự lãnh đạo của Đảng? Làm
sao có thể giám sát, thúc đẩy quyền con người được hiệu quả khi xã hội dân sự
là tiếng nói đại diện cho các cộng động, là tuyến đầu trong hoạt động đấu tranh
bảo vệ nhân quyền không có không gian để sinh hoạt và phát triển? Làm sao đảm bảo
được quyền tự do tư tưởng, tự do biểu đạt, tự do lập hội khi tiêu diệt đi tính
đa nguyên của xã hội, và đa đảng trong chính trị?
Tiêu
diệt các thiết chế nền tảng của một xã hội dân chủ nhân quyền như vậy, là đồng
nghĩa với việc tiêu diệt luôn cả hệ thống vận hành phát huy nhân quyền, vì các
quyền tự do là không thể tách rời, luôn có mối liên đới chặt chẽ với nhau.
Từ
quan điểm và chủ trương của Trung ương Đảng như vậy, thì chính sách của nhà nước
đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự thi hành quyền lực của cán bộ công chức nhà
nước đều là đảng viên cũng không thể làm khác. Thực tế đó đã dẫn đến tình trạng,
từ Chính phủ cho đến chính quyền địa phương vẫn còn các hành động tiêu cực
thông qua việc liên tục bắt giam và kết án những tiếng nói đòi hỏi dân chủ và
nhân quyền, tấn công bạo lực vào những người bảo vệ nhân quyền, kiểm soát chặt
chẽ không gian xã hội dân sự tham gia vào quá trình thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền.
Các hành động trấn áp này được đảm bảo thực thi bằng một hệ thống pháp luật quốc
gia không thật sự phù hợp với tiêu chuẩn luật nhân quyền quốc tế, đặc biệt là
các quy định liên quan đến an ninh quốc gia, dù Việt Nam đã có sự tích cực gia
nhập các Công ước nhân quyền. Điều này dẫn đến việc thụ hưởng các quyền con người
tại Việt Nam trên thực tế luôn bị giới hạn, việc thực hành nhân quyền trong trạng
thái bị đe dọa, quấy rối và đầy mối hiểm nguy.
II.
CÁC HẠN CHẾ CỦA VIỆT NAM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY VÀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN DÂN SỰ VÀ
CHÍNH TRỊ
Khi
theo dõi kết quả Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) về nhân quyền ở chu kỳ II năm
2014 của Việt Nam, với việc từ chối 45 khuyến nghị, ta thấy nội dung các khuyến
nghị bị từ chối này đều rơi vào nhóm quyền Dân sự và Chính trị. Một sự kiện
khác liên quan đến nhóm quyền này, khi vào năm 2002 Việt Nam nộp báo cáo thực
thi Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) lần thứ 2 nhưng
không đạt yêu cầu, bị Ủy ban Nhân quyền yêu cầu báo cáo bổ sung lại vào năm 2004.
Nhưng suốt 14 năm qua Việt Nam vẫn chưa thực hiện yêu cầu này của Ủy ban, và tiếp
hành báo cáo định kỳ tiếp theo về việc thực hiện công ước ICCPR, mà theo quy định
là 4 năm phải báo cáo một lần. Điều đó cho thấy Việt Nam rất "chật vật"
khi phải đối diện với các quyền Dân sự và Chính trị, vì các hạn chế trong việc
thụ hưởng nhóm quyền này tại Việt Nam là khá rõ ràng.
1. Quyền bình đẳng
trước pháp luật, không được phân biệt đối xử
Việt
Nam có quy định chung chung là mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nhưng
khi áp dụng trên thực tế thì có một sự phân biệt khá rõ ràng giữa thường dân và
cán bộ khi vi phạm pháp luật. Chỉ thị 15 cấm công an trinh sát đảng viên. Trong
một số trường hợp, khi cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật thì các cơ quan tư
pháp vẫn chưa thể tiến hành điều tra và khởi tố nếu chưa có quyết định xử lý của
Đảng bộ. Việc xử lý các cán bộ cấp cao do Ban bí thư và Bộ chính trị của Đảng Cộng
Sản VN xem xét kỷ luật, các cơ quan tư pháp dường như chỉ đóng vai trò thi hành
các quyết định kỷ luật của Ủy ban kiểm tra Trung ương Đảng. Điều này đã gây nên
sự bất bình đẳng trong việc áp dụng pháp luật, làm suy yếu vai trò bảo vệ pháp
luật của thẩm phán và công tố.
Quy
trình xét duyệt cho tại ngoại hầu tra thường không được minh bạch và thiếu rõ
ràng. Điều này mang đến cơ hội cho các đối tượng là cán bộ nhà nước, có các mối
quan hệ trong hệ thống trước đó, dễ dàng tiếp cận, hưởng lợi quy chế tại ngoại
nhiều hơn thường dân khi phạm tội. Việc phân biệt đối xử giữa cán bộ nhà nước
và thường dân khi phạm tội còn xảy ra trong quá trình truy tố và chấp hành án.
Nguyên
tắc suy đoán vô tội không được đảm bảo. Trong quá trình điều tra, nếu nghi can
không nhận tội sẽ bị quy vào việc không thành khẩn khai báo, ngoan cố, quanh co
chối tội. Đây sẽ là một tình tiết tăng nặng khi lượng hình ở tòa án. Hệ thống
truyền thông nhà nước, đặc biệt là báo chí của ngành Công an vẫn còn lối đưa
tin theo hướng thay mặt cho tòa án kết án các nghi can khi bị bắt giữ.
Vị
thế luật sư ngày càng suy yếu khi Bộ luật Hình sự 2015 vừa có hiệu lực quy định
luật sư sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu không tố giác thân chủ phạm tội
an ninh quốc gia hoặc các tội đặc biệt nghiêm trọng. Luật sư trong quá trình
tham gia tố tụng phải viết đơn “xin” các cơ quan tố tụng để gặp mặt thân chủ,
phải làm đơn xin bào chữa. Đơn của luật sư có được chấp nhận hay không tùy thuộc
vào ý chí của những người tiến hành tố tụng. Hầu hết các luật sư đều bị cơ quan
tố tụng từ chối cho tiếp xúc thân chủ với lý do "vụ án đang trong giai đoạn
điều tra", hoặc nhằm "đảm bảo bí mật công tác điều tra". Tình trạng
luật sư bị đuổi khỏi phiên tòa chính trị vì các lời bào chữa vẫn còn diễn ra.
Luật sư khi bước vào phiên xử bị khám xét kiểm tra an ninh như ở sân bay, luật
sư bị tước bỏ điện thoại và máy tính, và không được phép ghi âm, ghi hình trong
phiên xử.
Quyền
được theo dõi phiên tòa bị hạn chế. Các phiên xử tranh chấp dân sự và thuần túy
hình sự được duy trì ở mức độ cởi mở cho tất cả mọi người vào theo dõi phiên xử.
Nhưng tất cả các phiên xử những người bất đồng chính kiến, những nhà hoạt động
nhân quyền đều bị ngăn cấm. Không một ai ngoại trừ các nhân viên an ninh, báo
chí nhà nước và một số ít viên chức ngoại giao được vào trong phòng xử. Tình trạng
nghiêm trọng đến mức người thân của các bị cáo cũng không được phép tham dự. Những
người đến ủng hộ, theo dõi các phiên xử thường bị đuổi đi hoặc bắt giữ ngay tại
trước cổng tòa án. Nhiều nhà hoạt động đã bị lực lượng an ninh canh giữ không
cho ra khỏi nhà vào các ngày diễn ra phiên xử.
2. Quyền sống, quyền
được tôn trọng nhân phẩm, và bất khả xâm phạm về thân thể
Bộ
luật Hình sự 2015 đã giảm xuống còn 15 tội có thể chịu án tử hình. Mặc dù Việt
Nam có những nỗ lực trong khuôn khổ luật pháp về việc giảm phạm vi hình phạt tử
hình, nhưng vẫn duy trì đến 15 tội danh tử hình là không phù hợp với khoản 2 điều
6 của Công ước quốc tế về các quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR). Công ước này
quy định “ở những quốc gia mà hình phạt tử hình chưa được xoá bỏ thì chỉ được
phép áp dụng án tử hình đối với những tội nghiêm trọng nhất”. Theo giải thích của
Ủy ban giám sát ICCPR, tội phạm được coi là “nghiêm trọng nhất” chỉ có tội “giết
người”. Các tội liên quan tới kinh tế, ma túy hay an ninh quốc gia không được
xem là những tội phạm nghiêm trọng nhất để chịu án tử hình. Đáng lo ngại khi những
hành vi liên quan đến an ninh quốc gia như “hoạt động lật đổ chế độ” có thể chịu
án tử hình là rất mơ hồ và không phù hợp với đoạn 2, Điều 6 của Công ước.
Theo
số liệu thống kê của Bộ Công an công bố, số người bị kết án tử hình từ ngày
30/6/2011 đến 30/6/2016 là 1.134 người, thuộc nhóm 3 nước có số lượng tuyên án
tử hình cao nhất thế giới. Một phần của nguyên nhân tuyên án tử hình cao không
thể bỏ qua giai đoạn điều tra, khi nghi can không được tiếp cận với luật sư
ngay từ khi bị bắt giam, làm gia tăng nguy cơ bị ép cung, tra tấn dẫn đến oan
sai khi tuyên phạt tử hình. Những bản án tử hình nhưng sau đó phát hiện có nhiều
vi phạm tố tụng, có sự bức cung, nhục hình, tra tấn trong quá trình điều tra
cũng không được xem xét thỏa đáng, tiêu biểu như các trường hợp Hàn Đức Long, Hồ
Duy Hải, hay Nguyễn Văn Chưởng. Riêng trường hợp Hàn Đức Long từng bị tuyên án
tử hình nhưng được trả tự do vào năm 2016 sau 11 năm bị giam cầm nhờ người khác
đã "thú nhận phạm tội", cho thấy Việt Nam không có được cơ chế truy
đòi khắc phục pháp lý liên quan tới quyền sống.
Quyền
bất khả xâm phạm thân thể vẫn bị đặt trong tình trạng yếu hơn so với mục đích
phòng chống tội phạm. Nhiều nghi can phạm tội bị trừng phạt bằng vũ lực một
cách công nhiên được phát tán rộng rãi trên mạng xã hội, mà các hành vi gây
thương thích, tấn công trả đũa đối với nghi can phạm tội thường không bị truy cứu.
Quyền
tôn trọng nhân phẩm vẫn còn bị xem nhẹ. Nhâm phẩm là quyền cố hữu, tuyệt đối của
mỗi con người, không thể bị tước đoạt cũng không thể mất đi. Việc đưa một người
vào "Trại phục hồi nhân phẩm", dù mục đích là tốt đẹp, nhưng hành động
của nó rõ ràng xuất phát từ ý thức khinh miệt nhân phẩm con người, nên mới nghĩ
ra chuyện cần "phục hồi" lại nhân phẩm. Việc duy trì các Trại phục hồi
nhân phẩm như hiện nay tại Việt Nam, đặc biệt dùng dể giam giữ những người phụ
nữ bán dâm là sự chà đạp lên nhân phẩm của họ, là sự xúc phạm đến danh dự và uy
tín của họ mãi về sau.
3. Quyền được bảo vệ
bí mật riêng tư
Mời
đọc ở các kỳ tiếp theo...
_________________
Loạt
bài Phản hồi cho Sách trắng dự kiến chia làm 4 kỳ. Các kỳ tiếp theo sẽ sớm được
ra mắt. Loạt bài Phản hồi sẽ được trình bày theo cấu trúc nội dung của Sách trắng,
với các tiểu mục tương ứng nhưng khai thác ở khía cạnh tiêu cực, giới hạn trong
việc thụ hưởng quyền con người ở Việt Nam.
Bạn
đọc quan tâm có thể xem sách trắng về nhân quyền Việt Nam do Bộ Ngoại giao mới
công bố, mô tả việc thụ hưởng quyền con người ở Việt Nam như đang ở "thiên
đường".
Xem
đường links bên dưới:
No comments:
Post a Comment