Đảng và Quân đội Cộng sản Việt Nam đã kéo cơn ác mộng
vỡ đảng từ 2017 qua 2018 với cường độ suy thoái tư tưởng tăng cao hơn trong Lực
lượng Võ tranh Nhân dân (Quân đội, Công an, Dân quân tự vệ). Cùng leo theo là
hiện tượng càng ngày càng nhiều cán bộ, đảng viên xa đảng, lười học tập chính
trị, nghi ngờ vai trò lịch sử của đảng để “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa”.
Sợ hãi của đảng đã chứng minh từ phát biểu của Tổng
Bí thư đảng, Bí thư Quân ủy Trung ương Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Quân chính
toàn quân diễn ra ở Hà Nội ngày 16/12/2017.
Ông Trọng nói: “Các thế lực thù địch đẩy mạnh
các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội bằng nhiều thủ đoạn, trong đó
có chiến lược "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến",
"tự chuyển hóa", "phi chính trị hóa" Quân đội; tình hình tội
phạm, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp; nền kinh tế còn khó khăn, thiên tai,
bão lũ xảy ra ở nhiều nơi…, đã tác động trực tiếp đến nhiệm vụ quân sự, quốc
phòng, xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc.”
Nhưng có ai biết cái gọi là “các thế lực thù
địch” là những ai không, hay ông Trọng chỉ biết nói bâng quơ như thế để
che giấu một thực tế là đảng không còn ngăn được “nạn hồng thủy” sa sút đạo đức,
suy thoái tư tưởng và làn sóng phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản
Hồ Chí Minh đang lan tràn trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên, quân đội và công
an.
Vì vậy, ông Trọng đã yêu cầu: “Tập trung xây
dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng
và nhân dân. Tiếp tục điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân đội, bảo đảm tinh, gọn,
mạnh, có cơ cấu tổ chức hợp lý, ưu tiên cho các lực lượng tiến thẳng lên hiện đại,
các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, biên giới, biển, đảo...
Đẩy mạnh xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật... tập trung xây dựng Đảng bộ
Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội.”
Theo kênh Truyền hình Quốc phòng Việt Nam
(THQP), ngày 15/12/2017 thì ông Trọng còn chỉ thị “Về Xây dựng Đảng,
xây dựng lực lượng” trong Quân đội.
Ông nói: “Thời gian tới quân đội tiếp tục
tăng cường giáo dục xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ chiến sĩ, phòng chống
"tự diễn biến", "tự chuyển hóa", âm mưu diễn biến hòa bình
của các thế lực thù địch.”
Đài THQP viết tiếp: “Tổng Bí thư lưu ý phải
hết sức quan tâm cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, bảo vệ cái đúng, lẽ phải,
bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, đấu tranh cương quyết bác bỏ các luận điệu xuyên tạc.
Quân đội phải đi tiên phong và làm quyết liệt hơn nữa trên lĩnh vực này, nhất
là trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực; phải đồng tâm nhất trí cao hơn nữa; phải
đặc biệt giữ gìn, phát huy uy tín của quân đội. Muốn vậy, kỷ luật kỷ cương phải
nghiêm, xử lý nghiêm các tiêu cực, làm gương cho các nơi khác.”
Nhạt
đảng - chán chính trị
Trong thời gian cuối năm 2017, theo báo Quân đội
Nhân dân (QĐND) ông Nguyễn Phú Trọng đã: “Nhiều lần cảnh báo sự nguy hiểm
khôn lường của hiện tượng “nhạt Đảng, khô Đoàn, chán chính trị” trong đội ngũ
cán bộ, đảng viên mà lười học nghị quyết của Đảng là một nguyên nhân gây nên hiện
tượng trên.”
Than phiền của ông Trọng đã được xác nhận bởi Trưởng
ban Tuyên giáo, Ủy viên Bộ Chính trị Võ Văn Thưởng trong diễn văn ngày
29/11/2017, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc học tập, quán triệt các Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII).
Thưởng yêu cầu toàn đảng: “Phải kiên quyết
khắc phục "căn bệnh" ngại học, lười học nghị quyết, nhất là tình trạng
khai mạc thì đông, cuối giờ thì thưa thớt lấy lý do công việc mà bỏ học Nghị
quyết hoặc học hình thức, chiếu lệ, không chịu suy nghĩ, phân tích để hiểu rõ
những điểm mới, những yêu cầu mới mà tình hình hiện nay đòi hỏi.”
Thưởng đòi đảng viên phải: “Kiên quyết đấu
tranh với những ý kiến không mang tính chất xây dựng, những quan điểm sai trái,
thù địch, gây trở ngại cho quá trình tổ chức thực hiện các Nghị quyết của Đảng.”
Nhưng tại sao lại phát sinh ra tình trạng đảng viên
lười học tập các Nghị quyết và đường lối của đảng?
Nguyên nhân cán bộ, đảng viên lười học, theo giải
thích của báo Quân đội Nhân dân (QĐND) ngày 20/07/2017 thì: “Gần đây,
trong dư luận xã hội, quần chúng nhân dân rất bức xúc trước thực trạng một bộ
phận cán bộ, đảng viên cao tuổi “nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức
với lúc về nghỉ hưu”. Hiện tượng ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân khá
phổ biến là đảng viên khi về nghỉ hưu tự cho mình quyền “nghỉ việc” học tập nghị
quyết của Đảng, dẫn tới không cập nhật được thông tin lý luận mới, phán xét về
các hiện tượng mới nảy sinh trong xã hội bằng tư duy, cách nhìn cũ.”
QĐND viết tiếp: “Một bộ phận đảng viên khác
thì sợ hoặc thờ ơ, xem nhẹ việc học nghị quyết. Họ “hồn nhiên” làm việc riêng,
lướt web, viết status và comment trên mạng xã hội... trong giờ học. Thậm chí,
có những đảng viên dự khóa học 2-3 ngày nhưng không nhớ nổi tên nghị quyết. Đó
là chưa kể một số rất ít đảng viên cậy mình học cao hiểu rộng, tinh thông ngoại
ngữ, tiếp cận tinh hoa tri thức nhân loại nên xem thường nghị quyết của Đảng, họ
thậm chí còn lợi dụng các diễn đàn để nhẹ thì kiến nghị, đề xuất; nặng thì phê
phán, đả kích việc “lãnh đạo bằng nghị quyết” và đòi “tìm kiếm chủ thuyết phát
triển mới”.
Ngoài ra còn có các căn bệnh thờ ơ, lãnh nhạt với
tài liệu đảng như: “Việc tự giác tìm tòi, nghiên cứu để hiểu sâu thêm về
nghị quyết còn có biểu hiện “u ám” hơn. Sách, báo, văn kiện, ấn phẩm chuyên đề
do các tổ chức đảng phát hành đến từng đảng viên nhưng “nằm im” trên kệ sách,
giá báo.”
Báo QĐND còn nói: “Những người lười học, dù
mức độ biểu hiện khác nhau, đều không có động cơ học tập đúng đắn. Họ không xem
việc học nghị quyết là nhu cầu tự thân, học để nâng cao tri thức và hoàn thiện
nhân cách mà chỉ học do sự “bắt buộc” của tổ chức đảng. Họ xem việc học nghị
quyết như một nghĩa vụ. Chính vì động cơ không đúng nên việc học của những người
này chỉ là hình thức, họ sẵn sàng trốn, vắng, bỏ học nếu điều kiện cho phép.”
Nhưng tại sao đảng viên lại chán đảng đến thế, và động
lực nào đã khiến họ coi thường kỷ luật đảng mà không sợ bị trừng phạt?
Nguyên do chính và quan trọng nhất là đảng viên
không còn tin vào những gì đảng viết hay lãnh đạo nói, vì tất cả đều chứa đựng
nhiều dối trá, không phản ảnh tình hình trong xã hội và nhân dân, nhất là khi
có vô số lãnh đạo nói thì hăng tiết vịt mà làm thì chẳng được bao nhiêu, hay
nói một đàng lại làm một lẻo, hay lại chuyên nghề “đánh trống bỏ dùi” từ năm
này qua năm khác.
Tỷ dụ như đảng cứ mãi bắt đảng viên phải “học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nhưng
trong đời sống thì lại thấy quá nhiều lãnh đạo, kể cả những chức danh chủ chốt
lại cứ tự nhiên dùng “Bác Hồ” để chạy cửa hậu hay nhận tiền tỷ dưới gầm bàn để
vinh thân phì gia.
Hay, khi nước Nga, sào huyệt của Chủ nghĩa Cộng sản
đã tan rã từ 1991, và Mác-Lênin chỉ còn là thứ học thuyết trong sọt rác thì đảng
CSVN lại cứ bắt đảng viên, cán bộ và cả nước phải ôm chặt vào tay mà hít hà thứ
cặn bã hôi hám ấy.
Vì vậy mà cán bộ, đảng viên và vô số trong Lực lượng
võ trang đã chán đảng đền tận mang tai. Không thiếu gì người ở Việt Nam bây giờ
chỉ mong sao cho đảng biến mất để được sống yên.
Vì vậy mà đảng đã sợ, nếu không răn đe ngay để tự vệ
thì sẽ có ngày đảng cũng mang số phận như đảng Cộng sản Nga năm 1991.
Trong bài báo ngày 18/05/2017, QĐND đã cảnh
giác: “Như vậy, việc lười học tập nghị quyết của Đảng nói riêng, LLCT
(lý luận chính trị) nói chung là một trong những biểu hiện suy thoái rất nguy
hiểm, nó làm cho cán bộ, đảng viên không nắm được đường lối, quan điểm của Đảng,
chủ trương, biện pháp lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng. Đây là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng, nghị quyết của Đảng dù rất đúng đắn, nhưng chậm
được triển khai, cụ thể hóa và trở thành hiện thực. Thậm chí có những trường hợp,
cán bộ, đảng viên hiểu sai, làm trái với đường lối, nghị quyết của Đảng, gây ra
sự bất bình, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Cũng do lười học tập
LLCT, không nắm chắc, hiểu sâu chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, nên
cán bộ, đảng viên không thể tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân thực hiện.
Do không nắm được nghị quyết của Đảng, nên khi tiếp xúc với quan điểm sai trái,
phản động của các thế lực thù địch xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm,
nghị quyết của Đảng, thì không ít cán bộ, đảng viên tỏ ra lúng túng, thiếu lý lẽ
để “giải thoát” cho chính mình và đấu tranh bác bỏ quan điểm sai trái, phản động,
nhằm bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.”
Cứu
nguy hay tự diệt?
Đó là lý do tại sao Bộ Chính trị, cơ chế quyết định
mọi việc của đảng và nhà nước đã ban hành Quy định 102-QĐ/TW, ngày
7/12/2017 để ngăn ngừa làn sóng bỏ đảng. Quy định này ấn định việc xử lý kỷ luật
đảng viên vi phạm “Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
điều lệ, nghị quyết, quy định của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -
xã hội, cơ quan, đơn vị.”
Nhưng tại sao phải có Quy định này?
Theo Tiến Sĩ Cao Đức Thái, nguyên Viện trưởng Viện
Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, giải thích
trên báo Quân đội Nhân dân (QĐND) ngày 01/01/2018) thì: “Quy định 102
ra đời từ thực tiễn, đó là tình trạng suy thoái về “chính trị, tư tưởng, đạo đức
lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII)
đã chỉ ra là hết sức nghiêm trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nói: “Từ
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có
thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại
lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”.
Từ nguồn gốc này, ông Thái đã bác bỏ những phê bình
và chỉ trích từ mọi phía, trong và ngoài nước và “trong” và “ngoài” đảng đã lên
án Quy định 102 đưa ra chỉ nhằm tiêu diệt dân chủ, chà đạo quyền con người và
xiết chặt độc tài đảng trị để kìm kẹp nhân dân.
Đó là lý do tại sao ông Thái còn bao biện rằng: ”Quy
định 102 là một văn kiện của Đảng nhằm xử lý những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ
luật Đảng và cả những người vi phạm pháp luật của Nhà nước. Văn kiện này thể hiện
rõ trách nhiệm chính trị và đạo đức của Đảng lãnh đạo, cầm quyền. Cho dù những
xuyên tạc ác ý, vu khống thâm độc đến đâu cũng không thể phủ nhận được bản chất
tốt đẹp của Đảng ta.”
Vậy Quy định 102 viết gì và sẽ làm gì để cứu đảng khỏi
tan?
Trước hết hình thức kỷ luật: “Đối với đảng
viên chính thức gồm: Khiển trách, cảnh cáo, cách chức, khai trừ; đối với đảng
viên dự bị: Khiển trách, cảnh cáo.”
Trong số những hình phạt này, “khai trừ khỏi đảng”
là nặng nhất.
Trước hết, sẽ bị khai trừ nếu:
“a) Cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử,
xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của Đảng và
dân tộc.
b) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự",
"đa nguyên, đa đảng".
c) Cố ý đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối,
chính sách của Đảng, Nhà nước; bôi nhọ lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước; truyền
thống của dân tộc, của Đảng và Nhà nước.
d) Lợi dụng dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo
hoạt động gây nguy hại đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
đ) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động
và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập;
vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
e) Hoạt động trong các đảng phái, tổ chức chính trị
phản động.
g) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến,
chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền
thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng.
h) Tác động, lôi kéo, định hướng dư luận xã hội
không theo đường lối của Đảng.
i) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng
vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường
lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân.
k) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo
chí, văn học - nghệ thuật. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật
lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng và các đồng chí lãnh đạo Đảng,
Nhà nước.”
Cũng sẽ bị khai trừ khi một đảng viên:
“a) Vô tổ chức, vô kỷ luật, bỏ vị trí công tác nhiều
lần không có lý do chính đáng; có hành vi chống lại các chủ trương, nghị quyết,
chỉ thị, quyết định, quy định, quy chế, kết luận của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
b) Lợi dụng quyền dân chủ để bè phái, lợi ích nhóm
hoặc lợi ích cục bộ gây mất đoàn kết trong tổ chức, cơ quan, đơn vị nơi mình
sinh hoạt.
c) Trả thù người góp ý, đấu tranh, phê bình, tố cáo
hoặc người cung cấp thông tin, tài liệu, chứng cứ liên quan đến vi phạm của cơ
quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân mình.”
Ngôn
luận - Nhân quyền
Sau những khống chế như thế, cán bộ, đảng viên chỉ
còn là những con cá năm trên thớt khi quyền được nói và tự do tư tưởng phải nộp
cho đảng.
Họ sẽ bị khai trừ nếu:
“a) Không chấp hành kỷ luật phát ngôn và bảo vệ bí mật
của Đảng, Nhà nước, đã để lộ thông tin, tán phát tài liệu, hiện vật không đúng
nguyên tắc, chế độ quy định; tung tin sai lệch về nội bộ Đảng, gây tác động xấu
đến ổn định chính trị, kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và
nhân dân, để kẻ xấu và các lực lượng thù địch, phản động lợi dụng xuyên tạc, chống
phá, hạ thấp uy tín của Đảng, chống phá Nhà nước.
b) Lợi dụng dân chủ, nhân quyền để tuyên truyền chống
Đảng, Nhà nước; cố ý nói, viết, lưu giữ trái phép hoặc tán phát rộng rãi các
thông tin, tài liệu, hiện vật có nội dung trái Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
nghị quyết, chỉ thị của Đảng hoặc đưa lên mạng những nội dung chống lại chủ
trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
c) Kích động, lôi kéo người khác tham gia hội thảo,
tọa đàm không được tổ chức có thẩm quyền cho phép, có nội dung trái chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
d) Lợi dụng quyền bảo lưu ý kiến, quyền tự do ngôn
luận, tự do hội họp để tuyên truyền chống Đảng và Nhà nước, phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
đ) Đảng viên khi có những việc làm sai trái, đã được
cấp có thẩm quyền nhắc nhở, giải thích nhưng không tiếp thu, tiếp tục có bài
nói, viết, phát ngôn, tán phát hồi ký, đơn, thư công kích sự lãnh đạo của Đảng,
bôi nhọ, vu khống làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ
ta.”
Lập
hội - biểu tình
Ngoài ra, Quy định 102 còn răn đe đảng viên trong việc
lập hội, tham gia hội và biểu tình hoặc tập trung đông người, gây mất an ninh,
trật tự.
Điều 23 viết rằng:
“1- Đảng viên vi phạm một trong các trường hợp sau
gây hậu quả ít nghiêm trọng thì kỷ luật bằng hình thức khiển trách:
“a) Tham gia hoặc xúi dục, dụ dỗ người khác tham gia
các hội trái quy định của pháp luật.
b) Tham gia hoặc xúi dục, dụ dỗ, ép buộc người khác
tham gia các cuộc họp, hội thảo, mít tinh trái pháp luật hoặc không được cơ
quan có thẩm quyền của Đảng, Nhà nước cho phép hoặc được phép nhưng lợi dụng để
chống Đảng, Nhà nước.
c) Biết mà không báo cáo, tố cáo, tố giác hành vi vi
phạm pháp luật về trật tự công cộng hoặc vi phạm quyền tự do dân chủ của công
dân.
d) Không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được
giao; có trách nhiệm nhưng không có biện pháp để ngăn chặn, loại trừ nguyên
nhân, điều kiện gây ảnh hưởng xấu đến trật tự công cộng.
đ) Tổ chức, tham gia tập trung đông người trái quy định
của pháp luật ở nơi đang diễn ra các hội nghị quốc tế, kỳ họp Quốc hội, Hội đồng
nhân dân hoặc các hoạt động chính trị quan trọng khác của Đảng, Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội hoặc nơi công cộng khác.
2- Trường hợp đã bị xử lý kỷ luật theo quy định tại
Khoản 1 Điều này mà tái phạm hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau thì kỷ
luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức (nếu có chức vụ):
a) Chủ trì tổ chức hoặc chủ động vận động, xúi dục,
cưỡng ép, mua chuộc người khác tham gia các hội trái quy định.
b) Có hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự
công cộng, cuộc sống bình thường của nhân dân hoặc trái với thuần phong mỹ tục,
nếp sống văn minh nơi công cộng.
c) Lợi dụng các quyền tự do dân chủ của công dân để
tổ chức, tham gia biểu tình, tập trung đông người, gây mất an ninh, trật tự.
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để dung túng, bao
che, tiếp tay dẫn đến xử lý không nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về
trật tự công cộng.
3- Trường hợp vi phạm quy định tại Khoản 1, Khoản 2
Điều này gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc vi phạm một trong các trường hợp sau
thì kỷ luật bằng hình thức khai trừ:
a) Chủ trì, khởi xướng hoặc chủ động tham gia lập
các hội trái quy định của pháp luật; tổ chức hoạt động của hội trái tôn chỉ, mục
đích gây ảnh hưởng xấu trong xã hội.
b) Khởi xướng tôn chỉ, mục đích, nội dung, hình thức;
chủ trì, chuẩn bị kế hoạch, phân công, tập hợp lực lượng, tham gia bàn bạc,
tuyên truyền, vận động, lôi kéo, kích động, mua chuộc, cưỡng ép người khác tham
gia biểu tình, tập trung đông người trái quy định của Đảng và Nhà nước, gây mất
an ninh, trật tự.
c) Hỗ trợ tham gia biểu tình không được cơ quan có
thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan có thẩm quyền cho phép, nhưng lại lợi dụng
hoặc tiếp tay cho các thế lực thù địch lợi dụng để chống Đảng, chống Nhà nước.
d) Có hành vi, việc làm gây cản trở hoạt động của cơ
quan, tổ chức, của cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội gây hậu quả nghiêm trọng.
Như vậy rõ ràng đảng đã biến con người bằng xương bằng
thịt và có lý trí của cán bộ, đảng viên thành những “con người gỗ”, “con robot”
chỉ biết làm theo lệnh của kẻ cầm giây kéo hay bấm nút.
Những cán bộ, đảng viên này buộc phải đứng nhìn đồng
bào bị đàn áp khi họ xuống đường biểu tình đòi công bằng, đòi đền bù đất bị chiếm
bất hợp pháp và đòi xử tội những đảng viên tham nhũng.
Đau đớn nhất cho các đảng viên này là khi, trong số
những người dân bị đàn áp, có cả anh em, bà con ruột thịt của mình.
Người
nước ngoài
Ngoài ra, đảng viên sẽ bị khai trừ nếu vi phạm Điều
26 “quy định về quan hệ với tổ chức, cá nhân người nước ngoài” như:
“a) Quan hệ với tổ chức, cá nhân nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài có hành vi chống Đảng, Nhà nước, làm phương hại đến
lợi ích quốc gia.
b) Biết nhưng vẫn nhận tài trợ của cá nhân, tổ chức
có hoạt động chống Đảng và Nhà nước.
c) Đồng tình, bao che, tiếp tay cho hoạt động của
người nước ngoài hoặc người Việt Nam ở nước ngoài chống Đảng và Nhà nước.
d) Cung cấp, tiết lộ thông tin, tài liệu, hiện vật
thuộc phạm vi bí mật của Đảng và Nhà nước cho nước ngoài, cho cá nhân và tổ chức
chính trị thù địch, phản động dưới mọi hình thức.
đ) Hoạt động trong các đảng phái, tổ chức chính trị
thù địch, phản động nước ngoài.”
Hết
chồng đến chéo
Như vậy, lý do đảng phải có Quy định 102 để cứu nguy
đã rõ ràng, nhưng không ai biết lý do tại sao lại phải có thêm Quy định 102,
trong khi từ 2011, khi ông Trọng lần đầu đắc cử chức Tổng Bí thư đảng khóa XI,
thay Nông Đức Mạnh, đã ban hành Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1/11/2011 về 19 điều
đảng viên không được làm.
Sau đây là nội dung 19 điều cấm của Quy định
này:
I- Những điều đảng viên không được làm:
1- Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của
Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép.
2- Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những
thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép
công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi dục người khác tuyên truyền,
tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm
trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
3- Viết bài, cho đăng tải tin, bài sai sự thật, vu
cáo, bịa đặt hoặc quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử, không đăng tải
ý kiến phản hồi, cải chính theo quy định. Sáng tác, sản xuất, tàng trữ, tán
phát các tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật không lành mạnh, mang tính
kích động gây ảnh hưởng xấu trong xã hội; tán phát bài viết, hồi ký không đúng
sự thật.
4- Tổ chức, xúi dục, tham gia các hoạt động bè phái,
chia rẽ, cục bộ gây mất đoàn kết nội bộ. Lợi dụng việc phát ngôn, nhân danh việc
phản ánh, góp ý kiến đối với Đảng để đả kích, vu cáo, xúc phạm, nhận xét, đánh
giá tùy tiện đối với người khác. Đe doạ, trù dập, trả thù người tố cáo, phê
bình, góp ý.
5- Tố cáo mang tính bịa đặt; viết đơn tố cáo giấu
tên, mạo tên. Cùng người khác tham gia viết, ký tên trong một đơn tố cáo. Tổ chức,
tham gia kích động, xúi dục, mua chuộc, cưỡng ép người khác khiếu nại, tố cáo.
Cố ý gửi hoặc tán phát đơn khiếu nại, tố cáo đến những
nơi không có thẩm quyền giải quyết.
6- Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp
luật; biểu tình, tập trung đông người gây mất an ninh, trật tự.
7- Đảng viên (kể cả cấp ủy viên và đảng viên là cán
bộ diện cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy quản lý) tự ứng cử, nhận đề cử và đề cử
các chức danh của tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị -
xã hội (theo quy định phải do tổ chức đảng giới thiệu) khi chưa được tổ chức đảng
có thẩm quyền cho phép.
8- Quan liêu, thiếu trách nhiệm, bao che, báo cáo
sai sự thật, lạm quyền, nhũng nhiễu khi thực hiện nhiệm vụ.
Thiếu trách nhiệm để cơ quan, đơn vị, địa phương do
mình trực tiếp phụ trách xảy ra tình trạng mất đoàn kết, tham nhũng, buôn lậu,
lãng phí, thất thoát tài sản và các tiêu cực khác.
Có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng), con, anh, chị, em
ruột thực hiện các dự án, kinh doanh các ngành nghề thuộc lĩnh vực hoặc đơn vị
do mình trực tiếp phụ trách trái quy định.
Biết mà không báo cáo, phản ảnh, xử lý các hành vi
tham nhũng; không thực hiện các quy định về bảo vệ người chống tham nhũng.
9- Làm trái quy định trong những việc: quản lý nhà,
đất, tài sản, vốn, tài chính của Đảng và Nhà nước; huy động vốn và cho vay vốn
tín dụng; thẩm định, phê duyệt, đấu thầu dự án; thực hiện chính sách an sinh xã
hội, cứu trợ, cứu nạn; công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, các quy định
trong hoạt động tố tụng.
10- Can thiệp, tác động đến tổ chức, cá nhân để bản
thân hoặc người khác được bổ nhiệm, đề cử, ứng cử, đi học, đi nước ngoài trái
quy định.
Lợi dụng chức vụ được giao để chiếm dụng, vay, mượn
tiền, tài sản của đối tượng trực tiếp quản lý trái quy định.
Ép buộc, mua chuộc cá nhân hoặc tổ chức để bao che,
giảm tội cho người khác.
11- Chủ trì, tham mưu, đề xuất, tham gia ban hành
các văn bản trái quy định. Tạo điều kiện hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng),
con, anh, chị, em ruột lợi dụng chức vụ, vị trí công tác của mình nhằm trục lợi.
12- Đưa, nhận, môi giới hối lộ; môi giới làm thủ tục
hành chính hoặc lợi dụng vị trí công tác để môi giới hưởng thù lao dưới mọi
hình thức trái quy định. Đưa, nhận hoa hồng hoặc môi giới đưa, nhận hoa hồng
trái quy định.
13- Báo cáo, lập hồ sơ, kê khai lý lịch, lịch sử bản
thân không trung thực; kê khai tài sản, thu nhập không đúng quy định; mở tài
khoản ở nước ngoài trái quy định; tham gia hoạt động rửa tiền.
14- Tổ chức du lịch, tặng quà, giải trí để lợi dụng
người có trách nhiệm dẫn đến việc ban hành quyết định sai, có lợi riêng cho bản
thân hoặc tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp mà mình tham gia.
15- Dùng công quỹ để thăm viếng, tiếp khách, tặng
quà, xây dựng công trình, mua sắm trang thiết bị, phương tiện làm việc, đi lại,
thông tin liên lạc vượt quá tiêu chuẩn, định mức hoặc trái quy định.
Chiếm giữ, cho thuê, cho mượn tài sản, cho vay quỹ của
Nhà nước, cơ quan, đơn vị, tổ chức được giao quản lý, sử dụng trái quy định.
16- Tự mình hoặc có hành vi để bố, mẹ, vợ (chồng),
con, anh, chị, em ruột đi du lịch, tham quan, học tập, chữa bệnh ở trong nước
hoặc ngoài nước bằng nguồn tài trợ của tổ chức trong nước hoặc tổ chức, cá nhân
nước ngoài khi chưa được phép của cơ quan có thẩm quyền.
17- Tổ chức, tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức;
cho vay trái quy định của pháp luật; sử dụng các chất ma túy; uống rượu, bia đến
mức bê tha và các tệ nạn xã hội khác.
Vi phạm đạo đức nghề nghiệp; có hành vi bạo lực
trong gia đình, vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, sống chung
với người khác như vợ chồng; bản thân hoặc để con kết hôn với người nước ngoài
trái quy định.
18- Mê tín, hoạt động mê tín (đốt đồ mã, hành nghề đồng
cốt, thầy cúng, thầy bói). Lập đền, miếu, nơi thờ tự của các tôn giáo trái
phép; ủng hộ hoặc tham gia tôn giáo bất hợp pháp; tham gia các tổ chức do tôn
giáo lập ra chưa được cấp có thẩm quyền cho phép. Lợi dụng tín ngưỡng để trục lợi.
19- Tổ chức việc cưới, việc tang, các ngày lễ, tết,
sinh nhật, kỷ niệm ngày cưới; mừng thọ, mừng nhà mới, lên chức, lên cấp, chuyển
công tác xa hoa, lãng phí hoặc nhằm trục lợi.”
Như vậy phải chăng từ 2011 đến 2017, tổng cộng 6 năm
dài, 19 điều “trái cấm” đối với đảng viên chỉ là trò chơi sấp ngửa giữa sân
đình. Tuy phần lớn nói đến chống tham nhũng, cửa quyền và nạn bè phái, nhưng nội
dung của 19 Điều cũng được lập lại trong 37 Điều của Quy định 102.
Đó là điều đáng quan tâm vì nó thể hiện tình trạng
trên bảo dưới không nghe. Cũng giống như chuyện đảng viên lười học tập lý luận
chính trị hay các nghị quyết của đảng, việc thi hành 19 điều cấm kỵ của ông
Nguyễn Phú Trọng không đi đến đâu mà nhiều lĩnh vực còn nghiêm trọng hơn như
tham nhũng, suy thoái đạo đức, lối sống.
Riêng trong lĩnh vực chính trị thì tình trạng mất định
hướng, công khai nói xấu Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh,
hoặc công khai phản bác quan điểm, đường lối của đảng để hướng sang Tư bản Chủ
nghĩa đã lộ ra trong khắp mọi ngành nghề và tổ chức đảng.
Cũng với làn sóng mà đảng răn đe sẽ trừng phạt trong
Quy định 102, phong trào đòi Dân chủ và các quyền Tự do tư tưởng và tự do báo
chí cũng đang là nỗi lo quắt lòng của ông Nguyễn Phú Trọng.
Đó cũng là lý do tại sao trong hai năm, từ 2016 đến
2017, ông Trọng đã tập trung đánh kẻ tham nhũng, lãng phí và gây thua lỗ nghiêm
trọng trong các dự án kinh tế để lấy lại uy tín trong nhân dân, và để bảo vệ
cho đảng không vỡ ngay trong nhiệm kỳ còn lại của ông (2021).
11.01.2018
No comments:
Post a Comment